Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự, còn bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Bị can có nghĩa vụ phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong khi đó, bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án…
“Bị can”, “bị cáo” là những khái niệm xuất hiện khá nhiều trong những bản tin pháp luật hàng ngày. Tuy nhiên, rất nhiều người trong chúng ta đôi khi vẫn bị nhầm lẫn giữa hai khái niệm này.
Theo Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003, bị can là người đã bị khởi tố về hình sự, còn bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Khái niệm bị can, bị cáo theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 rộng hơn so với quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003. Theo đó, bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố hình sự, bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
Đều là những đối tượng tham gia vào quá trình tố tụng, nhưng “bị can” và “bị cáo” có những quyền và nghĩa vụ hoàn toàn khác nhau.
Hình ảnh minh họa |
Điều 49 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 quy định, “bị can” có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì; Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Được trình bày lời khai; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, giám định, người phiên dịch theo quy định; Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; Được nhận quyết định khởi tố, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác; Được quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tại Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 bị can có thêm các quyền: Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu; Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng…
Trong khi đó, theo Điều 50 Bộ luật này, “bị cáo” có quyền: Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án; các quyết định tố tụng khác; Tham gia phiên toà; Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa; Nói lời sau cùng trước khi nghị án; Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Từ 01/01/2018, bị cáo được bổ sung thêm quyền: Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai, chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý…
Về nghĩa vụ, “bị can” có nghĩa vụ phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; “bị cáo” phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án. Điểm chung của cả bị can và bị cáo trong trường hợp này là khi được triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã.
Bên cạnh hai khái niệm trên, có hai khái niệm khác cũng thường được sử dụng là “nghi phạm” và “nghi can”. Trên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, chưa có một quy định nào quy định cụ thể về “nghi phạm” và “nghi can”. Tuy nhiên, theo cách hiểu thông thường, “nghi phạm” là người bị nghi là tội phạm, có dấu hiệu của một tội phạm và đã bị lệnh bắt; “nghi can” được hiểu là người bị nghi là có liên quan đến vụ án và thuộc trường hợp chưa bị bắt.
Để tìm hiểu thêm về các quy định liên quan, bạn đọc tham khảo:
Bộ luật Tố tụng Hình sự số 19/2003/QH11
Bộ luật Tố tụng hình sự của Quốc hội, số 101/2015/QH13
Xem thêm:
Bộ luật Hình sự: 9 nội dung nổi bật áp dụng từ 2018