Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Công văn 1713/BYT-VPB1 2023 về việc trả lời kiến nghị cử tri sau Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
- Báo lỗi
- Gửi liên kết tới Email
- In tài liệu
- Chia sẻ:
- Chế độ xem: Sáng | Tối
- Thay đổi cỡ chữ:17
- Chú thích màu chỉ dẫn
thuộc tính Công văn 1713/BYT-VPB1
Cơ quan ban hành: | Bộ Y tế | Số công báo: | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 1713/BYT-VPB1 | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Công văn | Người ký: | Đào Hồng Lan |
Ngày ban hành: | 29/03/2023 | Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Y tế-Sức khỏe, Hành chính |
tải Công văn 1713/BYT-VPB1
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
BỘ Y TẾ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1713/BYT-VPB1 | Hà Nội, ngày 29 tháng 3 năm 2023 |
Kính gửi: Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hưng Yên
Bộ Y tế nhận được công văn số 2081/BDN ngày 30/12/2022 của Ban Dân nguyện về việc trả lời kiến nghị của cử tri gửi tới Quốc hội sau Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV, trong đó có một số kiến nghị của cử tri tỉnh Hưng Yên.
Sau khi nghiên cứu và rà soát các văn bản liên quan, Bộ Y tế xin trả lời đối với từng kiến nghị của cử tri liên quan đến lĩnh vực quản lý của ngành Y tế, cụ thể như sau:
1. Đối với kiến nghị: (1) Tham mưu Chính phủ trình Quốc hội xem xét sửa đổi bổ sung Luật BHYT và các Luật khác liên quan đến quy định trách nhiệm của các cơ quan trong việc để xảy ra tình trạng chậm và không tổ chức được đấu thầu thuốc, ảnh hưởng tới quyền lợi của bệnh nhân khi tham gia BHYT và khám chữa bệnh; (2) Đề nghị Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương chỉ đạo đẩy nhanh việc tổ chức đấu thầu thuốc, vật tư y tế để đảm bảo quyền lợi cho người dân tham gia BHYT và có cơ chế để áp dụng bảo đảm quyền lợi thanh toán chi phí cho các trường hợp bệnh nhân tham gia BHYT khi đi khám, chữa bệnh phải tự bỏ chi phí mua thuốc ở ngoài.
Để khắc phục tình trạng trên, Chính phủ và Bộ Y tế đã và đang triển khai nhiều giải pháp để khắc phục tình trạng thiếu thuốc, vật tư y tế để phục vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân:
1.1. Hoàn thiện hành lang pháp lý
Trong thời gian qua dưới sự quan tâm lãnh đạo của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo Bộ Y tế phối hợp với các bộ, ngành tham mưu để giải quyết triệt để vấn đề thiếu thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế. Bộ Y tế cùng các bộ, ngành đã rất nỗ lực và cố gắng tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn; chỉ đạo đẩy mạnh việc thực hiện mua sắm, cung ứng đủ thuốc, trang thiết bị y tế, đặc biệt tập trung tháo gỡ những khó khăn về mặt pháp lý, cụ thể:
- Ngày 09/01/2023 trình Quốc hội thông qua Luật Khám bệnh, chữa bệnh sửa đổi số 15/2023/QH15, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2024 với các giải pháp để tăng nguồn lực cho cơ sở khám bệnh, chữa bệnh như các quy định về giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, tự chủ hay các quy định về vay vốn, thuê, mượn thiết bị y tế...;
- Báo cáo Quốc hội ban hành Nghị quyết số 80/2023/QH15, trong đó cho phép tiếp tục sử dụng giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc hết thời hạn hiệu lực trong giai đoạn từ 01/01/2023 đến 31/12/2024 được tiếp tục sử dụng từ ngày hết hiệu lực đến hết ngày 31/12/2024. Với sự cho phép của Nghị quyết 80/2023/QH15, ngay trong tháng 02/2023, Bộ Y tế đã gia hạn giấy phép lưu hành của gần 10.000 thuốc, đảm bảo nguồn cung, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp cung ứng thuốc trên thị trường.
