Theo Thông tư 01, công tác phòng, chống doping trong hoạt động thể thao được thực hiện theo quy định của Bộ luật Phòng, chống doping thế giới, tiêu chuẩn của Tổ chức Phòng, chống doping thế giới và quy định phòng, chống doping của Việt Nam.
Cụ thể, Điều 5 Thông tư này quy định 11 hành vi vi phạm Bộ luật Phòng, chống doping thế giới bao gồm:
- Có chất bị cấm, chất chuyển hóa/chất đánh dấu của chất bị cấm trong mẫu xét nghiệm của vận động viên.
- Sử dụng hoặc cố tình sử dụng chất bị cấm/phương pháp bị cấm.
- Lảng tránh, từ chối/bỏ lỡ việc lấy mẫu thử mà không phải vì lý do bất khả kháng sau khi có thông báo.
- Vi phạm các yêu cầu liên quan đến sự có mặt của vận động viên để kiểm tra doping ngoài thi đấu.
- Làm sai lệch hoặc gây cản trở đối với bất kỳ công đoạn nào của việc kiểm tra doping.
- Sở hữu chất bị cấm/phương pháp bị cấm.
- Buôn bán chất bị cấm/phương pháp bị cấm.
- Cho vận động viên uống, sử dụng chất bị cấm/phương pháp bị cấm trong thi đấu hoặc ngoài thi đấu; hỗ trợ, khuyến khích, sai khiến, bao che, giúp sức hoặc dính líu đến bất kỳ hành vi đồng lõa nào khác vi phạm quy định về phòng, chống doping.
- Đồng lõa, bao che cho 01 hoặc nhiều hành vi nêu trên.
- Vận động viên có liên hệ về chuyên môn thể dục thể thao với người hướng dẫn, huấn luyện viên, bác sĩ hoặc bất kỳ ai đang trong thời gian bị kỷ luật do vi phạm quy định về phòng, chống doping.
- Kỳ thị, trù dập người tố cáo hành vi vi phạm doping.