Khi còn sống, nhiều người muốn để lại tài sản của mình cho người khác sau khi chết thông qua di chúc. Vậy nếu di chúc đã được lập, người khác, có thể là vợ của người để lại di chúc có được thay đổi, sửa chữa… không?
Ai có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế và hủy bỏ di chúc?
Điều 626 Bộ luật Dân sự năm 2015 nêu rõ, người lập di chúc có các quyền sau đây:
- Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
- Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Bên cạnh đó, nội dung của di chúc phải bao gồm các nội dung chủ yếu gồm di sản để lại và nơi có di sản; Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản…
Đồng thời, người lập di chúc phải là người thành niên có đủ năng lực hành vi dân sự, minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép.
Với một số trường hợp đặc biệt dưới đây, khi lập di chúc, Bộ luật Dân sự bổ sung thêm một số yêu cầu:
- Di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi: Lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc;
- Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ: Phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
- Di chúc miệng: Nếu người di chúc thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Đồng thời, di chúc phải được xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng.
Căn cứ các quy định trên, việc lập di chúc, chỉ định người thừa kế, phân chia di sản thừa kế cho từng người thừa kế… thuộc hoàn toàn về quyền của người lập di chúc.
Về việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc, Điều 640 Bộ luật Dân sự năm 2015 nêu rõ:
Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào
Theo quy định này, chỉ có người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào.
Và theo khoản 5 Điều 643 Bộ luật Dân sự thì:
Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực
Như vậy, khi còn sống, một người có thể lập nhiều bản di chúc, sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ… di chúc đã lập nhưng chỉ có bản di chúc cuối cùng là có hiệu lực. Và đặc biệt, chỉ có người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung… di chúc đã lập của mình.
Vợ có quyền thay đổi di chúc của chồng không? (Ảnh minh họa)
Vợ có được thay đổi di chúc chung vợ chồng không?
Trước đây, theo quy định tại Điều 663 Bộ luật Dân sự năm 2005 (đã hết hiệu lực), vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung. Đồng thời, vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.
Tuy nhiên, việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì lại được quy định tại khoản 2 Điều 664 Bộ luật năm 2005 như sau:
Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.
Theo quy định này, vợ không thể sửa đổi, thay thế… phần di chúc của người chồng trong di chúc chung vợ, chồng mà chỉ được sửa đổi phần di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.
Hiện nay, Bộ luật Dân sự năm 2015 không còn quy định về di chúc chung vợ, chồng như trước đây nêu tại Bộ luật Dân sự năm 2005. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng không cấm lập di chúc chung vợ, chồng.
Dù vậy, về nguyên tắc, theo quy định hiện nay, người lập di chúc cũng chỉ được thay đổi, bổ sung, sửa chữa… những nội dung liên quan đến phần tài sản của mình.
Nói tóm lại, vợ không có quyền thay đổi di chúc của chồng dù là di chúc riêng hay di chúc chung vợ, chồng. Nếu còn thắc mắc, độc giả vui lòng liên hệ 1900.6192 để được hỗ trợ, giải đáp.