- Trình Chính phủ ban hành Nghị quyết số 144/NQ-CP ngày 05/11/2022 của Chính phủ về việc bảo đảm thuốc, trang thiết bị y tế và thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
- Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện số 778/CĐ-TTg ngày 05/9/2022, Công điện số 72/CĐ-TTg ngày 25/02/2023 về việc bảo đảm thuốc, trang thiết bị y tế để phục vụ công tác khám bệnh, chữa bệnh.
- Bộ Y tế ban hành Thông tư số 14/2022/TT-BYT ngày 06/12/2022 về việc bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành, liên tịch ban hành; theo đó đã bãi bỏ khoản 3, Điều 8 Thông tư số 14/2020/TT-BYT.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, các cơ chế chính sách: Sửa đổi Luật Dược 2016 (trình Chính phủ từ tháng 9/2022, đang hoàn thiện hồ sơ trình Quốc hội).
- Trình Chính phủ sửa đổi Nghị định số 146/2018/NĐ-CP về hướng dẫn Luật Bảo hiểm y tế (đã xin ý kiến Thành viên Chính phủ) để giải quyết các vấn đề bất cập liên quan tới bảo hiểm y tế.
- Ban hành Thông tư số 06/2023/TT-BYT ngày 12/3/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 15/2019/TT-BYT ngày 11/7/2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định việc đấu thầu thuốc tại các cơ sở y tế công lập.
Đặc biệt, để tiếp tục tháo gỡ những khó khăn liên quan tới đảm bảo việc cung ứng đầy đủ thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế phục vụ công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, ngay đầu tháng 3/2023, Bộ Y tế đã trình Chính phủ đã ban hành:
- Nghị định số 07/2003/NĐ-CP ngày 03/3/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2021/NĐ-CP ngày 08/11/2021 về quản lý trang thiết bị y tế nhằm giải quyết các tồn tại, hạn chế liên quan tới lĩnh vực trang thiết bị y tế, như: Tự động gia hạn giấy phép nhập khẩu, số đăng ký lưu hành, khơi thông các vướng mắc trong nhập khẩu trang thiết bị y tế (Giấy phép nhập khẩu TTBYT đã được cấp từ ngày 01/01/2018 đến 31/12/2021 được tiếp tục sử dụng đến hết ngày 31/12/2024; Số đăng ký lưu hành đối với TTBYT là sinh phẩm chẩn đoán invitro đã được cấp từ ngày 01/01/2014 đến ngày 31/12/2019 được tiếp tục sử dụng đến hết ngày 31/12/2024), thay đổi quản lý, kê khai giá TTBYT, quy định để giải quyết vướng mắc trong việc xử lý TTBYT khi bị thu hồi số đăng ký lưu hành...
- Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 04/3/2023 về việc tiếp tục thực hiện các giải pháp bảo đảm thuốc, trang thiết bị y tế trong đó có giải quyết các vấn đề liên quan tới thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế đối với các dịch vụ kỹ thuật thực hiện bằng máy do nhà thầu cung cấp sau khi trúng thầu vật tư, hóa chất theo kết quả lựa chọn nhà thầu được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của Luật Đấu thầu; hướng dẫn xác định giá gói thầu; việc sử dụng trang thiết bị y tế đã được cá nhân, tổ chức trong ngoài nước hiến, biếu, tặng cho, đóng góp, viện trợ, tài trợ nhưng chưa hoàn thành sở hữu toàn dân để khám bệnh, chữa bệnh.
Với những văn bản được ban hành nêu trên về cơ bản đã tháo gỡ được những khó khăn, vướng mắc của các cơ sở y tế.
