- 1. Điều kiện để công dân quyền bầu cử, ứng cử
- 1.1 Điều kiện để nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử
- 1.2 Những trường hợp không có quyền bầu cử, ứng cử
- 2. 4 nguyên tắc bầu cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân
- 2.1 Nguyên tắc phổ thông trong bầu cử
- 2.2 Nguyên tắc bình đẳng trong bầu cử
- 2.3 Nguyên tắc bầu cử trực tiếp
- 2.4 Nguyên tắc bỏ phiếu kín
1. Điều kiện để công dân quyền bầu cử, ứng cử
1.1 Điều kiện để nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử
Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử, đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
1.2 Những trường hợp không có quyền bầu cử, ứng cử
Theo căn cứ Điều 30 của Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân số 85/2015/QH13, công dân sẽ không có quyền bầu cử, ứng cử thuộc một trong những trường hợp dưới đây:
Người đang bị tước quyền ứng cử theo bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực, người đang chịu án tù hoặc bị hạn chế, mất năng lực hành vi dân sự.
Người đang bị khởi tố bị can.
Người đang chịu án từ Pháp luật, quyết định hình sự của Toà án.
Người tuy đã chấp hành xong bản án nhưng chưa được xoá án tích từ Toà án.
Người đang chịu biện pháp xử lý đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, sở cai nghiện của xã, phường, thị trấn.
2. 4 nguyên tắc bầu cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân
Theo điều 7 của Hiến pháp 2013 và Điều 1 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, có 04 nguyên tắc bầu cử: Nguyên tắc phổ thông trong bầu cử, nguyên tắc bình đẳng, nguyên tắc bầu cử trực tiếp và nguyên tắc bỏ phiếu kín.
2.1 Nguyên tắc phổ thông trong bầu cử
Nguyên tắc phổ thông nhấn mạnh tính rộng rãi, phổ biến của công dân trong quá trình bỏ phiếu bầu cử.
Nguyên tắc này đảm bảo mọi công dân không quan trọng vùng miền, dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú,...Những người đủ điều kiện để bầu cử (như trên) đều được trao quyền bầu cử.
Ý nghĩa của nguyên tắc này là đảm bảo Nhà nước tiến hành cuộc bầu cử trở thành cuộc sinh hoạt chính trị quy mô cả nước. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi để công dân bỏ phiếu bầu cử, đảm bảo tính dân chủ, chính xác, công khai của kết quả.
Ví dụ, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đòng nhân dân quy định như sau:
Ngày bầu cử phải diễn ra vào ngày Chủ nhật và được Quốc hội công bố ít nhất 115 ngày trước ngày bầu cử.
Các tổ chức chịu trách nhiệm tổ chức bầu cử phải được thành lập công khai và có sự tham gia đại diện từ các cơ quan nhà nước.
Thời gian bỏ phiếu được quy định từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối trên toàn quốc (trừ những trường hợp đặc biệt theo quy định của Luật).
Mọi công dân có đăng ký cư trú thường xuyên hoặc tạm trú đều được ghi tên vào danh sách cử tri.
Danh sách cử tri phải được niêm yết công khai ít nhất 40 ngày trước ngày bầu cử.
Danh sách ứng cử viên cũng được lập và công khai ít nhất 20 ngày trước ngày bầu cử để cử tri có thể tìm hiểu và lựa chọn.
2.2 Nguyên tắc bình đẳng trong bầu cử
Nguyên tắc bình đẳng nhấn mạnh tính bình đẳng, ngang bằng về quyền lợi của mỗi công nhân trong quá trình tham gia bầu cử. Nhà nước nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới mọi hình thức
Mỗi cử tri khi tham gia bầu cử đều được cấp 01 tấm phiếu, mỗi tấm phiếu bầu có giá trị như nhau. Không phân biệt màu gia, tôn giáo, sắc tộc, vùng miền,...
Nguyên tắc bình đẳng được thực hiện như sau:
Một người tham gia chỉ được ghi tên vào một danh sách cử tri nơi họ cư trú
Mỗi công dân chỉ được điền tên vào danh sách 1 đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thuộc 01 đơn vị hành chính ở cấp độ tương ứng
Mỗi cử tri chỉ được quyền bỏ 01 phiếu bầu
Giá trị các phiếu bầu là như nhau, không có sự phân biệt trên mọi khía cạnh
Nguyên tắc này đòi hỏi nhà nước phải có sự phân bố cơ cấu hợp lý, thành phần, số lượng đại biểu,... để đảm bảo kết quả là tiếng nói đại diện của cả vùng, miền, địa phương.
2.3 Nguyên tắc bầu cử trực tiếp
Bầu cử trực tiếp đồng nghĩa với việc cử tri thể hiện ý chí của mình trực tiếp thông qua việc bỏ phiếu, và cử tri trực tiếp bầu ra đại biểu của họ mà không thông qua một tầng cử tri đại diện nào.
