Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Báo cáo 216/BC-UBTVQH12 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Lý lịch tư pháp
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
- Báo lỗi
- Gửi liên kết tới Email
- In tài liệu
- Chia sẻ:
- Chế độ xem: Sáng | Tối
- Thay đổi cỡ chữ:17
- Chú thích màu chỉ dẫn
thuộc tính Báo cáo 216/BC-UBTVQH12
Cơ quan ban hành: | Ủy ban Thường vụ Quốc hội | Số công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 216/BC-UBTVQH12 | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Báo cáo | Người ký: | Uông Chu Lưu |
Ngày ban hành: | 24/04/2009 | Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Hành chính, Tư pháp-Hộ tịch |
tải Báo cáo 216/BC-UBTVQH12
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI --------------------- Số: 216/BC-UBTVQH12 | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----------------------- Hà Nội, ngày 24 tháng 4 năm 2009 |
BÁO CÁO GIẢI TRÌNH TIẾP THU, CHỈNH LÝ
DỰ THẢO LUẬT LÝ LỊCH TƯ PHÁP
Kính thưa các vị Đại biểu Quốc hội,
Tại Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XII, Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật lý lịch tư pháp (Luật LLTP). Sau kỳ họp, Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo Ủy ban tư pháp, Cơ quan chủ trì soạn thảo và các cơ quan có liên quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) để hoàn thiện dự thảo Luật, dự thảo Báo cáo giải trình, tiếp thu gửi xin ý kiến các vị ĐBQH, các Đoàn ĐBQH, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Tính đến 15 tháng 4 năm 2009,Ủy ban tư pháp đã nhận được 52 văn bản đóng góp ý kiến của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội.
UBTVQH xin trình Quốc hội Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật LLTP như sau:
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1. Về sự cần thiết ban hành Luật
Đa số ý kiến ĐBQH nhất trí với sự cần thiết ban hành Luật như Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của UBTP. Một số ý kiến đề nghị cân nhắc về sự cần thiết ban hành Luật; có ý kiến đề nghị chỉ nên ban hành pháp lệnh hoặc nghị định hoặc thực hiện như quy định hiện hành.
Về vấn đề này, UBTVQH nhận thấy, LLTP có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống dân sự của công dân, cũng như trong quản lý nhân sự và hỗ trợ hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có cơ sở dữ liệu riêng về LLTP và văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh toàn diện lĩnh vực này. Trong khi đó, thông tin về án tích, tình trạng thi hành án và thông tin về việc cấm đảm nhiệm chức vụ theo quy định của Luật phá sản được nhiều cơ quan khác nhau quản lý như Tòa án, Viện kiểm sát, Công an, Thi hành án dân sự. Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA ngày 08 tháng 02 năm 1999 của Bộ Tư pháp và Bộ Công an mới chỉ quy định về thủ tục và quan hệ phối hợp giữa hai ngành Tư pháp và Công an trong việc tra cứu thông tin, cấp Phiếu LLTP. Vì vậy, việc ban hành Luật LLTP là nhằm điều chỉnh toàn diện lĩnh vực này, đặc biệt là tạo cơ sở pháp lý để xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về LLTP, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và nhu cầu cấp phiếu LLTP ngày càng tăng của công dân, bảo đảm phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp, xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại và hội nhập quốc tế. Sự cần thiết ban hànhLuật LLTP đã được Quốc hội thảo luận, cân nhắc và quyết định đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII. Đồng thời, việc ban hành Luật cũng phù hợp với yêu cầu xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị là:“các đạo luật ngày càng giữ vị trí trung tâm, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội... giảm dần việc Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh...”.Hơn nữa, việc xây dựng cơ sở dữ liệu và quản lý LLTP liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân và trách nhiệm của các cơ quan tư pháp như Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, do đó việc ban hành Luật LLTP là cần thiết.
2. Về phạm vi quản lý lý lịch tư pháp (Điều 2)
Đa số ý kiến ĐBQH nhất trí với quy định về phạm vi quản lý LLTP như dự thảo Luật. Một số ý kiến đề nghị mở rộng phạm vi quản lý LLTP, bao gồm: “tiền sự”, các hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức xử lý hình sự, quyết định xử phạt vi phạm hành chính, một số biện pháp xử lý hành chính “đặc biệt”, biện pháp trục xuất theo thủ tục hành chính đối với người nước ngoài; trường hợp truy nã, đình nã; có ý kiến đề nghị không nên quy định việc cấm đảm nhiệm chức vụ, không được thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã của cá nhân có liên quan trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản.
