Khoản 10, 11, 13 Điều 6 Luật số 56/2024/QH15 sửa đổi các quy định về thủ tục hoàn thuế tại tại Luật Quản lý thuế 2019. Cụ thể:
(1) Bổ sung quy định tiếp nhận, phản hồi thông tin hồ sơ hoàn thuế
Cụ thể tại khoản 10 Điều 6 Luật số 56/2024/QH15 sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 1 Điều 72 Luật Quản lý thuế 2019 như sau:
- Cơ quan thuế quản lý trực tiếp người nộp thuế tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế đối với các trường hợp được hoàn thuế theo quy định của pháp luật về thuế;
- Cơ quan thuế áp dụng quản lý rủi ro, ban hành các quy trình nội bộ, triển khai ứng dụng công nghệ thông tin để phân loại hồ sơ hoàn thuế thuộc diện hoàn thuế trước hoặc kiểm tra trước hoàn thuế và giải quyết hồ sơ hoàn thuế theo quy định (bổ sung mới so với hiện hành)
- Cơ quan thuế quản lý khoản thu tiếp nhận hồ sơ hoàn trả tiền nộp thừa; trường hợp hoàn trả tiền nộp thừa theo quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp, quyết toán thuế thu nhập cá nhân thì cơ quan thuế tiếp nhận hồ sơ quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp, quyết toán thuế thu nhập cá nhân của người nộp thuế tiếp nhận hồ sơ hoàn trả tiền nộp thừa.
(2) Bổ sung cơ quan có thẩm quyền quyết định hoàn thuế theo pháp luật về thuế
Khoản 11 Điều 6 Luật số 56/2024/QH15 sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 76 Luật Quản lý thuế 2019 như sau:
Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, Cục trưởng Cục Thuế, Chi cục trưởng Chi cục Thuế, Chi cục trưởng Chi cục Thuế khu vực quyết định việc hoàn thuế đối với trường hợp hoàn thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
Quy định hiện hành: Tại khoản 1 Điều 76 Luật Quản lý thuế 20109 thì Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, Cục trưởng Cục Thuế tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định việc hoàn thuế đối với trường hợp hoàn thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
(3) Bãi bỏ quy định liên quan đến thời hạn giải quyết hồ sơ hoàn thuế
Theo đó, khoản 13 Điều 6 Luật số 56/2024/QH15 đã bãi bỏ khoản 3 Điều 75:
3. Quá thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, nếu việc chậm ban hành quyết định hoàn thuế do lỗi của cơ quan quản lý thuế thì ngoài số tiền thuế phải hoàn trả, cơ quan quản lý thuế còn phải trả tiền lãi với mức 0,03%/ngày tính trên số tiền phải hoàn trả và số ngày chậm hoàn trả. Nguồn tiền trả lãi được chi từ ngân sách trung ương theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
Lý giải về việc bãi bỏ, trước đó, theo Báo cáo Tổng kết thi hành 09 Luật trong đó có Luật Quản lý thuế 2019, thì Luật này quy định về trả tiền lãi cho người nộp thuế khi cơ quan thuế giải quyết hoàn thuế chậm với mức tính lãi là 0,03%/ngày.
Tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể về thẩm quyển, trình tự, thủ tục hoàn trả tiền lãi cho người nộp thuế và kinh phí chi trả nên hiện nay cơ quan thuế chưa có cơ sở để triển khai thực hiện (không có phát sinh nguồn tiền chi trả lãi theo khoản 3 Điều 75 Luật Quản lý thuế 2019). Do đó, Luật sửa đổi đã bãi bỏ quy định này.
Luật số 56/2024/QH15 có hiệu lực từ 01/01/2025.