Trong đó, đáng chú ý là quy định cụ thể hơn về các trường hợp được tạm hoãn hoặc miễn thực hiện nghĩa vụ tham gia Dân quân tự vệ. Cụ thể:
(1) Trường hợp được tạm hoãn nghĩa vụ Dân quân tự vệ
Theo Điều 11 của Luật Dân quân tự vệ (được sửa đổi tại khoản 4 Điều 10 Luật sửa đổi 11 Luật về quân sự, quốc phòng 2025, số 98/2025/QH15), các đối tượng sau đây được tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ tham gia Dân quân tự vệ:
- Lao động duy nhất trong hộ nghèo, hộ cận nghèo
- Người phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động
- Người trong hộ gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra
Các trường hợp này phải được Chủ tịch UBND cấp xã hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức xác nhận thì mới được xem xét tạm hoãn.

(2) Trường hợp được miễn nghĩa vụ Dân quân tự vệ
Luật mới cũng quy định rõ những đối tượng được miễn tham gia nghĩa vụ này, bao gồm (dẫn chiếu tại Điều 11 và Điều 12 sửa đổi):
- Người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, đặc khu
- Người có hoàn cảnh gia đình khó khăn đột xuất, không còn điều kiện thực hiện nghĩa vụ (có xác nhận của UBND xã hoặc người đứng đầu cơ quan)
- Người mắc bệnh hoặc có lý do khác theo quy định, được cơ quan y tế hoặc cơ quan chức năng xác nhận (quy định chi tiết tại Điều 12)
Như vậy, quy định tại Luật mới đã bổ sung rõ các trường hợp khó khăn thực tế như thiên tai, dịch bệnh, hộ nghèo…
(3) Thẩm quyền quyết định tạm hoãn, miễn
Theo khoản 4 Điều 11 và khoản 3 Điều 12 (sửa đổi):
Chủ tịch UBND cấp xã, người đứng đầu cơ quan, tổ chức là người có thẩm quyền quyết định tạm hoãn hoặc miễn nghĩa vụ tham gia Dân quân tự vệ cho từng cá nhân cụ thể.
Quy định cũ chưa nêu rõ người ra quyết định việc tạm hoãn, miễn nghĩa vụ Dân quân tự vệ.