Về vấn đề này, UBTVQH nhận thấy, mục đích của quản lý nhà nước về lĩnh vực LLTP là đáp ứng nhu cầu của cá nhân chứng minh người đó có hay không có án tích; ghi nhận việc xoá án tích, tạo điều kiện cho người đã từng bị kết án tái hoà nhập cộng đồng; hỗ trợ hoạt động tố tụng hình sự và thống kê tư pháp hình sự. Thực tiễn việc cấp phiếu LLTP thời gian qua cho thấy, khi cơ quan, tổ chức trong nước hoặc nước ngoài có nhu cầu cần biết LLTP của một người để xem xét việc xuất cảnh, nhập cảnh, cho nhập, thôi, trở lại quốc tịch, xin con nuôi; cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, kiểm toán, y dược tư nhân; tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, du học v.v..., thì điều mà cơ quan, tổ chức quan tâm là án tích và tình trạng thi hành án của người đó. Từ năm 1999 đến năm 2008, các Sở Tư pháp đã tiếp nhận yêu cầu và cấp 699.495 Phiếu LLTP cho công dân Việt Nam và người nước ngoài có thời gian cư trú ở Việt Nam. Nội dung của Phiếu LLTP được cấp cũng chỉ ghi người đó có án tích hay không có án tích, tình trạng thi hành án và đều được các cơ quan, tổ chức trong nước cũng như nước ngoài chấp nhận. Vì vậy, phạm vi quản lý LLTP trong Luật này được xác định bao gồm án tích và tình trạng thi hành án là phù hợp với thực tiễn yêu cầu cấp Phiếu LLTP trong nước và thông lệ quốc tế. Ngoài ra, để góp phần phục vụ công tác quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh, bảo đảm sự lành mạnh của môi trường kinh doanh, bên cạnh việc quản lý các hình phạt bổ sung về cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định của Bộ luật hình sự, thì phạm vi quản lý LLTP cần bao gồm cả việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, không được thành lập và quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Toà án tuyên bố phá sản theo quy định của Luật phá sản. Như vậy, LLTP không chỉ góp phần giúp cho cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích chung, mà còn bảo vệ các quyền lợi hợp pháp về chính trị, dân sự, kinh tế của công dân như: xem xét việc xuất cảnh, nhập cảnh, cho nhập, thôi, trở lại quốc tịch, xin con nuôi, cấp chứng chỉ hành nghề, tuyển dụng và quản lý lao động, du học v.v…
Về ý kiến ĐBQH đề nghị mở rộng phạm vi quản lý LLTP bao gồm cả “tiền sự”, các hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức xử lý hình sự, quyết định xử phạt vi phạm hành chính và một số biện pháp xử lý hành chính “đặc biệt” khác, UBTVQH thấy rằng, khái niệm “tiền sự” bao gồm các hành vi vi phạm của cá nhân bị xử lý kỷ luật hoặc xử lý vi phạm hành chính. Các loại quyết định này hiện do nhiều cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng với nhiều mức độ và hình thức xử lý trong nhiều lĩnh vực khác nhau ở tất cả các cấp hành chính, các cơ quan, tổ chức và đã được các cơ quan, tổ chức đó theo dõi, quản lý. Mặt khác, thực tế yêu cầu cấp Phiếu LLTP thời gian qua cũng chỉ bao gồm những thông tin về án tích và tình trạng thi hành án nên việc quy định cập nhật, xử lý các thông tin về xử lý kỷ luật và xử lý vi phạm hành chính (tiền sự) của cá nhân vào LLTP sẽ ảnh hưởng đến quyền nhân thân của công dân Việt Nam và người nước ngoài có thời gian cư trú tại Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế; còn đối với các trường hợp bị truy nã, đình nã, quá trình theo dõi các thông tin này hiện do cơ quan điều tra thực hiện và mục đích là phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm nên không cần bổ sung nội dung này vào phạm vi quản lý LLTP.
Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về phạm vi quản lý LLTP như dự thảo Luật.
