![](https://luatvietnam.vn/assets/images/luatsu/ic-hoidap.png)
AI Luật trả lời:
Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, số 52/2014/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, chị A có quyền yêu cầu ly hôn đơn phương nếu có căn cứ về việc anh B có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Dưới đây là các bước thực hiện thủ tục ly hôn đơn phương:
Chuẩn bị hồ sơ ly hôn đơn phương:
- Đơn xin ly hôn đơn phương.
- Bản sao giấy chứng nhận kết hôn.
- Bản sao giấy khai sinh của con (nếu có con chung).
- Bản sao chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân của vợ và chồng.
- Các tài liệu, chứng cứ chứng minh tài sản chung (nếu có tranh chấp về tài sản).
- Các tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng (nếu có).
Nộp đơn tại Tòa án có thẩm quyền:
Theo Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, số 92/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/07/2016, Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết vụ án ly hôn đơn phương.
Thụ lý đơn và hòa giải tại Tòa án:
Tòa án sẽ thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Sau khi thụ lý, Tòa án tiến hành hòa giải theo Điều 54 Luật Hôn nhân và Gia đình, số 52/2014/QH13.
Xét xử vụ án ly hôn:
Nếu hòa giải không thành, Tòa án sẽ đưa vụ án ra xét xử.Thời gian chuẩn bị xét xử là 4 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, có thể gia hạn nhưng không quá 2 tháng theo Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự, số 92/2015/QH13.
Xét xử vắng mặt:
Nếu anh B không hợp tác khi tòa án triệu tập, Tòa án có thể xét xử vắng mặt anh B theo Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự, số 92/2015/QH13.
Trên đây là quy trình thủ tục ly hôn đơn phương mà chị A có thể tham khảo. Thời gian giải quyết vụ án ly hôn đơn phương có thể kéo dài từ 4 đến 6 tháng tùy vào tính chất phức tạp của vụ án.
![Quyền nuôi con sau ly hôn được xác định dựa trên những yếu tố nào? Quyền nuôi con sau ly hôn được xác định dựa trên những yếu tố nào?](https://image3.luatvietnam.vn/uploaded/images/original/2025/02/06/al_8_0602111919.jpg)
![](https://luatvietnam.vn/assets/images/luatsu/ic-hoidap.png)
AI Luật trả lời:
Căn cứ vào Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình, số 52/2014/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, việc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi: Tuy nhiên, việc chia đôi này có tính đến các yếu tố như:
- Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng.
- Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập.
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập.
- Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Tài sản riêng của vợ, chồng: Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên: Tòa án sẽ xem xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Căn cứ vào Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP có hiệu lực từ ngày 01/03/2016, khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, Tòa án phải xác định vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người thứ ba vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trong trường hợp của anh Minh và chị Hoa, căn hộ chung cư và khoản tiền tiết kiệm được coi là tài sản chung vì được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân. Mặc dù anh Minh là người trực tiếp đi làm kiếm tiền, nhưng công sức của chị Hoa trong việc chăm sóc con cái và gia đình cũng được coi là đóng góp vào khối tài sản chung. Do đó, tài sản chung sẽ được chia đôi, có tính đến các yếu tố như công sức đóng góp và hoàn cảnh của mỗi bên.
Nếu anh Minh và chị Hoa không thể tự thỏa thuận về việc chia tài sản, Tòa án sẽ giải quyết theo các nguyên tắc nêu trên.
![](https://luatvietnam.vn/assets/images/luatsu/ic-hoidap.png)
AI Luật trả lời:
Căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình, số 52/2014/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn được thực hiện như sau:
Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ: Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Thỏa thuận giữa vợ chồng: Vợ, chồng có thể thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con. Trường hợp không thỏa thuận được, Tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên, Tòa án phải xem xét nguyện vọng của con.
Con dưới 36 tháng tuổi: Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Ngoài ra, căn cứ vào Điều 6 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP có hiệu lực từ ngày 01/07/2024, khi xem xét “quyền lợi về mọi mặt của con”, Tòa án sẽ đánh giá các tiêu chí sau:
- Điều kiện, khả năng của cha, mẹ trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, bao gồm cả khả năng bảo vệ con khỏi bị xâm hại, bóc lột.
- Quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi, được duy trì mối quan hệ với người cha, mẹ không trực tiếp nuôi.
- Sự gắn bó, thân thiết của con với cha, mẹ.
- Sự quan tâm của cha, mẹ đối với con.
- Bảo đảm sự ổn định, hạn chế sự xáo trộn môi trường sống, giáo dục của con.
- Nguyện vọng của con được ở cùng với anh, chị, em (nếu có) để bảo đảm ổn định tâm lý và tình cảm của con.
- Nguyện vọng của con được sống chung với cha hoặc mẹ.
Trong trường hợp của anh Hùng và chị Mai, Tòa án sẽ xem xét các yếu tố trên để quyết định ai sẽ là người trực tiếp nuôi con, đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho con.