1. Vợ chồng được quyết định thời gian sinh con, số con
Trước đây, theo khoản 1 Điều 43 Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân quy định:
- Mọi người có trách nhiệm thực hiện kế hoạch hoá gia đình, có quyền lựa chọn biện pháp sinh đẻ có kế hoạch theo nguyện vọng.
- Mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có từ một đến hai con
Theo Điều 13 Luật Dân số 2025 quy định về Quyền và nghĩa vụ của mỗi cá nhân, cặp vợ chồng trong việc sinh con, chăm sóc sức khỏe sinh sản như sau:
- Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, điều kiện học tập, lao động, thu nhập và nuôi dạy con của mỗi cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình đẳng.
- Bảo vệ sức khỏe, thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS và thực hiện các biện pháp khác liên quan đến chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Như vậy, thay vì khuyến khích mỗi cặp đôi chỉ có từ 1 đến 2 con như quy định cũ, luật mới trao quyền tự quyết về thời điểm, số lượng và khoảng cách sinh. Quyết định này dựa trên điều kiện sức khỏe, thu nhập và hoàn cảnh cụ thể của mỗi gia đình. Đây là giải pháp cấp thiết nhằm vực dậy mức sinh đang chạm đáy lịch sử và khắc phục chênh lệch mức sinh giữa các vùng miền.

2. Tăng thời gian nghỉ thai sản
Theo khoản 1 Điều 14 Luật Dân số 2025 quy định về các biện pháp để duy trì mức sinh thay thế:
- Trường hợp sinh con thứ hai, thời gian nghỉ thai sản đối với lao động nữ là 07 tháng; lao động nam là 10 ngày làm việc khi vợ sinh con
Bên cạnh đó, theo khoản 1 Điều 30 Luật Dân số 2025 sửa đổi bổ sung khoản 1 Điều 139 của Bộ luật Lao động 2019, số 49/2019/QH14 quy định về chế độ nghỉ thai sản như sau:
- Lao động nữ được nghỉ thai sản trước và sau khi sinh con là 06 tháng
- Trường hợp sinh con thứ hai, lao động nữ được nghỉ thai sản trước và sau khi sinh con là 07 tháng; thời gian nghỉ trước khi sinh không quá 02 tháng.
- Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng
Theo khoản 2 Điều 30 Luật Dân số 2025 sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 2 Điều 53 của Luật Bảo hiểm xã hội 2024, số 41/2024/QH14 quy định về việc lao động nam khi vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản với thời gian như sau:
- Trường hợp vợ sinh đôi hoặc vợ sinh con thứ hai thì được nghỉ 10 ngày làm việc. Trường hợp sinh ba trở lên thì được nghỉ thêm 03 ngày làm việc cho mỗi con tính từ con thứ ba trở đi
Như vậy, khi luật có hiệu lực, phụ nữ sinh con thứ hai được nghỉ thai sản 7 tháng (tăng một tháng so với hiện hành) và người chồng được nghỉ 10 ngày để cùng chăm sóc gia đình.
3. Sinh hai con được ưu tiên mua nhà ở xã hội
Theo khoản 1 Điều 14 Luật Dân số 2025 quy định về các biện pháp để duy trì mức sinh thay thế bao gồm:
- Trường hợp sinh con thứ hai, thời gian nghỉ thai sản đối với lao động nữ là 07 tháng; lao động nam là 10 ngày làm việc khi vợ sinh con
- Hỗ trợ tài chính khi sinh con đối với phụ nữ dân tộc thiểu số rất ít người
- Hỗ trợ tài chính khi sinh con đối với phụ nữ ở tỉnh, thành phố có mức sinh dưới mức sinh thay thế
- Hỗ trợ tài chính khi sinh con đối với phụ nữ sinh đủ 02 con trước 35 tuổi
- Ưu tiên mua, thuê mua hoặc thuê nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật về nhà ở đối với người có từ 02 con đẻ trở lên
Như vậy, theo Luật mới, nhà nước sẽ hỗ trợ tài chính cho phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi, người tại vùng có mức sinh thấp hoặc thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số rất ít người. Đặc biệt, các gia đình sinh đủ hai con sẽ được ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở xã hội. Chính sách này giúp các cặp vợ chồng sớm an cư, giảm gánh nặng kinh tế để tập trung nuôi dạy con cái.
4. Bác sĩ tiết lộ giới tính thai nhi bị đình chỉ hành nghề
Theo Điều 6 Luật Dân số 2025 quy định về các hành vi bị nghiêm cấm như sau:
- Tuyên truyền, phổ biến hoặc đưa thông tin có nội dung sai sự thật, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân số.
- Cản trở việc tuyên truyền, giáo dục, vận động phổ biến thông tin, tư vấn về dân số, kế hoạch hóa gia đình, tiếp cận dịch vụ dân số.
- Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức; thông báo, tiết lộ giới tính thai nhi, trừ trường hợp do Bộ trưởng Bộ Y tế quy định để phục vụ chẩn đoán và điều trị các bệnh liên quan đến giới tính.
- Cưỡng bức, ép buộc việc sinh con hoặc không sinh con.
- Kỳ thị, phân biệt đối xử trong tiếp cận dịch vụ dân số.
- Nhân bản vô tính người.
Ngoài ra, theo Điều 15 Luật Dân số 2025 quy định về việc giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh như sau:
- Khuyến khích đưa nội dung không trọng nam hơn nữ, không lựa chọn giới tính khi sinh vào hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư.
- Đình chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh đối với người có hành vi thông báo, tiết lộ giới tính thai nhi để phá thai. Việc đình chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh thực hiện theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh.
- Định kỳ hằng năm cơ quan thống kê trung ương công bố tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh để Chính phủ, chính quyền địa phương cấp tỉnh xây dựng, thực hiện biện pháp can thiệp phù hợp.
Như vậy, để giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính, luật nghiêm cấm việc lựa chọn giời tính thai nhi dưới mọi hình thức. Theo đó, người có hành vi thông báo, tiết lộ giới tính thai nhi để phá thai sẽ bị đình chỉ khám chữa bệnh. Và định kỳ hằng năm cơ quan thống kê trung ương công bố tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh để Chính phủ, chính quyền địa phương cấp tỉnh xây dựng, thực hiện biện pháp can thiệp phù hợp.
5. Ứng phó già hóa dân số
Theo Điều 7 Luật Dân số 2025 quy định về chính sách của Nhà nước về dân số như sau:
- Dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện chính sách dân số và phát triển thông qua các biện pháp:
Duy trì mức sinh thay thế
Giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh
Thích ứng với già hóa dân số
Nâng cao chất lượng dân số trong mối quan hệ với các yếu tố kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh gắn với xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.
- Thực hiện chính sách dân số và phát triển là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mỗi cá nhân, từng gia đình, mỗi doanh nghiệp, tổ chức và toàn xã hội. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và huy động xã hội thực hiện chính sách dân số.
- Có chính sách nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần; bảo vệ, phát triển dân số đối với các dân tộc thiểu số rất ít người.
- Có chính sách phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội từng thời kỳ để hỗ trợ cặp vợ chồng, cá nhân sinh con, nuôi con thông qua các chính sách lao động, việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, nhà ở và chính sách khác để gia tăng tỷ lệ sinh, đạt mức sinh thay thế bền vững; ưu tiên đối với tỉnh, thành phố có mức sinh thấp hơn mức sinh thay thế.
- Có chính sách thích ứng với già hóa dân số
Phát triển mạng lưới bệnh viện lão khoa, chuyên khoa lão trong bệnh viện đa khoa; phát triển các hoạt động chăm sóc người cao tuổi
Bảo đảm người cao tuổi được tiếp cận thuận lợi với dịch vụ y tế, môi trường xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
Khuyến khích chuẩn bị cho tuổi già khi còn trẻ
Khuyến khích, ưu đãi doanh nghiệp, tổ chức tham gia, sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ dành cho người cao tuổi theo quy định của pháp luật
Hỗ trợ người cao tuổi về lao động việc làm, an sinh xã hội, tham gia khởi nghiệp, phát triển kinh tế, tham gia chuyển đổi số
Phát triển bảo hiểm chăm sóc dài hạn, các hình thức bảo hiểm sức khỏe khác
Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực lĩnh vực lão khoa.
Xây dựng chính sách thu hút nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực lão khoa
- Có chính sách phân bố dân cư thông qua các quy hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh phù hợp với từng khu vực, từng vùng, từng ngành, từng địa phương.
- Ưu tiên, hỗ trợ thực hiện công tác dân số tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo.
- Bảo đảm nguồn lực thực hiện công tác dân số; hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các chương trình, đề án, dự án về dân số và phát triển. Có chính sách củng cố hệ thống, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực của đội ngũ làm công tác dân số; phát triển mạng lưới dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản.
- Có chính sách đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực dân số.
- Có chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, tín dụng và các cơ chế ưu đãi khác theo quy định của pháp luật để khuyến khích, động viên, huy động nguồn lực xã hội tham gia công tác dân số.
- Khuyến khích người sử dụng lao động hỗ trợ, tạo điều kiện cho người lao động thực hiện các biện pháp duy trì mức sinh thay thế, thích ứng với già hóa dân số, nâng cao chất lượng dân số.
Như vậy, theo Luật Dân số 2025, Nhà nước cũng có chính sách quy định về việc thích ứng với già hoá dân số. Trong đó có việc xây dựng chính sách thu hút nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực lão khoa.
Nội dung trong bài viết được dựa trên bản dự thảo Luật mới nhất trình Quốc hội thông qua. LuatVietnam sẽ tiếp tục cập nhật thông tin khi có văn bản Luật chính thức.
RSS