3. Về quản lý cơ sở dữ liệu LLTP
Đa số ý kiến ĐBQH tán thành với dự thảo Luật quy định giao cho Bộ tư pháp quản lý cơ sở dữ liệu LLTP; một số ý kiến đề nghị giao cho Tòa án nhân dân tối cao hoặc Bộ công an để bảo đảm sự thuận tiện và tận dụng được cơ sở kỹ thuật, bộ máy hiện có. Về mô hình xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP, đa số ý kiến ĐBQH tán thành với dự thảo Luật quy định thành lập Trung tâm LLTP quốc gia và đề nghị không thành lập các Trung tâm LLTP cấp tỉnh; nhiệm vụ cập nhật thông tin, cấp Phiếu LLTP tại địa phương nên giao cho các Sở tư pháp thực hiện; có ý kiến đề nghị thành lập các Trung tâm LLTP ở 3 khu vực (Bắc, Trung, Nam) hoặc tại các thành phố lớn để quản lý cơ sở dữ liệu LLTP; có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ của Phòng tư pháp trong việc tiếp nhận, quản lý cơ sở dữ liệu LLTP, cấp Phiếu LLTP và quy định UBND cấp huyện có thẩm quyền quản lý nhà nước về LLTP tại địa phương.
UBTVQH nhận thấy, hiện nay ở nước ta chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia về LLTP, nên một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Luật này là tạo cơ sở pháp lý để xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về LLTP nhằm đáp ứng yêu cầu về quản lý LLTP. Việc giao cho cơ quan nào quản lý cơ sở dữ liệu LLTP thì cũng phải có tổ chức bộ máy và xây dựng từ đầu, đồng thời phải có sự phối hợp giữa các cơ quan Toà án, Viện kiểm sát, Thi hành án, Bộ tư pháp, Bộ công an, Bộ quốc phòng trong việc cung cấp, tiếp nhận, cập nhật, xử lý và trao đổi thông tin về án tích và tình trạng thi hành án. Trường hợp giao cho Tòa án nhân dân tối cao quản lý LLTP thì cũng phải xây dựng mới cơ sở dữ liệu LLTP. Hơn nữa, đây là lĩnh vực hành chính tư pháp đang do Chính phủ quản lý để phục vụ yêu cầu cấp Phiếu LLTP không chỉ của những người có án tích mà cho tất cả các công dân Việt Nam và người nước ngoài có thời gian cư trú ở Việt Nam. Như vậy, với chức năng, nhiệm vụ của ngành Tòa án, việc không giao cho Tòa án nhân dân tối cao quản lý cơ sở dữ liệu và cấp Phiếu LLTP để Tòa án tập trung làm tốt chức năng xét xử là phù hợp.
Trường hợp giao cho Bộ công an quản lý cơ sở dữ liệu LLTP, UBTVQH thấy rằng, cơ sở dữ liệu LLTP không đồng nhất và không thay thế hệ thống dữ liệu tàng thư căn cước can phạm do ngành Công an quản lý. Hệ thống tàng thư căn cước can phạm có nhiệm vụ chủ yếu phục vụ trực tiếp công tác điều tra, xử lý tội phạm và các yêu cầu khác của cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, được bảo mật theo quy định của pháp luật. Còn cơ sở dữ liệu LLTP bao gồm các thông tin về án tích, tình trạng thi hành án và thông tin về việc cấm đảm nhiệm chức vụ, không được thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định của Luật phá sản, mang tính chất dân sự, có giá trị chứng minh nhân thân tư pháp của cá nhân, vừa bảo đảm tính hợp pháp, vừa bảo đảm tính công khai, minh bạch để người dân có thể tiếp cận những thông tin về LLTP của mình. Như vậy, cùng với việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống dữ liệu tàng thư căn cước can phạm do ngành công an quản lý, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật, thì việc xây dựng mới hệ thống cơ sở dữ liệu LLTP để phục vụ nhu cầu cấp Phiếu LLTP của công dân là cần thiết.
Hiện nay, Bộ tư pháp đang được Chính phủ giao quản lý nhà nước về LLTP, các Sở tư pháp có nhiệm vụ cấp Phiếu LLTP nên việc giao Bộ tư pháp xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về LLTP là phù hợp, bảo đảm tính kế thừa, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi có yêu cầu cấp Phiếu LLTP. Hơn nữa, trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật, do còn có ý kiến khác nhau về cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP nên Thường trực Chính phủ đã xem xét và có ý kiến thống nhất vẫn giao nhiệm vụ này cho Bộ tư pháp như quy định của dự thảo Luật đã trình Quốc hội[1]. UBTVQH thấy rằng, việc giao cho Bộ tư pháp quản lý LLTP như đề nghị của Chính phủ cũng phù hợp với tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Khóa X là:“đối với một số nhiệm vụ thuộc Bộ quốc phòng, Bộ công an có đủ điều kiện dân sự hóa thì chuyển cho các bộ không thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh quản lý nhằm tập trung hơn nhiệm vụ xây dựng quân đội, công an cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”[2].
Về ý kiến đề nghị thành lập các Trung tâm LLTP ở 3 khu vực (Bắc, Trung, Nam) hoặc tại các thành phố lớn để quản lý cơ sở dữ liệu LLTP hoặc bổ sung quy định nhiệm vụ của Phòng tư pháp trong việc tiếp nhận, xử lý thông tin, cấp Phiếu LLTP và thẩm quyền quản lý nhà nước về LLTP của UBND cấp huyện, UBTVQH nhận thấy, trong điều kiện hiện nay, mô hình quản lý và cấp Phiếu LLTP như quy định của dự thảo Luật (mô hình 2 cấp) là phù hợp, có tính khả thi. Về lâu dài, để đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa, việc quản lý cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP cần được ứng dụng công nghệ thông tin, hướng tới xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP quốc gia thống nhất (mô hình 1 cấp), các Sở tư pháp được quyền truy cập, tra cứu thông tin LLTP để thực hiện cấp Phiếu LLTP.
Vì vậy, về quản lý cơ sở dữ liệu LLTP, tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng: thành lập Trung tâm LLTP quốc gia thuộc Bộ tư pháp với nhiệm vụ xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu LLTP trong phạm vi cả nước mà không thành lập các Trung tâm LLTP ở cấp tỉnh. Nhiệm vụ cập nhật thông tin và cấp Phiếu LLTP tại địa phương được giao cho Sở tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện. Cụ thể như sau:
“Điều 11. Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp
1. Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp là tập hợp các thông tin về án tích, về tình trạng thi hành án; về cấm đảm nhiệm chức vụ, không được thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản được cập nhật và xử lý theo quy định của Luật này.
2. Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp được xây dựng và quản lý tại Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia thuộc Bộ tư pháp và tại Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là Sở Tư pháp).
Chính phủ quy định cụ thể về tổ chức của Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia.”
4. Về quy định cập nhật thông tin trong trường hợp được xóa án tích (Điều 32)
Đa số ý kiến ĐBQH nhất trí với quy định của dự thảo Luật giao Trung tâm LLTP cập nhật thông tin, khi một người có đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích thì ghi việc xoá án tích vào LLTP của người đó như quy định tại điểm b khoản 1 Điều 32 dự thảo Luật. Một số ý kiến ĐBQH không nhất trí với quy định này của dự thảo Luật vì cho rằng quy định đó không phù hợp với Điều 270 Bộ luật tố tụng hình sự.
Về vấn đề này, UBTVQH nhận thấy, Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự quy định hai trường hợp được xóa án tích và người được xóa án tích coi như chưa bị kết án, cụ thể như sau:
- Đối với trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án được quy định tại Điều 65 và Điều 66 Bộ luật hình sự, thì Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định xóa án tích theo thủ tục quy định tại Điều 271 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Đối với trường hợp đương nhiên được xóa án tích, khi người bị kết án có đủ điều kiện quy định tại Điều 64 Bộ luật hình sự thì đương nhiên được xoá án tích mà không cần có thủ tục xem xét, quyết định của Tòa án. Điều 270 Bộ luật tố tụng hình sự chỉ quy định khi có yêu cầu của người đương nhiên được xoá án tích, Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm vụ án cấp giấy chứng nhận cho người đó.
Như vậy, Toà án không phải cấp giấy chứng nhận cho tất cả những người đương nhiên được xoá án tích, mà chỉ cấp cho người có yêu cầu. Người đương nhiên được xoá án tích hoàn toàn không phụ thuộc vào việc cấp giấy chứng nhận của Toà án. Do đó, quy định cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP có nhiệm vụ cập nhật thông tin về án tích, khi xác định một người có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật hình sự thì ghi vào LLTP của người đó là “đương nhiên được xóa án tích” và ghi “không có án tích” khi cấp Phiếu LLTP. Việc ghi không có án tích trong Phiếu LLTP thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta, giúp người đã từng bị kết án không bị phân biệt đối xử, tái hòa nhập cộng đồng. Quy định này nhằm xác định trách nhiệm của cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP trong việc cập nhật thông tin về trường hợp đương nhiên được xoá án tích, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân khi có yêu cầu cấp Phiếu LLTP và không thay thế thẩm quyền của Tòa án trong việc cấp giấy chứng nhận xóa án tích đương nhiên quy định tại Điều 270 Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì vậy, tiếp thu ý kiến các vị ĐBQH, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho chỉnh lý nội dung này như sau:
“Điều 32. Cập nhật thông tin trong trường hợp người bị kết án được xoá án tích
1. Trường hợp người bị kết án đương nhiên được xoá án tích, thì Sở Tư pháp thực hiện việc cập nhật thông tin như sau:
a) Khi nhận được giấy chứng nhận xóa án tích của Tòa án thì ghi “đã được xóa án tích” vào Lýlịch tư pháp của người đó;
b) Khi xác định người bị kết án có đủ điều kiện đương nhiên được xoá án tích theo quy định của Bộ luật hình sự thì ghi “đương nhiên được xóa án tích” vào Lýlịch tư pháp của người đó.
2. Trường hợp người bị kết án được Toà án quyết định xoá án tích theo quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự thì Sở Tư pháp ghi “đã được xóa án tích” vào Lý lịch tư pháp của người đó.”
Đồng thời, để bảo đảm tính chính xác, chặt chẽ trong việc cấp Phiếu LLTP, tại điểm b, khoản 2 Điều 43 dự thảo Luật đã quy định đối với người đã được xoá án tích và thông tin về việc xoá án tích đã được cập nhật vào LLTP theo quy định tại Điều 32 của Luật này thì cơ quan cấp Phiếu LLTP ghi “không có án tích” vào Phiếu LLTP. Trong trường hợp cần thiết, Sở Tư pháp có trách nhiệm xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP và chịu trách nhiệm về tính xác thực của nội dung Phiếu LLTP theo quy định tại khoản 3 Điều 45 dự thảo Luật.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỤ THỂ
1. Về tên gọi của Luật
Có ý kiến ĐBQH cho rằng nội dung của Luật chủ yếu quy định về việc quản lý LLTP. Do vậy đề nghị đổi tên gọi của Luật làLuật quản lý LLTP.
UBTVQH thấy rằng, bên cạnh nội dung quản lý nhà nước về LLTP, Luật còn quy định về trình tự, thủ tục cung cấp, tiếp nhận thông tin LLTP; tổ chức, quản lý cơ sở dữ liệu LLTP; cấp Phiếu LLTP. Vì vậy, để phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ tên gọi của Luật làLuật lý lịch tư pháp.
2. Về giải thích từ ngữ (Điều 2)
- Có ý kiến ĐBQHđề nghị bổ sung giải thích thuật ngữ“Thông tin LLTP về cấm đảm nhiệm chức vụ, không được thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã”;
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã cho bổ sung vào Điều 2 dự thảo Luật nội dung “Thông tin lý lịch tư pháp về cấm đảm nhiệm chức vụ, không được thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã là thông tin về cá nhân người bị cấm đảm nhiệm chức vụ, chức vụ bị cấm đảm nhiệm, thời hạn không được thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã theo quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án”.
- Có ý kiến ĐBQHđề nghị chỉnh lý thuật ngữ “LLTP” trong đó thay cụm từ“lý lịch”bằng cụm từ“tập hợp thông tin”; hoặc đề nghị quy định “LLTP là loại Phiếu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho người có yêu cầu nhằm xác nhận người đó có hoặc không có tiền án và thông tin về việc cấm đảm nhiệm chức vụ”
UBTVQH thấy rằng, thuật ngữ“LLTP”quy định trong dự thảo Luật đã được thể hiện rõ nội dung và có sự phân biệt với các khái niệm“Phiếu LLTP”, “cơ sở dữ liệu LLTP”.Tuy nhiên, để bảo đảm tính chính xác và chặt chẽ hơn, UBTVQH đã tiếp thu và chỉnh lý như sau:“Lý lịch tư pháp là lý lịch về án tích của người bị kết án bằng bản án hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tình trạng thi hành bản án đó và thông tin về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, không được thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản”.
