Về chính sách thuế thu nhập cá nhân đối với phúc lợi nhân viên. Cục Thuế Thành phố Hà Nội có ý kiến như sau:
- Căn cứ Bộ luật Lao động số 45/2019/QH14.
- Căn cứ Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13.
- Căn cứ Khoản 2 Điều 2 Thông tư 111/2013/TT-BTC:
“2. Thu nhập từ tiền lương, tiền công
Thu nhập từ tiền lương, tiền công là thu nhập người lao động nhận được từ người sử dụng lao động, bao gồm:
b) Các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các khoản phụ cấp, trợ cấp sau:
...
b.6) Trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, mức hưởng chế độ thai sản, mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau thai sản, trợ cấp do suy giảm khả năng lao động, trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thất nghiệp và các khoản trợ cấp khác theo quy định của Bộ luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội.
...
đ) Các khoản lợi ích bằng tiền hoặc không bằng tiền ngoài tiền lương, tiền công do người sử dụng lao động trả mà người nộp thuế được hưởng dưới mọi hình thức:
...
đ.7) Các khoản lợi ích khác.
Các khoản lợi ích khác mà người sử dụng lao động chi cho người lao động như: chi trong các ngày nghỉ, lễ; thuê các dịch vụ tư vấn, thuê khai thuế cho đích danh một hoặc một nhóm cá nhân: chi cho người giúp việc gia đình như lái xe, người nấu ăn, người làm các công việc khác trong gia đình theo hợp đồng...”
Căn cứ các quy định trên, trường hợp Công ty thuê các dịch vụ tư vấn, thuê khai thuế cho đích danh một hoặc một nhóm cá nhân thì thuộc đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công theo điểm đ.7 Khoản 2 Điều 2 Thông tư 111/2013/TT-BTC.
Trường hợp Công ty chi trả các khoản trợ cấp cho người lao động theo quy định của Bộ luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội thì các khoản thu nhập này không tính vào thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công của người lao động quy định tại điểm b.6 Khoản 2 Điều 2 Thông tư 111/2013/TT-BTC.