Trách nhiệm của doanh nghiệp khi người lao động bị tai nạn trên đường đi làm về

Theo quy định hiện hành, người lao động bị tai nạn trên tuyến đường đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc ngược lại trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý được hưởng chế độ tai nạn lao động. Nội dung dưới đây sẽ làm rõ trách nhiệm của doanh nghiệp trường hợp này.

Lưu ý: Toàn bộ nội dung trả lời cho các câu hỏi dưới đây đều do AI Luật cung cấp (AI Luật là trợ lý ảo sử dụng trí tuệ nhân tạo do LuatVietnam huấn luyện). Nội dung do AI trả lời chỉ mang tính chất tham khảo và LuatVietnam không chịu trách nhiệm về thông tin do AI cung cấp. 

Câu hỏi: Người sử dụng lao động có trách nhiệm gì khi người lao động bị tai nạn trên đường đi từ nơi làm việc về nhà?

AI Luật trả lời:

Căn cứ vào Điều 39 Mục 2 Chương III của văn bản Luật An toàn, vệ sinh lao động, 84/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/07/2016, trách nhiệm của người sử dụng lao động về bồi thường, trợ cấp trong những trường hợp đặc thù khi người lao động bị tai nạn lao động được quy định như sau:

  1. Trường hợp người lao động bị tai nạn lao động khi thực hiện nhiệm vụ hoặc tuân theo sự điều hành của người sử dụng lao động ở ngoài phạm vi cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, hợp tác xã, nếu do lỗi của người khác gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn, thì người sử dụng lao động vẫn phải bồi thường cho người lao động theo quy định tại khoản 4 Điều 38 của Luật này.

  2. Trường hợp người lao động bị tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở theo tuyến đường và thời gian hợp lý, nếu do lỗi của người khác gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn thì người sử dụng lao động trợ cấp cho người lao động theo quy định tại khoản 5 Điều 38 của Luật này.

  3. Trường hợp người sử dụng lao động đã mua bảo hiểm tai nạn cho người bị tai nạn lao động tại các đơn vị hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, thì người bị tai nạn lao động được hưởng các khoản chi trả bồi thường, trợ cấp theo hợp đồng đã ký với đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Nếu số tiền mà đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm trả cho người bị tai nạn lao động thấp hơn mức quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 38 của Luật này, thì người sử dụng lao động phải trả phần còn thiếu để tổng số tiền người bị tai nạn lao động hoặc thân nhân của người bị tai nạn lao động nhận được ít nhất bằng mức bồi thường, trợ cấp được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 38 của Luật này.

  4. Nếu người sử dụng lao động không đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội, thì ngoài việc phải bồi thường, trợ cấp theo quy định tại Điều 38 của Luật này, người sử dụng lao động phải trả khoản tiền tương ứng với chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định tại Mục 3 Chương này khi người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; việc chi trả có thể thực hiện một lần hoặc hằng tháng theo thỏa thuận của các bên, trường hợp không thống nhất thì thực hiện theo yêu cầu của người lao động.

  5. Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi tiết Điều này.

Ngoài ra, căn cứ vào Điều 8 Chương II của văn bản Thông tư 28/2021/TT-BLĐTBXH có hiệu lực từ ngày 01/03/2022, quy định về giải quyết chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với các trường hợp cá biệt như sau:

  • Khoản 4: Trường hợp người lao động bị tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý, ngay trong tháng đầu đóng bảo hiểm vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc trong tháng đầu trở lại làm việc đóng bảo hiểm vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sau thời gian đóng bảo hiểm gián đoạn do chấm dứt hợp đồng lao động thì người sử dụng lao động phải đóng vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp của tháng đó.

Như vậy, người sử dụng lao động có trách nhiệm trợ cấp cho người lao động bị tai nạn khi đi từ nơi làm việc về nhà theo quy định tại khoản 5 Điều 38 của Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 và phải đóng vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp của tháng đó nếu tai nạn xảy ra trong tháng đầu đóng bảo hiểm hoặc tháng đầu trở lại làm việc sau thời gian gián đoạn.

Tai nạn giao thông trên đường đi làm về có thể được hưởng chế độ tai nạn lao động (Ảnh minh họa)

Câu hỏi: Về việc chi trả chi phí y tế trong trường hợp người lao động bị tai nạn trên đường đi làm về thì sao?

AI Luật trả lời: 

Căn cứ vào Điều 38 Mục 2 Chương III của văn bản Luật An toàn, vệ sinh lao động, 84/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/07/2016, trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp bao gồm việc chi trả chi phí y tế như sau:

  • Khoản 2: Thanh toán chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp như sau:

    • a) Thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế;

    • b) Trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động đối với những trường hợp kết luận suy giảm khả năng lao động dưới 5% do người sử dụng lao động giới thiệu người lao động đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng giám định y khoa;

    • c) Thanh toán toàn bộ chi phí y tế đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế.