Hiện nay, Bộ Y tế đang tiếp tục phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các Bộ, ngành, cơ quan liên quan tham mưu quyết liệt cho Chính phủ: Sửa đổi Luật Đấu thầu và Thông tư số 08/2022/TT-BKHĐT ngày 31/5/2022 Quy định chi tiết việc cung cấp, đăng tải thông tin về đấu thầu và lựa chọn nhà thầu trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia; sửa đổi Luật Giá, Nghị định số 29/NĐ-CP, Nghị định số 151/NĐ-CP; Thông tư số 58/2016/TT-BTC ; Thông tư số 277/2016/TT-BTC và Thông tư số 278/2016/TT-BTC ngày 14/11/2016... để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác mua sắm, đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế; đồng thời hướng dẫn các đơn vị, các cơ sở y tế, địa phương thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến mua sắm, đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế theo thẩm quyền.
1.2. Về công tác chỉ đạo, điều hành, chuyên môn
Trong các năm qua, Bộ Y tế đã quyết liệt triển khai nhiều giải pháp nhằm tăng cường xử lý, giải quyết việc đăng ký lưu hành, gia hạn đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc:
- Đẩy nhanh tiến độ cấp, gia hạn giấy đăng ký lưu hành theo quy định tại Luật Dược; ban hành các Thông tư liên quan đến công tác đăng ký thuốc, đẩy mạnh việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, đặc biệt với các quy định về hồ sơ gia hạn giấy đăng ký lưu hành thuốc[1]; đã tổ chức thêm các đơn vị thẩm định độc lập tại các trường đại học y, dược[2]; ban hành nhiều văn bản chỉ đạo điều hành về đảm bảo cung ứng thuốc, đặc biệt các thuốc hiếm, khó khăn về nguồn cung[3]. Qua đó đã giúp các cơ sở khám chữa bệnh nắm được thông tin về nguồn cung thuốc, chủ động trong việc xây dựng kế hoạch đảm bảo cung ứng đủ thuốc phục vụ công tác khám, chữa bệnh.
- Đã rà soát, dự thảo danh mục công bố gần 10.000 thuốc để thực hiện Nghị quyết số 80/2023/QH15 ngày 09/01/2023.
- Chỉ đạo thực hiện việc điều chỉnh giá thuốc kê khai, kê khai lại đối với các mặt hàng do tăng giá khách quan.
- Thực hiện phân cấp toàn diện phê duyệt thẩm quyền quyết định mua sắm, kế hoạch lựa chọn nhà thầu mua thuốc cho các cơ sở y tế trực thuộc Bộ.
- Đẩy nhanh tiến độ thực hiện mua sắm tập thuốc quốc gia, đàm phán giá (Trong năm 2022, đã tổ chức thành công 03 gói thầu thuốc thuộc danh mục đấu thầu tập trung cấp Quốc gia: giảm giá 1.418 tỷ đồng so với giá kế hoạch (giảm gần 18%); đàm phán giá thành công 61/69 mặt hàng thuốc: giảm giá 1.995 tỷ đồng (xấp xỉ 15%)).
- Kịp thời hỗ trợ các cơ sở y tế có vướng mắc liên quan đến thiếu thuốc.
- Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và các giải pháp nhằm ổn định tư tưởng cho cán bộ, công chức và chuyên gia thẩm định hồ sơ, tiếp tục đề xuất các giải pháp khắc phục tình trạng công chức và chuyên gia thẩm định xin thôi việc hoặc không tham gia thẩm định hồ sơ; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giải quyết hồ sơ trực tuyến, đến nay việc tiếp nhận hồ sơ của hầu hết các thủ tục hành chính trong đăng ký thuốc đã thực hiện trực tuyến; sửa đổi quy định về thu phí đăng ký thuốc và chế độ thù lao cho chuyên gia để thúc đẩy công tác thẩm định hồ sơ ...
- Bộ Y tế đã thành lập 04 Đoàn kiểm tra, khảo sát tình hình cung ứng, sử dụng thuốc, vật tư, trang thiết bị tại các cơ sở y tế, đồng thời có văn bản yêu cầu các Sở Y tế, các bệnh viện Trung ương báo cáo về tình hình cung ứng thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế để đánh giá thực trạng cung ứng thuốc, trang thiết bị y tế tại các cơ sở y tế. Phối hợp với các cơ sở y tế, các địa phương đánh giá tình hình thực hiện đảm bảo thuốc, vật tư y tế.
- Phối hợp cùng các địa phương và các cơ sở y tế rà soát các vướng mắc liên quan tới việc đảm bảo thuốc, trang thiết bị vật tư y tế của các cơ sở y tế để tổng hợp đề xuất các cấp có thẩm quyền giải quyết.
2. Đối với đề nghị có chính sách đồng bộ để thu hút nhân viên y tế tuyến huyện và tuyến xã; Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, kinh phí cho y tế cơ sở để đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh ban đầu cho Nhân dân; Đẩy mạnh công tác quản lý, đào tạo chuyên môn cho đội ngũ y bác sĩ, nhất là nhân viên y tế cơ sở đáp ứng nhu cầu về nhân lực y tế hiện nay; Cải cách chế độ tiền lương, phụ cấp cho cán bộ y tế cơ sở để cán bộ y tế cơ sở yên tâm công tác; Xây dựng khung giá dịch vụ y tế đúng, đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho y tế cơ sở tự chủ một phần về tài chính.
2.1. Về chính sách để thu hút nhân viên y tế tuyến huyện và tuyến xã; Cải cách chế độ tiền lương, phụ cấp cho cán bộ y tế cơ sở để cán bộ y tế cơ sở yên tâm công tác
Thời gian qua, có hiện tượng nhân viên y tế công lập đã xin nghỉ việc, chuyển công tác, chủ yếu do các nguyên nhân sau: (1) Do áp lực/khối lượng công việc tăng cao dẫn đến tình trạng quá tải đối với lực lượng ngành Y tế, đặc biệt trong giai đoạn dịch COVID-19 bùng phát. Nhân viên y tế làm việc với cường độ cao, khối lượng công việc lớn và thời gian kéo dài, hầu như không có ngày nghỉ; môi trường làm việc nguy hiểm, có nguy cơ lây nhiễm, mắc bệnh cao, thậm chí ảnh hưởng tính mạng đã tác động sâu sắc đến tâm lý, động lực làm việc của nhân viên y tế; (2) Do tiền lương và chế độ phụ cấp đối với viên chức y tế trong hệ thống y tế công lập thấp, nhất là tại các cơ sở y tế dự phòng và y tế cơ sở. Chính sách thu hút nhân viên y tế chưa đủ mạnh, chưa thực sự tạo được động lực để giữ chân cán bộ y tế và tạo sức hút để đội ngũ cán bộ viên chức y tế có trình độ và năng lực tham gia làm việc tại địa phương, nhất là tại vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Chương trình học tập, đào tạo phức tạp, kéo dài, chi phí cao ảnh hưởng đến hiệu quả thu hút sinh viên đăng ký theo học ngành y. Đồng thời giá dịch vụ y tế cho người có thẻ bảo hiểm y tế thấp chưa tính đủ yếu tố cấu thành, nên nguồn thu sự nghiệp thấp. Sức hút về lương, môi trường làm việc của hệ thống các bệnh viện, phòng khám tư nhân; (3) Môi trường và điều kiện làm việc nhiều áp lực, thiếu điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, máy móc, thuốc để phục vụ nhiệm vụ chuyên môn, làm hạn chế phát huy trình độ, năng lực, chuyên môn của cán bộ y tế.
Để khắc phục tình trạng trên, Bộ Y tế đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2023/NĐ-CP ngày 15/2/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập, trong đó áp dụng mức phụ cấp ưu đãi nghề 100% đối với viên chức làm chuyên môn y tế dự phòng, y tế cơ sở. Đồng thời đề nghị Ban Chỉ đạo Trung ương cải cách tiền lương quan tâm tới chế độ tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ ngành y tế khi thực hiện chế độ tiền lương mới.
Đồng thời Bộ Y tế nghiên cứu xây dựng quy định về tính đúng tính đủ giá dịch vụ y tế, đảm bảo nguồn lực tự chủ hoạt động của các bệnh viện công lập. Chú trọng công tác tuyển dụng và sử dụng nhân lực y tế; ưu tiên giáo dục, đào tạo, tuyển dụng và sử dụng nhân lực y tế cho các chuyên khoa khó tuyển và vùng khó khăn, y tế các tuyến huyện, tuyến xã. Tổ chức hình thức đối trực tiếp giữa các cấp chính quyền, địa phương/chuyên ngành (y tế, lao động, bảo hiểm, công đoàn...), lãnh đạo cơ sở khám chữa bệnh và người lao động để kịp thời quan tâm nắm bắt, giải quyết những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của người lao động; thực hiện tốt công tác thi đua khen thưởng, kịp thời biểu dương những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến có thành tích xuất sắc về công tác chuyên môn, tăng cường công tác tuyên truyền vận động cán bộ ngành y gắn bó với ngành.
2.2. Về đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, kinh phí cho y tế cơ sở để đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh ban đầu cho Nhân dân
Ngày 05/12/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2348/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong tình hình mới, trong đó đã quy định: Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bố trí ngân sách địa phương (cả chi đầu tư và chi sự nghiệp) cho Đề án, ưu tiên phân bổ kinh phí từ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Chương trình mục tiêu đầu tư phát triển hệ thống y tế địa phương, Chương trình mục tiêu y tế - dân số và huy động các nguồn vốn hợp pháp để thực hiện Đề án. Bảo đảm đủ nhân lực, nguồn tài chính cho hoạt động của y tế cơ sở; xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách, chế độ để thu hút bác sỹ về làm việc tại tuyến y tế cơ sở.
Ngày 30/01/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình. Chương trình phân bổ gần 14.000 tỷ đồng cho ngành Y tế để đầu tư xây mới, cải tạo, nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống y tế cơ sở, y tế dự phòng, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh, nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh của các Viện nghiên cứu, Bệnh viện cấp trung ương gắn với đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực y tế, sản xuất vắc xin trong nước, thuốc điều trị COVID-19. Bộ Y tế đã tổng hợp nhu cầu của các địa phương, đơn vị và báo cáo cấp có thẩm quyền để thực hiện việc phân bổ nguồn lực của Chương trình.
Hiện nay, Bộ Y tế đã và đang nỗ lực huy động các nguồn lực đầu tư cho y tế cơ sở, triển khai một số chương trình, dự án lớn nhằm tăng cường đầu tư toàn diện cho tuyến y tế cơ sở trong thời gian tới; ngày 08/3/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 202/QĐ-TTg về việc giao kế hoạch đầu tư vốn ngân sách trung ương của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; triển khai các nguồn lực đầu tư từ Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025; các dự án đầu tư cho y tế cơ sở nguồn vốn vay của Ngân hàng thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB).
Việc đầu tư đầu tư nâng cấp trang thiết bị y tế cho y tế cơ sở, trước hết thuộc trách nhiệm của chính quyền địa phương theo các chính sách của Đảng, Nhà nước và hướng dẫn của Bộ Y tế.
2.3. Công tác quản lý, đào tạo chuyên môn cho đội ngũ y bác sĩ, nhất là nhân viên y tế cơ sở đáp ứng nhu cầu về nhân lực y tế hiện nay.