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp đòi hỏi rằng cử tri không được phép ủy quyền, bầu thay hoặc bầu qua thư từ. Cử tri phải tự mình đưa phiếu bầu vào hòm phiếu.
Trường hợp cử tri không thể tự viết phiếu bầu, họ có thể nhờ người khác viết giúp, nhưng vẫn phải tự mình bỏ phiếu; người viết giúp phải đảm bảo bí mật phiếu bầu của cử tri. Nếu cử tri không thể tự bỏ phiếu do tàn tật, họ có thể nhờ người khác bỏ phiếu thay mình vào hòm phiếu.
Nếu cử tri bị ốm đau, già yếu hoặc tàn tật không thể đến trực tiếp để bỏ phiếu, tổ chức bầu cử sẽ mang đến nơi cư trú của cử tri một hòm phiếu phụ và phiếu bầu, để cử tri có thể nhận phiếu bầu và hoàn tất các thủ tục bỏ phiếu.
Với nguyên tắc bầu cử gián tiếp, cử tri không bầu trực tiếp cho người đại diện của mình, mà bầu ra thành viên của một tuyển cử đoàn, và sau đó tuyển cử đoàn mới bầu ra các đại diện cơ quan hoặc chức danh nhà nước.
2.4 Nguyên tắc bỏ phiếu kín
Nguyên tắc bảo mật phiếu bầu nhằm đảm bảo không có sự theo dõi hoặc kiểm soát từ bên ngoài đối với quá trình thể hiện ý chí (bỏ phiếu) của cử tri. Mục đích của nguyên tắc này là đảm bảo tự do tuyệt đối trong việc thể hiện ý chí của cử tri.
Theo Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, quá trình bầu cử đại biểu Quốc hội được thực hiện thông qua việc bỏ phiếu kín. Điều này đảm bảo rằng cử tri có quyền bầu ai hoặc không bầu ai một cách bí mật.
Khi cử tri viết phiếu bầu, không ai được phép tiếp cận, kể cả các cán bộ và nhân viên chịu trách nhiệm quản lý bầu cử; không ai được biết và can thiệp vào quá trình viết phiếu bầu của cử tri. Cử tri viết phiếu trong một buồng riêng tư và sau đó bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Về tầm quan trọng của bốn nguyên tắc này, ông Vũ Văn Phúc - Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương đã cho biết rằng bốn nguyên tắc bầu cử là một thể thống nhất, khi thiếu sót trong bất kỳ nguyên tắc nào cũng sẽ ảnh hưởng đến các nguyên tắc khác.
Nhà nước đã chuyển các nguyên tắc này thành các quy định pháp luật để đảm bảo các chủ thể phải tuân thủ. Có những nguyên tắc được quy định rõ trong một quy định đơn lẻ, còn những nguyên tắc khác được thể hiện thông qua nhiều quy phạm pháp luật khác nhau.
Bầu cử là một cơ chế quan trọng của chế độ dân chủ, là cơ sở hợp pháp để hình thành chức danh và cơ quan lãnh đạo của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, đặc biệt là Đảng Cộng sản cầm quyền.
Thiết kế và thực hiện một chế độ bầu cử tiến bộ, phù hợp và thực sự dân chủ là một công việc quan trọng hàng đầu đối với mọi cơ quan chính quyền nhà nước cũng như tất cả các tổ chức chính trị và tổ chức xã hội ở Việt Nam hiện nay.
3. Giải đáp thắc mắc liên quan đến bầu cử
Ngày bầu cử là ngày nào?
Ngày bầu cử được thực hiện vào ngày chủ nhật, được công bố ít nhất 115 ngày trước ngày.
Quy trình bầu cử diễn ra như thế nào?
Có 06 bước trong quy trình bầu cử, gồm:
Bước 1: Đến khu vực bầu cử vào thời gian cho phép.
Bước 2: Tìm hiểu danh sách ứng cử viên được niêm yết trong khu vực, tìm hiểu thông tin kỹ càng
Bước 3: Nhận phiếu bầu cử sau khi đưa thẻ cử tri. Tại bàn phiếu, cử tri đưa thẻ cử tri để được nhận phiếu bầu cử. Tiếp theo, cử tri sẽ nhận được 1 phiếu bầu cử Đại Biểu Quốc Hội và 3 phiếu bầu Hội Đồng Nhân Dân cấp xã, huyện và tỉnh
Bước 4: Bước quan trọng nhất, điền đầy đủ và đúng thông tin phiếu.
Bước 5: Đích thân bỏ và hòm phiếu sau khi cử tri viết xong phiếu bầu cử.
Bước 6: Đóng dấu xác nhận “đã bỏ phiếu”.
Kết luận
Bài viết trên đã giúp độcc giả có thêm thông tin quan trọng về những nguyên tắc bầu cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân.