Cách loại trừ rủi ro khi sử dụng nhãn hiệu khác với nhãn hiệu đã đăng ký

Sau một số năm thương mại hóa sản phẩm dựa trên nhãn hiệu đã đăng ký, nhiều chủ nhãn hiệu muốn làm mới diện mạo cho nhãn hiệu của họ bằng cách biến đổi một số thành phần để làm cho nhãn hiệu bắt mắt hơn, dễ tiếp cận với công chúng hơn. Điều này đã khiến chủ nhãn hiệu phải trả cái giá không hề rẻ.

1. Các vụ tranh chấp nhãn hiệu trên thực tế do sử dụng nhãn hiệu khác với đăng ký


(#1) Vụ kiện nhãn hiệu ASANZO và ASANO

Thời gian vừa qua, báo đài từng rầm rộ về tranh chấp giữa Công ty TNHH Thương mại và Sản xuất Đông Phương (nguyên đơn) và Công ty Cổ phần Điện tử Asanzo Việt Nam (bị đơn). Đây chính là một ví dụ điển hình về rủi ro pháp lý khi sử dụng nhãn hiệu khác với nhãn hiệu đã đăng ký.

Công ty TNHH Thương mại và Sản xuất Đông Phương, chủ sở hữu nhãn hiệu “ASANO (cách điệu)” đã khởi kiện Công ty Cổ phần Điện tử Asanzo Việt Nam, vì sử dụng dấu hiệu “ASANZO (cách điệu)” tương tự với nhãn hiệu đã đăng ký của công ty này.

Trong khi đó, Công ty Cổ phần Điện tử Asanzo Việt Nam cho rằng việc sử dụng nhãn hiệu “ASANZO, hình” là hợp pháp vì Cục Sở hữu Trí tuệ (“Cục SHTT”) đã cấp đăng ký cho nhãn hiệu “ASANZO”.

Dưới đây là chi tiết hình ảnh các nhãn hiệu:

Nhãn hiệu đã đăng ký của nguyên đơn

Nhãn hiệu của bị đơn

http://vietthink.vn/FileUpload/Images/anh__47.jpg

Nhãn hiệu đã đăng ký

http://vietthink.vn/FileUpload/Images/anh__48.jpg

Nhãn hiệu sử dụng trên thực tế

http://vietthink.vn/FileUpload/Images/anh__49.jpg

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định, mặc dù nhãn hiệu “ASANZO” đã được bảo hộ cho bị đơn, việc sử dụng dấu hiệu “ASANZO, hình” của bị đơn vẫn cấu thành hành vi xâm phạm đối với nhãn hiệu đang được bảo hộ của nguyên đơn, theo đó, buộc bị đơn phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi và cải chính công khai, bồi thường thiệt hại 100.000.000 đồng.

(#2) Vụ tranh chấp nhãn hiệu ENAT 400 và. E-NAT Plus xử lý bằng biện pháp hành chính

Một vụ việc tương tự là Mega Lifescience, một công ty dược phẩm của Thái Lan đã yêu cầu Cơ quan thực thi Việt Nam xử lý hành vi xâm phạm nhãn hiệu đối với Công ty TNHH Dược phẩm Hiệp Thuận Thành.

Dưới đây là ảnh chụp các nhãn hiệu liên quan:

Nhãn hiệu đã đăng ký của Mega Lifescience

Nhãn hiệu của Công ty Hiệp Thuận Thành

Cách loại trừ rủi ro khi sử dụng nhãn hiệu khác với nhãn hiệu đã đăng ký

Nhãn hiệu đã đăng ký

Nhãn hiệu sử dụng trên thực tế

Cách loại trừ rủi ro khi sử dụng nhãn hiệu khác với nhãn hiệu đã đăng ký

Sau quá trình xem xét, cơ quan thực thi Việt Nam kết luận rằng: mặc dù nhãn hiệu “E-NATPLUS” đã được bảo hộ cho Công ty Hiệp Thuận Thành, việc sử dụng dấu hiệu “E-NAT Plus” cho các sản phẩm dược phẩm thuộc nhóm 05 bởi Công ty này, tuy nhiên hành vi của công ty vẫn xâm phạm đối với nhãn hiệu “ENAT 400” của Mega Lifescience.

Theo đó, hơn 700 hộp sản phẩm “E-NAT Plus” đã bị thu giữ tại một hiệu thuốc tại Hapulico – nơi được coi là chợ thuốc của Hà Nội.

(#3) Vụ tranh chấp nhãn hiệu HAICNEAL và DIACNEAL tại Cục SHTT

Năm 2003, Dihon Pharmaceutical là đơn vị đã nộp đơn đăng ký nhãn hiệu “HAICNEAL” cho các sản phẩm dược thuộc nhóm 05. Tuy nhiên, sau đó, Cục Sở hữu trí tuệ từ chối bảo hộ vì cho rằng tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đối chứng “DIACNEAL” cho các sản phẩm “mỹ phẩm” thuộc nhóm 03 và “dược phẩm” thuộc nhóm 05 được bảo hộ Đăng ký quốc tế (ĐKQT) số 462008.

Dưới đây là ảnh chụp các nhãn hiệu liên quan:

Nhãn hiệu xin đăng ký

Nhãn hiệu đối chứng

Đơn số: 4-2003-06021

Nhóm: 05 (Dược phẩm)

DIACNEAL

ĐKQT số 462008

Nhóm: 03 (mỹ phẩm) và 05 (dược phẩm)

Dihon Pharmaceutical tiếp tục nộp đơn tới Cục Sở hữu Trí tuệ yêu cầu chấm dứt hiệu lực Đăng ký quốc tế (ĐKQT) số 462008, bảo hộ nhãn hiệu “DIACNEAL” cho các sản phẩm dược thuộc nhóm 05 với lý do nhãn hiệu này không được sử dụng cho các sản phẩm dược thuộc nhóm 05.

Phản bác lại yêu cầu của Dihon Pharmaceutical, chủ nhãn hiệu, PIERRE FABRE DERMO-COSMETIQUE, đã cung cấp các tài liệu để chứng minh quá trình đăng ký lưu hành sản phẩm tại Bộ Y tế và mẫu sản phẩm kem trị mụn đã bán tại thị trường Việt Nam.

PIERRE FABRE DERMO-COSMETIQUE cho rằng các tài liệu nộp tại Bộ Y tế và mẫu sản phẩm kem trị mụn đã chứng minh nhãn hiệu “DIACNEAL” được sử dụng cho sản phẩm dược mỹ phẩm.

Sau hơn 5 năm, vào năm 2010, Cục Sở hữu Trí tuệ chấm dứt hiệu lực đối với nhãn hiệu “DIACNEAL” theo ĐKQT số 462008 cho các sản phẩm thuộc nhóm 05 và cho rằng, các tài liệu, chứng cứ do PIERRE FABRE DERMO-COSMETIQUE cung cấp cho thấy sản phẩm kem trị mụn gắn nhãn hiệu “DIACNEAL” được coi là một dòng mỹ phẩm, khác với sản phẩm dược phẩm mà nhãn hiệu này đang được bảo hộ.

(#4) Vụ yêu cầu chấm dứt hiệu lực nhãn hiệu do sử dụng không đúng cách

Nhãn hiệu TWITTER BEAN COFFEE On Your Hands và hình đầu chú chim cách điệu đã được đăng ký bảo hộ. Tuy nhiên, bên thứ ba nộp đơn yêu cầu Cục SHTT chấm dứt hiệu lực nhãn hiệu đã đăng ký của chủ nhãn hiệu này vì cho rằng: nhãn hiệu đã đăng ký không được sử dụng tại Việt Nam trong thời hạn 5 năm liên tục.

Bác bỏ yêu cầu đó, chủ nhãn hiệu cung cấp các bằng chứng cho Cục SHTT nhằm chứng minh rằng nhãn hiệu vẫn đã và đang được sử dụng.

Cuối cùng, Cục SHTT đã ra quyết định chấm dứt hiệu lực nhãn hiệu đã đăng ký của chủ nhãn hiệu trên cơ sở rằng các bằng chứng chỉ chứng minh chủ nhãn hiệu sử dụng một phần của nhãn hiệu là dòng chữ “TWITTER BEAN COFFEE”, các bằng chứng do chủ nhãn hiệu đã không chứng minh một cách thoả đáng rằng chủ nhãn hiệu đã sử dụng nhãn hiệu như đã đăng ký.

Nhãn hiệu đã đăng ký 

Nhãn hiệu sử dụng trên thực tế





TWITTER BEAN COFFEE

2. Rủi ro khi sử dụng nhãn hiệu không giống như mẫu nhãn hiệu đã đăng ký

2.1 Rủi ro xâm phạm nhãn hiệu của người khác

Sử dụng nhãn hiệu là việc gắn nhãn hiệu lên hàng hóa hay các phương tiện dịch vụ nhằm giúp người tiêu dùng phân biệt được hàng hóa cùng loại được sản xuất/kinh doanh bởi các chủ thế khác nhau. Như vậy, về bản chất, nhãn hiệu phải thực hiện chức năng phân biệt/chỉ ra nguồn gốc thương mại của hàng hoá/dịch vụ gắn nhãn hiệu.

Sau khi được cấp đăng ký, chủ sở hữu có quyền “gắn” nhãn hiệu lên các hàng hoá/dịch vụ đã đăng ký theo nhãn hiệu đó để tiến hành các hoạt động thương mại hợp pháp tại Việt Nam.

Trong bốn vụ việc nêu trên, các bị đơn đều đã đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của họ tại Việt Nam. Như vậy, theo luật, họ là chủ sở hữu hợp pháp của nhãn hiệu đã đăng ký và có quyền sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký để thương mại hóa các sản phẩm mang nhãn hiệu được bảo hộ của họ tại Việt Nam.

Tuy nhiên, chủ nhãn hiệu đã sử dụng nhãn hiệu không giống như mẫu nhãn hiệu đã đăng ký trước đó.

Phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu đã đăng ký phụ thuộc vào:

  • Mẫu nhãn hiệu;

  • Danh mục hàng hoá/dịch vụ được xác định tại Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu.

Nếu như mẫu nhãn hiệu bạn sử dụng khác với nhãn hiệu đã đăng ký, việc sử dụng nhãn hiệu có khả năng vượt quá phạm vi bảo hộ của pháp luật.

Luật pháp Việt Nam không có quy định cụ thể rằng chủ sở hữu phải sử dụng nhãn hiệu như nó vốn đã được đăng ký. Tuy nhiên, nếu việc sử dụng nhãn hiệu vượt quá phạm vi bảo hộ, khiến cho người tiêu dùng liên quan có nguy cơ gây nhầm lẫn, bạn có thể phải đối mặt với nhiều rủi ro.

Ngoài các chế tài hành chính, chủ nhãn hiệu còn phải bồi thường thiệt hại vật chất và tinh thần, xin lỗi, cải chính công khai thông qua cơ chế dân sự. Nhưng nặng nề nhất chính là đánh mất đi hình ảnh đẹp trong mắt người tiêu dùng.

2.2 Nguy cơ mất quyền nhãn hiệu

Sử dụng nhãn hiệu khác với nhãn hiệu đã đăng ký có thể khiến chủ sở hữu nhãn hiệu rơi vào nguy cơ mất quyền đối với nhãn hiệu. Bên thứ ba có thể yêu cầu Cục Sở hữu Trí tuệ Việt Nam chấm dứt hiệu lực một nhãn hiệu đã đăng ký nếu nhãn hiệu đó không được chủ nhãn hiệu hoặc người được chủ nhãn hiệu cho phép sử dụng trong thời hạn 5 năm liên tục kể từ ngày đăng ký.

Sử dụng một nhãn hiệu khác với mẫu nhãn hiệu đã đăng ký có thể đồng nghĩa với việc bạn đã không sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký. Do đó, Cục Sở hữu Trí tuệ sẽ có thể chấm dứt hiệu lực vì lý do không sử dụng.

3. Sử dụng nhãn hiệu đúng cách là như thế nào? 

Luật pháp và thực tiễn Việt Nam không có định nghĩa rõ ràng về “sử dụng nhãn hiệu đúng cách”.

Tuy nhiên, với tư cách là thành viên của Công ước Paris, để sử dụng nhãn hiệu đúng cách, có thể tham chiếu Điều 5.C.2 của Công ước, quy định về việc sử dụng nhãn hiệu như sau:

“Việc chủ nhãn hiệu hàng hóa sử dụng nhãn hiệu theo mẫu khác biệt về chi tiết, nhưng không làm thay đổi tính phân biệt của nhãn hiệu theo mẫu đã được đăng ký tại một nước thành viên bất kỳ của Liên minh sẽ không dẫn tới việc đình chỉ đăng ký và không thể hạn chế sự bảo hộ đã dành cho nhãn hiệu”. Như vậy, về nguyên tắc, chủ nhãn hiệu có thể sử dụng nhãn hiệu khác với mẫu nhãn hiệu đã đăng ký, miễn là nhãn hiệu khác đó “không làm thay đổi tính phân biệt của nhãn hiệu”, thì sẽ “không dẫn tới việc đình chỉ đăng ký và không thể hạn chế sự bảo hộ đã dành cho nhãn hiệu”.

Nói cách khác, sử dụng nhãn hiệu khác với nhãn hiệu đã đăng ký vẫn cấu thành việc sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký miễn là đặc tính phân biệt của nhãn hiệu không bị thay đổi.

Mục đích của điều luật này là cho phép chủ sở hữu nhãn hiệu tạo ra các thay đổi trong nhãn hiệu mà không làm thay đổi đặc điểm phân biệt của nó, giúp nhãn hiệu có thể thích nghi tốt hơn với các yêu cầu tiếp thị và quảng bá của hàng hóa hoặc dịch vụ liên quan.

Tuy nhiên, sự thay đổi phải nằm ở các yếu tố không có khả năng phân biệt đáng kể và (các) dấu hiệu được sử dụng trong thực tế và nhãn hiệu đã đăng ký phải cơ bản giống nhau.

4. Có phải sử dụng nhãn hiệu giống hệt như khi đăng ký?

Câu hỏi này xuất phát từ thực tế sử dụng nhãn hiệu tại Việt Nam, do trong quá trình sử dụng nhãn hiệu trong thương mại, chủ nhãn hiệu có khuynh hướng:

  • Thay đổi thiết kế/màu sắc hoặc cách điệu nhãn hiệu đã đăng ký;
  • Bỏ bớt/loại bỏ một thành phần trong nhãn hiệu đã đăng ký;
  • Thêm vào nhãn hiệu đã đăng ký một số thành phần mới.

Nhiều chủ nhãn hiệu cho rằng, điều quan trọng nhất là nhãn hiệu của họ đã được đăng ký. Do đó, việc thực hiện một số thay đổi đối với nhãn hiệu sẽ không làm nảy sinh các ảnh hưởng tiêu cực hoặc dẫn tới khả năng xâm phạm nhãn hiệu của tổ chức/cá nhân khác hay khiến cho nhãn hiệu đã đăng ký sẽ bị chấm dứt hiệu lực. Sự thật không phải như vậy.

Bốn vụ việc nêu trên là minh chứng điển hình cho các rủi ro mà chủ nhãn nhãn hiệu phải đối mặt khi sử dụng nhãn hiệu khác biệt với mẫu nhãn hiệu đã đăng ký. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp cứ thực hiện một số thay đổi đối với nhãn hiệu đã đăng ký sẽ đều dẫn đến các rủi ro như trên.

4.1 Thay đổi thiết kế, màu sắc hoặc cách điệu nhãn hiệu đã đăng ký 

STT

Nhãn hiệu đã đăng ký

Thực tế sử dụng

Có sử dụng đúng cách không?

1

Cách loại trừ rủi ro khi sử dụng nhãn hiệu khác với nhãn hiệu đã đăng ký
http://file.scourt.go.kr/tempfiles/1215133167074_095927.jpg

Dù thiết kế/bố cục được thay đổi, nhưng các yếu tố có khả năng phân biệt không bị thay đổi.

2

GERIVAN

Màu sắc được thay đổi, nhưng các yếu tố đặc biệt chính của “GERIVAN” không bị thay đổi.

3

INSAN

Thiết kế/bố cục được thay đổi, làm cho nhãn hiệu khá khác biệt với yếu tố chữ, khiến cho nhãn hiệu này đối mặt với nguy cơ bị coi là “IN-S-AN” và chịu rủi ro khá cao.

4

Cách loại trừ rủi ro khi sử dụng nhãn hiệu khác với nhãn hiệu đã đăng ký
Cách loại trừ rủi ro khi sử dụng nhãn hiệu khác với nhãn hiệu đã đăng ký

Không được coi là sử dụng đúng cách vì nhãn hiệu đã đăng ký không còn được nhận biết một cách độc lập => Làm thay đổi khả năng phân biệt của nhãn hiệu đã đăng ký.