Thời gian qua, Bộ Y tế đã triển khai nhiều hoạt động nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ y tế tại cơ sở như: Xây dựng chương trình, tài liệu và thực hiện đào tạo cho bác sỹ, y sĩ, điều dưỡng, hộ sinh và dược tại trạm y tế xã theo nguyên lý y học gia đình. Tổ chức đào tạo theo địa chỉ, đào tạo tại chỗ và tổ chức đào tạo bác sỹ trẻ tình nguyện cho các vùng khó khăn; tổ chức triển khai Đề án “Cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến trung ương, bệnh viện tuyến cuối của TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh về hỗ trợ các trạm y tế xã, phường, thị trấn nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh giai đoạn 2018-2020”; Đề án “Tăng cường đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, nâng cao năng lực chuyên môn y tế xã, phường giai đoạn 2019-2025”. Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 2628/QĐ-BYT ngày 22/6/2020 phê duyệt Đề án “Khám, chữa bệnh từ xa” giai đoạn 2020 - 2025, hướng đến mục tiêu mọi người dân đều được quản lý, tư vấn, khám bệnh, chữa bệnh, hỗ trợ chuyên môn của các bác sỹ từ tuyến xã đến tuyến Trung ương; người dân được sử dụng dịch vụ y tế có chất lượng của tuyến trên ngay tại cơ sở y tế tuyến dưới. Đến nay, đã thực hiện kết nối khám, chữa bệnh từ xa với 1.500 cơ sở y tế.
Trong giai đoạn tới, Bộ Y tế tiếp tục tập trung triển khai nhiều giải pháp, gồm: (1) Tăng cường chuyển giao kỹ thuật từ tuyến trên cả bằng phương thức trực tiếp và khám chữa bệnh từ xa; (2) Đào tạo nguồn nhân lực y tế cho y tế cơ sở theo vị trí việc làm, triển khai các chính sách thu hút và duy trì nguồn nhân lực y tế cơ sở, tăng cường luân phiên cán bộ y tế theo hai chiều từ dưới lên trên, trên xuống dưới; (3) Triển khai mô hình nhóm nhân lực y tế thực hiện đầy đủ chức năng cung ứng toàn bộ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu theo nguyên lý y học gia đình tại trạm y tế xã thay cho vai trò cá nhân bác sỹ gia đình. Nhóm nhân lực này không chỉ bao gồm những nhân viên cơ hữu tại trạm y tế xã mà bao gồm cả những nhân viên y tế tuyến trên (làm việc luân phiên tại trạm y tế xã, khám chữa bệnh định kỳ tại trạm y tế xã hay hỗ trợ từ xa cho trạm y tế xã); (4) Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kiến thức và kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ về dân số cho cán bộ y tế, dân số của Trung tâm y tế cấp huyện, trạm y tế xã, nhất là tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về dân số và phát triển; (5) Tiếp tục triển khai các đề án đào tạo nhân lực y tế cho vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa; từng bước đảm bảo số lượng và chất lượng nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe dân tại tuyến cơ sở, vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa.
- Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến đặc thù đào tạo nhân lực y tế nhằm tạo môi trường pháp lý triển khai đổi mới đào tạo nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu đảm bảo và nâng cao chất lượng nhân lực y tế, tiến tới hội nhập quốc tế; chuẩn hóa mô hình đào tạo phù hợp với Khung trình độ quốc gia và hội nhập quốc tế; hoàn thành xây dựng chuẩn năng lực, chuẩn đầu ra, chuẩn chương trình, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo khối ngành sức khỏe theo hướng dựa trên năng lực, phù hợp với từng lĩnh vực, chuyên ngành và trình độ đào tạo gắn với yêu cầu trong tình hình mới và nhu cầu sử dụng của hệ thống y tế.
- Đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng Y khoa Quốc gia, tổ chức thi, cấp chứng chỉ hành nghề có thời hạn phù hợp thông lệ quốc tế; hoàn thành xây dựng hệ thống kiểm định chương trình đào tạo đặc thù trong đào tạo lĩnh vực sức khỏe theo thông lệ quốc tế và triển khai có lộ trình phù hợp điều kiện Việt Nam.
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách về xác định vị trí việc làm, công nhận chức danh hành nghề, giảng dạy lâm sàng; chế độ đãi ngộ về lương, phụ cấp cho người giảng dạy, người học chuyên khoa, ... Xây dựng cơ chế tài chính về học bổng, học phí, kinh phí đào tạo, ... phù hợp với đặc thù đào tạo nhân lực y tế.
