Hợp đồng đặt cọc có cần cả vợ và chồng cùng ký tên không?

Trước khi thực hiện hợp đồng mua bán, các bên thường đặt cọc để chắc chắn giao dịch này sẽ thực hiện. Tuy nhiên, nhiều trường hợp, các bên nhận cọc chỉ có một người ký. Vậy hợp đồng đặt cọc có cần cả vợ, chồng cùng ký tên không?

Đặt cọc có cần cả vợ và chồng cùng ký tên không?

Đặt cọc theo quy định tại khoản 3 Điều 292 Bộ luật Dân sự là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Theo đó, đặt cọc được định nghĩa tại Điều 328 Bộ luật Dân sự như sau:

1. Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.

Có thể hiểu, đặt cọc là sự thoả thuận của các bên (bên nhận cọc và bên đặt cọc) về việc đảm bảo cho ký hoặc thực hiện hợp đồng mà một bên phải đưa cho bên còn lại một số tiền/kim khí quý, đá quý/vật có giá trị khác trong một thời hạn nhất định.

Theo đó, khi đặt cọc mua đất, bên đặt cọc sẽ trả trước cho bên nhận cọc một số tiền theo thoả thuận, đồng thời bên nhận cọc sẽ phải đảm bảo bán đất cho bên đặt cọc. Việc trả một khoản tiền cũng tương đương với việc đảm bảo bên đặt cọc sẽ thực hiện mua đất với bên nhận cọc.

Căn cứ các quy định trên, đặt cọc được công nhận là sự thoả thuận của các bên và không có yêu cầu về việc bắt buộc phải cả hai vợ chồng cùng ký hợp đồng đặt cọc.

Tuy nhiên, theo Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015, đặt cọc được xem là một giao dịch dân sự. Và giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực khi đáp ứng các điều kiện về nội dung và hình thức của hợp đồng như:

- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch đặt cọc.

- Các bên hoàn toàn tự nguyện thực hiện việc đặt cọc.

- Mục đích và nội dung của việc đặt cọc không vi phạm điều cấm của Luật, không trái đạo đức xã hội.

Hiện nay, có hai luồng ý kiến về việc đặt cọc có cần cả vợ và chồng cùng ký tên không như sau:

- Cần: Vì đặt cọc để thực hiện việc mua bán nhà, đất là tài sản chung của cả hai vợ chồng nên đều cần sự đồng ý của cả hai người. Sự đồng ý ở đây thể hiện qua việc hai vợ chồng cùng ký vào hợp đồng đặt cọc (không đề cập đến vấn đề một trong hai người uỷ quyền cho người còn lại).

- Không cần: Theo các quy định trên không bắt buộc phải có chữ ký của cả hai vợ chồng. Tuy nhiên, đến giai đoạn ký hợp đồng mua bán thì bắt buộc cả hai người cùng phải ký nếu đó là tài sản chung của cả hai vợ chồng (trừ trường hợp một trong hai bên uỷ quyền cho người còn lại).

Tuy nhiên, tác giả bài viết đồng tình với ý kiến cần hơn vì mặc dù không có quy định cụ thể yêu cầu phải có đủ cả hai vợ chồng nhưng khi tài sản nhà, đất là tài sản chung của hai vợ, chồng thì khi thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản đó phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.

Đồng nghĩa, nếu đó là tài sản chung vợ chồng thì khi thực hiện việc đặt cọc (đây là giao dịch nhằm đảm bảo cho việc mua bán nhà, đất sau này), cả hai vợ chồng đều phải thoả thuận và đồng ý cho việc sẽ bán nhà, đất này sau một khoảng thời gian đã thoả thuận với bên đặt cọc.

Do đó, khi các bên thực hiện đặt cọc, đều phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng nếu đây được xác định là tài sản chung vợ chồng.

dat coc co can ca vo va chong cung ky ten

Vợ/chồng tự ý đặt cọc có đòi lại đất được không?

Như phân tích ở trên, khi xác định nhà, đất là tài sản chung vợ chồng thì đặt cọc phải có chữ ký của cả hai vợ chồng trừ trường hợp một trong hai bên uỷ quyền cho bên còn lại được thay mặt mình thực hiện giao dịch này.

Do đó, nếu một trong hai người tự ý thực hiện đặt cọc với người thứ ba thì người vợ có thể khởi kiện để đòi lại nhà, đất. Trong trường hợp này, nếu có chứng cứ chứng minh được đây là tài sản chung vợ chồng thì căn cứ Điều 122 Bộ luật Dân sự, giao dịch đặt cọc có thể sẽ bị tuyên là vô hiệu.

Theo đó, giao dịch đặt cọc này có thể bị vô hiệu theo Điều 127 Bộ luật Dân sự do bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép. Khi đó, một trong các chủ thể (người vợ/chồng) bị lừa dối và người kia tự ý thực hiện đặt cọc mà không có được sự đồng ý của chủ sở hữu còn lại.

Khi đó, các bên sẽ phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận. Đồng thời, nếu trong hợp đồng đặt cọc có điều khoản quy định việc bồi thường thiệt hại hoặc phạt hợp đồng thì người tự ý đặt cọc phải thực hiện bồi thường và nộp phạt theo thoả thuận.

Trên đây là một số quan điểm về vấn đề: Hợp đồng đặt cọc có cần cả vợ và chồng cùng ký tên không? Nếu còn có vấn đề cần giải đáp, độc giả vui lòng liên hệ 1900.6192 để được hỗ trợ, giải đáp.

Đánh giá bài viết:

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

Tin cùng chuyên mục

Đã đăng ký kết hôn ở nước ngoài có phải đăng ký lại ở Việt Nam không?

Đã đăng ký kết hôn ở nước ngoài có phải đăng ký lại ở Việt Nam không?

Đã đăng ký kết hôn ở nước ngoài có phải đăng ký lại ở Việt Nam không?

Nhiều người đã đăng ký kết hôn ở nước ngoài, khi về Việt Nam thắc mắc có phải làm thủ tục đăng ký lại không? Cùng theo dõi bài viết dưới đây để biết cụ thể giải đáp vấn đề: Đã đăng ký kết hôn ở nước ngoài có phải đăng ký lại ở Việt Nam không?

Ký hợp đồng với công ty nước ngoài thế nào để đúng quy định?

Ký hợp đồng với công ty nước ngoài thế nào để đúng quy định?

Ký hợp đồng với công ty nước ngoài thế nào để đúng quy định?

Hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế thị trường trên toàn cầu, việc hợp tác với các công ty nước ngoài cũng trở nên phổ biến. Để tránh những rủi ro có thể xảy ra khi giao kết hợp đồng, cùng theo dõi bài viết ký hợp đồng với công ty nước ngoài thế nào để đúng quy định?