5

Các đặc điểm phân biệt như chữ “GERIVAN” và hình cá mập không còn giữ trong nhãn hiệu sử dụng trên thực tế nên bị coi là sử dụng nhãn hiệu không đúng với nhãn hiệu đăng ký.

Nhận xét: Nhìn chung, chủ nhãn hiệu có thể thực hiện một số thay đổi về kiểu chữ, cách điệu, thiết kế, màu sắc đối với nhãn hiệu đã đăng ký mà không ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu lực hay phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu nếu các thay đổi đó không làm biến đổi đặc tính phân biệt của nhãn hiệu đã đăng ký.

4.2 Thêm các yếu tố mới vào nhãn hiệu đã đăng ký

STT

Nhãn hiệu đã đăng ký

Thực tế sử dụng

Có sử dụng đúng cách không?

1

Các yếu tố được thêm vào khá đơn giản, làm cho yếu tố phân biệt của nhãn hiệu trong thực tế sử dụng vẫn là "CROWN". Do đó, việc sử dụng thực tế có thể được coi là sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký.

2

CONY

CONY BRAND

“BRAND” là một từ phổ biến được sử dụng trong nhiều nhãn hiệu, nó rất yếu về tính phân biệt. Do đó, mặc dù có thêm “BRAND”, yếu tố phân biệt chính của nhãn hiệu trong thực tế sử dụng vẫn là “CONY”. Do đó, việc sử dụng thực tế có thể được coi là sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký.

3

SUNNY

"so fresh so good" có thể được coi là mô tả của hàng hóa được chỉ định. Do đó, mặc dù được bổ sung thêm cụm từ "so fresh so good", yếu tố phân biệt chính của nhãn hiệu trong thực tế sử dụng vẫn là "SUNNY". Do đó, việc sử dụng thực tế có thể được coi là sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký.

4

GREEN

GREEN CORPORATION

“CORPORATION” biểu thị một loại hình công ty. Do đó, bằng cách sử dụng “Green Corporation”, có thể hiểu rằng cụm từ đề cập đến tên công ty chứ không phải nhãn hiệu => nguy cơ bị cho là “sử dụng sai cách” là khá cao.

Nhận xét: Nhìn chung, một số dấu hiệu có thể được sử dụng đồng thời mà không làm thay đổi đặc tính phân biệt của dấu hiệu đã đăng ký. Nếu phần bổ sung không có tính phân biệt, hay có khả năng phân biệt “yếu” hoặc không nổi bật/chủ đạo, thì nó không làm thay đổi đặc tính phân biệt của nhãn hiệu thương mại đã đăng ký

4.3 Bỏ bớt một phần của nhãn hiệu đã đăng ký

STT

Nhãn hiệu đã đăng ký

Thực tế sử dụng

Có sử dụng đúng cách không?

1

Cách loại trừ rủi ro khi sử dụng nhãn hiệu khác với nhãn hiệu đã đăng ký

CONTINENTAL

Tại Việt Nam, ký tự tiếng Trung được coi là không có khả năng phân biệt, điều này làm cho thành phần chính có khả năng phân biệt là “CONTINETAL”. Do đó, việc sử dụng thành phần chính có khả năng phân biệt có thể đủ cho mục đích chứng minh rằng nhãn hiệu đã đăng ký đã được sử dụng

2

Phần chữ và phần hình của nhãn hiệu đã đăng ký đều có khả năng phân biệt. Do đó, việc bỏ bớt phần hình sẽ khiến cho nhãn hiệu sử dụng thực tế đối mặt với nguy cơ bị coi là sử dụng nhãn hiệu sai cách.

3

(Hàng hóa mang nhãn hiệu: Hàng may mặc)

“TEX” có thể được coi là mô tả của hàng hóa được chỉ định, làm cho “SCABAL” trở thành phần phân biệt chính của nhãn hiệu. Do đó, việc sử dụng thực tế phần quan trọng như vậy có thể đủ để chứng minh rằng nhãn hiệu đã đăng ký đã được sử dụng.

