Lưu ý: Toàn bộ nội dung trả lời cho các câu hỏi dưới đây đều do AI Luật - Trợ lý ảo LuatVietnam.vn cung cấp. AI Luật đang từng bước hoàn thiện mỗi ngày nên có thể mắc lỗi. Bạn hãy cân nhắc kỹ và kiểm tra lại những thông tin quan trọng khi tham khảo.

Căn cứ vào Điều 629 Bộ luật Dân sự, số 91/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, di chúc miệng chỉ được lập trong trường hợp tính mạng của một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản. Di chúc miệng sẽ được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Trong trường hợp của ông C, nếu ông đã tuyên bố ý chí của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và các điều kiện về việc ghi chép, ký tên hoặc điểm chỉ, cũng như chứng thực trong thời hạn 05 ngày làm việc được thực hiện đầy đủ, thì di chúc miệng có thể được công nhận là hợp pháp. Ngược lại, nếu không đáp ứng đủ các điều kiện này, di chúc miệng có thể không được công nhận, và tài sản sẽ được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế không có di chúc.


Căn cứ vào Điều 630 Bộ luật Dân sự, số 91/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép.
- Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
Trong trường hợp của ông D, nếu di chúc được lập trong thời điểm ông đang nằm viện, bị ảnh hưởng bởi thuốc an thần và có dấu hiệu bị người hàng xóm tác động, thì có thể không đáp ứng điều kiện về sự minh mẫn, sáng suốt và không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép. Gia đình ông D có thể yêu cầu tòa án hủy di chúc nếu có đủ bằng chứng chứng minh rằng ông D không minh mẫn hoặc bị tác động khi lập di chúc.
Ngoài ra, căn cứ vào Điều 632 Bộ luật Dân sự, số 91/2015/QH13, mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc, người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc, người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Nếu người hàng xóm có vai trò làm chứng và thuộc một trong các trường hợp bị cấm, điều này cũng có thể là căn cứ để yêu cầu hủy di chúc.
Gia đình ông D cần thu thập các bằng chứng liên quan và có thể yêu cầu tòa án xem xét tính hợp pháp của di chúc dựa trên các điều kiện nêu trên.

Căn cứ vào Điều 626 Bộ luật Dân sự, số 91/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế và truất quyền hưởng di sản của người thừa kế. Do đó, bà B có quyền lập di chúc để lại tài sản cho con gái út và không để lại tài sản cho hai con trai.
Tuy nhiên, căn cứ vào Điều 644 Bộ luật Dân sự, số 91/2015/QH13, những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
- Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng.
- Con thành niên mà không có khả năng lao động.
Do đó, nếu hai người con trai của bà B thuộc một trong các trường hợp trên, họ có quyền yêu cầu chia di sản theo quy định của pháp luật, bất kể nội dung di chúc của bà B. Nếu không thuộc các trường hợp này, hai người con trai không có quyền khiếu nại và đòi chia di sản theo di chúc của bà B.