- Đào tạo và đào tạo lại để đáp ứng đủ số lượng cán bộ y tế các tuyến theo yêu cầu của công tác phòng, chống dịch, đặc biệt chú trọng và tăng cường đào tạo cán bộ y tế các chuyên khoa Hồi sức cấp cứu, Gây mê hồi sức, Truyền nhiễm,... bằng nhiều hình thức đào tạo như: bác sĩ nội trú, chuyên khoa cấp I, chuyên khoa cấp II, đào tạo liên tục cán bộ y tế, đào tạo chuyển giao kỹ thuật...
Bộ Y tế sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Lao động - Thương và Xã hội và các cơ quan liên quan đẩy mạnh công tác quản lý đào tạo nhân lực y tế, đặc biệt có các điều chỉnh phù hợp với thực tiễn trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo cần lưu ý tính đặc thù của nhân lực y tế đã được khẳng định tại Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 BCHTW khóa XII “Nghề Y là một nghề đặc biệt. Nhân lực y tế phải đáp ứng yêu cầu chuyên môn và y đức; cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt”.
2.4. Xây dựng khung giá dịch vụ y tế đúng, đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho y tế cơ sở tự chủ một phần về tài chính
Triển khai thực hiện Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 5702/QĐ-BYT ngày 15/12/2021 về kế hoạch thực hiện và đang triển khai các nội dung: (1) Rà soát để ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực Y tế - Dân số; và (2) Xây dựng, ban hành hoặc sửa đổi bổ sung định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí (nếu có) đối với các dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước; ban hành tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng, cơ chế giám sát, đánh giá, kiểm định chất lượng và quy chế kiểm tra, nghiệm thu dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước. Sau khi hoàn thiện việc xây dựng, ban hành hoặc sửa đổi bổ sung định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí (nếu có) đối với các dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước, Bộ Y tế sẽ ban hành đơn giá, giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước.
3. Đối với đề nghị có chính sách quan tâm quyền lợi, chế độ và chính sách đối với người cao tuổi, nhất là trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Trong những năm qua, Bộ Y tế đã triển khai nhiều chương trình, hoạt động để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đảm bảo chất lượng và phù hợp với chi phí của đa số người dân. Để đẩy mạnh hơn nữa công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, đảm bảo cho mọi người cao tuổi được thụ hưởng dịch vụ chăm sóc sức khỏe với chi phí phù hợp và chất lượng ngày càng cao. Ngày 31/12/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 137/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới. Ngày 13/10/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1579/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến năm 2030 với mục tiêu: “Chăm sóc và nâng cao sức khỏe người cao tuổi hướng tới già hóa khỏe mạnh, thích ứng với già hóa dân số nhanh góp phần thực hiện thành công Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030”. Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến năm 2030, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 403/QĐ-BYT ngày 20/01/2021 về Kế hoạch hành động của Bộ Y tế thực hiện Chương trình Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến năm 2030. Đồng thời đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, đôn đốc các tỉnh/thành phố tiếp tục triển khai đồng bộ và toàn diện Chương trình Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến năm 2030 tại địa phương.
Đến nay, đã có 55/63 tỉnh, thành phố đã được Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành kế hoạch thực hiện Chương trình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến năm 2030 tại địa phương. Hầu hết các tỉnh đều đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện và bố trí ngân sách của địa phương theo đúng với các văn bản đã hướng dẫn của Trung ương. Đối với một số tỉnh, thành phố chưa ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình của địa phương, hàng năm đều xây dựng kế hoạch và bố trí kinh phí năm để thực hiện các nội dung về Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ, các hoạt động thực hiện Chương trình Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại Trung ương; đôn đốc, hướng dẫn các tỉnh, thành phố tiếp tục triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Chương trình, góp phần thực hiện thắng lợi công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi nói chung cũng như thực hiện tốt các chính sách về quyền lợi, chế độ cho người cao tuổi đã được Cử tri quan tâm.