4

SCABAL BUBBLEKAT


BUBBLEKAT

Cả hai yếu tố “SCABAL” và “BUBBLEKAT” đều có khả tự phân biệt của nhãn hiệu đã đăng ký góp phần tạo nên đặc tính phân biệt của nó. Do đó, việc bỏ bớt một trong các yếu tố đó nhãn hiệu được sử dụng trên thực tế có khả năng làm thay đổi đặc điểm phân biệt của nhãn hiệu đã đăng ký, trừ khi người tiêu dùng bỏ qua các yếu tố đó do kích thước nhỏ và / hoặc vị trí của chúng => nguy cơ vì bị coi là sử dụng không đúng cách

SCABAL

SCABAL

Yếu tố "gây ấn tượng mạnh về thị giác, việc loại bỏ yếu tố này sẽ làm thay đổi tính phân biệt của nhãn hiệu đã đăng ký => nguy cơ vì bị coi là sử dụng không đúng cách.

Nhận xét: Nếu yếu tố bị bỏ bớt nằm ở vị trí phụ và không có tính phân biệt, hay khả năng phân biệt “yếu” thì việc bỏ bớt yếu tố đó không làm thay đổi đặc tính phân biệt của nhãn hiệu.


5. Làm thế nào để lợi trừ rủi ro khi sử dụng nhãn hiệu khác với mẫu nhãn hiệu đã đăng ký?

Pháp luật Việt Nam không có quy định rằng việc sử dụng một dấu hiệu tương tự/gần giống với với nhãn hiệu đã đăng ký bởi chính chủ sở hữu thì sẽ không xâm phạm quyền nhãn hiệu của tổ chức/cá nhân khác. Do đó, việc sử dụng một dấu hiệu tương tự/gần giống với nhãn hiệu đã đăng ký bởi chính chủ sở hữu không thể đảm bảo rằng chủ nhãn hiệu được miễn trừ khỏi các cáo buộc xâm phạm quyền nhãn hiệu từ các tổ chức/cá nhân khác.

Các vụ việc ASANZO vs. ASANO và ENAT 400 và E-NAT Plus là những minh chứng điển hình về nguy cơ xâm phạm nhãn hiệu của người khác khi chủ sở hữu sử dụng nhãn hiệu khác biệt với mẫu nhãn hiệu đã đăng ký.

Như vậy, có thể hiểu rằng, bất kể nhãn hiệu đã được đăng ký, việc sử dụng nhãn hiệu ở một phiên bản khác sẽ có thể đẩy chủ nhãn hiệu vào nguy cơ xâm phạm nhãn hiệu của tổ chức/cá nhân khác. Một dấu hiệu khác với nhãn hiệu đã đăng ký sẽ được xem xét như một dấu hiệu độc lập, không liên quan đến nhãn hiệu đã đăng ký.

Để xác định có hành vi xâm phạm đối với nhãn hiệu của người khác có xảy ra hay không, cơ quan thực thi của Việt Nam chỉ cần xác định 3 điều kiện sau đây thỏa mãn:

  • Dấu hiệu tương tự/trùng lặp với nhãn hiệu được bảo hộ;

  • Hàng hóa/dịch vụ mang dấu hiệu tương tự/trùng lặp với hàng hóa/dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ và

  • Hành vi sử dụng dấu hiệu là không được phép và có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ.

Từ các trường hợp nêu trên cho thấy, chủ nhãn hiệu vẫn có thể sử dụng nhãn hiệu khác với mẫu nhãn hiệu đã đăng ký trong một số điều kiện nhất định. Để tránh rủi ro khi bạn thực hiện một số thay đổi cho mẫu nhãn hiệu đã đăng ký, bạn nên thực hiện một số bước đánh giá như sau:

BƯỚC 1: Đánh giá nhãn hiệu đã đăng ký: Cần đánh giá nhãn hiệu đã đăng ký đăng ký bằng xem xét yếu tố nào là yếu tố có khả năng phân biệt và gây ấn tượng mạnh/chi phối về thị giác.

BƯỚC 2: Đánh giá sự khác biệt của nhãn hiệu sử dụng trong thực tế và ảnh hưởng của các thay đổi: Cần đánh giá xem liệu những yếu tố góp phần tạo nên đặc tính phân biệt của nhãn hiệu đã đăng ký có hiện diện và / hoặc sửa đổi trong nhãn hiệu được sử dụng trên thực tế hay không, bằng cách so sánh trực tiếp hai dấu hiệu, nhằm xác định mức độ khác biệt giữa chúng (khác biệt lớn, đáng kể hay nhỏ/không đáng kể).

