Trước hết, Thông tư quy định thương nhân, tổ chức, cá nhân không được sử dụng website thương mại điện tử để kinh doanh các hàng hóa hạn chế kinh doanh như: Súng săn, đạn súng săn, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ; thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác; rượu các loại; thực vật, động vật hoang dã quý hiếm, bao gồm cả động vật sống và các bộ phận của chúng đã được chế biến... Đối với các loại hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện, thương nhân phải công bố trên website thương mại điện tử số, ngày cấp, nơi cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đối với hàng hóa, dịch vụ đó.
Đồng thời, Thông tư cũng làm rõ trách nhiệm của thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử, trong đó yêu cầu thương nhân, tổ chức này phải ngăn chặn và loại bỏ khỏi website những thông tin bán hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh và hạn chế kinh doanh; loại bỏ khỏi website những thông tin bán hàng giả, hàng nhái, hàng nhập lậu, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và các hàng hóa, dịch vụ vi phạm pháp luật khi phát hiện hoặc nhận được phản ánh xác thực...
Về hoạt động kinh doanh trên mạng xã hội, Thông tư quy định các mạng xã hội cho phép người tham gia được mở gian hàng hoặc lập website nhánh để trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; hoặc mạng xã hội có chuyên mục mua bán cho phép người tham gia đăng tin mua bán hàng hóa và dịch vụ phải tiến hành đăng ký với Bộ Công Thương dưới hình thức sàn giao dịch điện tử. Người bán hàng trên các mạng xã hội này phải có trách nhiệm khai báo thông tin về tên. địa chỉ trụ sở; số, ngày cấp và nơi cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; số điện thoại hoặc một phương thức liên hệ trực tuyến khác; đồng thời phải cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin về hàng hóa, dịch vụ...
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/01/2015; thay thế Thông tư số 12/2013/TT-BCT ngày 20/06/2013.
LuatVietnam