Như vậy, người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả các chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định cho người lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Cụ thể:

  • Đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế: Người sử dụng lao động phải thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả.

  • Đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế: Người sử dụng lao động phải thanh toán toàn bộ chi phí y tế.

Ngoài ra, người sử dụng lao động cũng phải trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động đối với những trường hợp kết luận suy giảm khả năng lao động dưới 5% do người sử dụng lao động giới thiệu người lao động đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng giám định y khoa.
 

Câu hỏi: Ngày 13/11/2023, 01 người lao động (“NLĐ”) của Công ty làm ca đêm từ 20h đến 7h sáng ngày 14/11/2023 (trong đó NLĐ tăng ca 2 tiếng từ 5h đến 7h). Khoảng 7h30 phút ngày 14/11/2023, sau khi hết giờ làm việc, NLĐ điều khiển xe mô tô cá nhân từ Công ty về nhà thì bị tai nạn giao thông do NLĐ đã ngủ gật khi điều khiển xe nên tự ngã và đâm vào xe thùng rác ven đường. Theo kết quả giám định y khoa thì người lao động bị thương tổn cơ thể với tỷ lệ là 59%. Trách nhiệm của người sử dung lao động đối với người lao động bị tai nạn được thực hiện theo khoản 4 hay khoản 5 Điều 38 Luật an toàn vệ sinh lao động năm 2015?

 

AI Luật trả lời:

Căn cứ vào Điều 38 Mục 2 Chương III của văn bản Luật An toàn, vệ sinh lao động, 84/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/07/2016, trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được quy định như sau:

  • Khoản 4: Bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động mà không hoàn toàn do lỗi của chính người này gây ra và cho người lao động bị bệnh nghề nghiệp với mức như sau:

    • Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương nếu bị suy giảm từ 5% đến 10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%;

    • Ít nhất 30 tháng tiền lương cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

  • Khoản 5: Trợ cấp cho người lao động bị tai nạn lao động mà do lỗi của chính họ gây ra một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định tại khoản 4 Điều này với mức suy giảm khả năng lao động tương ứng.

Trong trường hợp này, người lao động bị tai nạn giao thông do ngủ gật khi điều khiển xe mô tô cá nhân từ công ty về nhà, tức là tai nạn xảy ra do lỗi của chính người lao động. Do đó, trách nhiệm của người sử dụng lao động sẽ được thực hiện theo Khoản 5 Điều 38 của Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015.

Cụ thể, người sử dụng lao động phải trợ cấp cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định tại Khoản 4 Điều 38 với mức suy giảm khả năng lao động tương ứng. Trong trường hợp này, tỷ lệ suy giảm khả năng lao động của người lao động là 59%, do đó mức trợ cấp sẽ được tính như sau:

  • Mức bồi thường theo Khoản 4: Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương cho 10% đầu tiên, sau đó cứ tăng 1% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương. Vậy mức bồi thường cho 59% sẽ là:

    • 1,5 tháng tiền lương cho 10% đầu tiên.

    • (59% - 10%) * 0,4 tháng tiền lương = 49% * 0,4 tháng tiền lương = 19,6 tháng tiền lương.

    • Tổng cộng: 1,5 + 19,6 = 21,1 tháng tiền lương.

  • Mức trợ cấp theo Khoản 5: Ít nhất bằng 40% của 21,1 tháng tiền lương = 8,44 tháng tiền lương.

Như vậy, người sử dụng lao động phải trợ cấp cho người lao động ít nhất 8,44 tháng tiền lương.

Ngày 12/5/2024, LuatVietnam ra mắt AI Luật - Trợ lý ảo Luật Việt Nam phiên bản 1.0 được huấn luyện dựa trên hệ thống văn bản pháp luật trong cơ sở dữ liệu của LuatVietnam, giúp giải đáp thắc mắc về các vấn đề pháp lý. Hiện, người dùng có thể đặt câu hỏi ở các lĩnh vực: Lao động, Bảo hiểm xã hội, Đầu tư, Đất đai, Thuế thu nhập cá nhân…

Nếu còn vấn đề vướng mắc, bạn đọc vui lòng liên hệ tổng đài 19006192 để được hỗ trợ.
Đánh giá bài viết:

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

Tin cùng chuyên mục

Thẻ BHYT từ 01/7/2024: 4 thay đổi quan trọng ảnh hưởng đến triệu người dân

Thẻ BHYT từ 01/7/2024: 4 thay đổi quan trọng ảnh hưởng đến triệu người dân

Thẻ BHYT từ 01/7/2024: 4 thay đổi quan trọng ảnh hưởng đến triệu người dân

Bên cạnh các chính sách về lương, thưởng từ 01/7/2024 thì cũng có nhiều quy định liên quan đến BHYT nhận được sự quan tâm đặc biệt của người dân. Dưới đây là tổng hợp những quy định mới về thẻ BHYT từ 01/7/2024 không thể bỏ qua.