Nhìn chung, các đánh giá nêu trên có thể giúp nhận biết nguy cơ/rủi ro cao hay thấp khi bạn muốn thực hiện một số thay đổi đối với nhãn hiệu đã đăng ký của mình, vì vậy bạn cần biết những lưu ý sau để giảm thiểu nguy cơ/rủi ro:

  • Nên sử dụng nhãn hiệu đúng như đã đăng ký;

  • Phải đảm bảo không làm biến đổi đặc tính phân biệt của nhãn hiệu đã đăng ký nếu sử dụng nhãn hiệu khác với mẫu nhãn hiệu đã đăng ký. Tốt nhất chỉ nên thay đổi ở các yếu tố không có khả năng phân biệt đáng kể/thành phần có tính phân biệt yếu;

  • Nên nộp đơn đăng ký các phiên bản khác của nhãn hiệu đã đăng ký tại Cục Sở hữu Trí tuệ nếu chúng được đánh giá là khác biệt đáng kể so với mẫu nhãn hiệu đã đăng ký;

  • Xem xét đăng ký dưới dạng quyền tác giả tại Cục bản quyền tác giả nếu đáp ứng điều kiện bảo hộ;

  • Nên tra cứu khả năng bảo hộ của các phiên bản khác với mẫu nhãn hiệu đã đăng ký trước khi sử dụng để tìm ra các nhãn hiệu tương tự (nếu có);

  • Nên giám định khả năng xâm phạm tại Viện Khoa học Sở hữu Trí tuệ trước khi sử dụng

6. Lời kết

Luật Sở hữu Trí tuệ sửa đổi lần thứ 3 của Việt Nam sẽ có hiệu lực vào ngày 01/01/2023 với những quy định theo các tiêu chuẩn, chuẩn mực quốc tế cao hơn sau khi Việt Nam ký kết FTA thế hệ mới như EVFTA, CPTPP, RCEP.

Tuy nhiên, các vụ việc nêu trên và các quy định hiện hành của pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam vẫn thể giúp xác định hay tìm ra một câu trả lời chắc chắn liệu việc thay đổi một số yếu tố của nhãn hiệu đã đăng ký để sử dụng trong thực tế có dẫn đến các rủi ro pháp lý hay không.

Rõ ràng, cần phải xem xét dữ kiện của từng vụ việc cụ thể mới có thể đánh giá có hay không rủi ro pháp lý khi bạn dự định thực hiện một số thay đổi đối với nhãn hiệu đã đăng ký.

Vui lòng xem bản tiếng Anh tại đây.

Đánh giá bài viết:

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

Tin cùng chuyên mục

Mẫu đơn đề nghị cấp GCN cung cấp trò chơi điện tử G2 G3 G4

Mẫu đơn đề nghị cấp GCN cung cấp trò chơi điện tử G2 G3 G4

Mẫu đơn đề nghị cấp GCN cung cấp trò chơi điện tử G2 G3 G4

Trò chơi điện tử trên mạng đang trở nên ngày càng thịnh hành đối với mọi lứa tuổi. Do đó, Nghị định 147/2024/NĐ-CP đã ban hành các quy định dành riêng cho việc cung cấp trò chơi điện tử G2 G3 G4 trên mạng cùng với mẫu đơn đề nghị cấp GCN cung cấp trò chơi điện tử G2 G3 G4.

Mùa tuyển quân 2023: 7 nội dung về khám nghĩa vụ quân sự cần lưu ý

Mùa tuyển quân 2023: 7 nội dung về khám nghĩa vụ quân sự cần lưu ý

Mùa tuyển quân 2023: 7 nội dung về khám nghĩa vụ quân sự cần lưu ý

Khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự là vấn đề được rất nhiều người quan tâm vào thời điểm cuối năm bởi đây là thời điểm các địa phương sẽ tiến hành khám nghĩa vụ quân sự để chuẩn bị cho đợt tuyển quân mới. Dưới đây là những nội dung cần biết về khám nghĩa vụ quân sự 2023.