Trên đây là nội dung trả lời đối với kiến nghị của cử tri tỉnh Hưng Yên liên quan đến lĩnh vực y tế, Bộ Y tế trân trọng kính gửi Đoàn Đại biểu Quốc hội để thông tin tới cử tri.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Nơi nhận: | BỘ TRƯỞNG |
[1] Đã ban hành Thông tư số 07/2022/TT-BYT , Thông tư số 08/2022/TT-BYT ngày 5/9/2022 của Bộ Y tế.
[2] Đã giao Trường Đại học Dược Hà Nội, Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Y Dược Hải Phòng tham gia thẩm định hồ sơ.
[3] Từ năm 2022 đến nay, Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành về đảm bảo cung ứng thuốc: Công văn số 319/QLD-KD ngày 14/01/2022 chỉ đạo các bệnh viện, trung tâm kiểm soát bệnh tật thuộc Sở Y tế khẩn trương xây dựng kế hoạch và triển khai dự trữ thuốc để đảm bảo sẵn sàng cung ứng đủ thuốc, không để xảy ra tình trạng khan hiếm, thiếu thuốc phục vụ công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân, đảm bảo chất lượng và giá thành hợp lý, không để xảy ra tình trạng tăng giá đột biến; Công văn số 3850/BYT-QLD ngày 21/7/2022 gửi Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các đơn vị cung ứng thuốc để chủ động, kịp thời cung ứng dịch truyền Dextra 40; Công văn số 7242/BYT-QLD ngày 28/7/2022 gửi Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các bệnh viện, viện trực thuộc Bộ Y tế và các đơn vị sản xuất, kinh doanh thuốc để bảo đảm việc cung ứng thuốc điều trị cúm và kiểm soát giá các thuốc điều trị cúm mùa, đặc biệt đối với các thuốc điều trị cúm A (thuốc Tamiflu và các thuốc chứa hoạt chất Oseltamivir); Công văn số 7737/QLD-KD ngày 10/8/2022 gửi các cơ sở sản xuất, nhập khẩu thuốc, nguyên liệu làm thuốc tăng cường nhập khẩu thuốc, nguyên liệu làm thuốc để nghiên cứu sản xuất thuốc phòng, chống bệnh đậu mùa khỉ; Công văn số 7779/QLD-KD ngày 14/8/2022 gửi Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các bệnh viện, viện trực thuộc Bộ Y tế và các cơ sở nhập khẩu thuốc đôn đốc bảo đảm nguồn cung và yêu cầu báo cáo về kế hoạch nhập khẩu Protamin sulfat trong thời gian tới; các nguy cơ và tình trạng thiếu hụt nguồn cung (nếu có) và đề xuất các giải pháp khắc phục; Công văn số 8908/QLD-GT ngày 09/9/2022 gửi các cơ sở nhập khẩu thuốc thông báo nhu cầu của các địa phương và đề nghị các công ty tăng cường tìm kiếm nguồn cung; Công văn số 9082/QLD-KD ngày 15/9/2022 gửi các cơ sở nhập khẩu thuốc và Bệnh viện Bạch Mai để khẩn trương liên hệ, tìm kiếm các nguồn cung ứng một số thuốc hiếm, thuốc chuyên khoa dung cho một số bệnh đặc biệt; Công văn số 12557/QLD-KD ngày 25/11/2022 về việc đảm bảo cung ứng thuốc phòng, chống dịch bệnh và nhu cầu sử dụng thuốc trong dịp tết dương lịch và tết Nguyên đán Quý Mão 2023; Công văn số 13672/QLD-KD ngày 28/12/2022 về việc đảm bảo cung ứng dịch truyền Albumin, Globulin; Công văn số 374/QLD-KD ngày 10/01/2023 gửi Bệnh viện Việt Đức về việc cung ứng thuốc cho nhu cầu điều trị.