3. Về mục đích quản lý vàđối tượng quản lý LLTP(Điều 3,Điều 5)
Về mục đích quản lý LLTP, có ý kiến ĐBQH đề nghịbỏ quy định “hỗ trợ hoạt động tố tụng hình sự và thống kê tư pháp hình sự”tại khoản 3 Điều 3.
UBTVQH nhận thấy, bên cạnh việc đáp ứng yêu cầu của cá nhân về cấp Phiếu LLTP, ghi nhận việc xóa án tích, tạo điều kiện cho người đã bị kết án tái hòa nhập cộng đồng thì trong trường hợp cần thiết, các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP của cá nhân để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thống kê tư pháp hình sự. Vì vậy, quy định tại khoản 3 Điều này của dự thảo Luật là phù hợp.
Về đối tượng quản lý LLTP, có ý kiến ĐBQH đề nghị bổ sung quy định đối tượng quản lý LLTP bao gồm người nước ngoài cư trú tại Việt Nam bị Toà án nước ngoài kết án nếu có liên quan hoặc ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước Việt Nam.Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định đối tượng là người nước ngoài và người Việt Nam sống ở nước ngoài đã từng có thời gian cư trú tại Việt Nam.
UBTVQH nhận thấy, đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam bị Toà án nước ngoài kết án thì Luật LLTP không thể quy định trách nhiệm của Tòa án nước ngoài trong việc cung cấp thông tin LLTP cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. Mặt khác, trong trường hợp các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cần biết thông tin về LLTP của những người này, thì có thể yêu cầu người đó xuất trình Phiếu LLTP.Đối với trường hợpngười nước ngoài và người Việt Nam sống ở nước ngoài đã từng có thời gian cư trú tại Việt Nam, theo quy định tại Điều 5 dự thảo Luật thì những người này cũng thuộc đối tượng quản lý LLTP. Do đó,UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ như quy định của dự thảo Luật.
4.Về quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP (Điều 7)
Có ý kiến ĐBQH đề nghị bổ sung quyền yêu cầu cấp phiếu LLTP của cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, cơ quan đăng ký kinh doanh, đăng ký thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã.
UBTVQH nhận thấy, việc quy định đối tượng có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP cần bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quyền bí mật đời tư của cá nhân. Do đó, ngoài cá nhân có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP của mình thì chỉ nên quy định các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP. Trường hợp các cơ quan, tổ chức cần biết về LLTP của cá nhân để phục vụ cho hoạt động quản lý nhân sự, đăng ký kinh doanh, thành lập doanh nghiệp, hành nghề v.v…, thì có thể yêu cầu cá nhân xuất trình Phiếu LLTP. Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP như dự thảo Luật.
5. Về các hành vi bị cấmvàquản lý nhà nước về LLTP (Điều 8, Điều 9)
- Có ý kiến ĐBQHđề nghị bổ sung một số hành vi: “cấp phiếu LLTP không chính xác”, “cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật”,“cố tình ghi sai các nội dung trong LLTP”,“làm sai lệch dữ liệu LLTP” vào Điều 8.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉnh lý, bổ sung các nội dung trên vào khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 8 dự thảo Luật.
- Có ý kiến ĐBQH đề nghị bổ sung quy định“Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện quản lý nhà nước”;có ý kiến đề nghị bổ sung nhiệm vụ của UBND cấp tỉnh trong việc bảo đảm về biên chế, cơ sở vật chất vàtổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật về LLTP tại địa phương.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉnh lý, bổ sung các nội dung trên vào Điều 9 dự thảo Luật.
6. Về cung cấp, tiếp nhận, cập nhật, xử lý thông tin LLTP (Chương III)
- Về nhiệm vụ của Sở Tư pháp trong quản lý cơ sở dữ liệu LLTP (Điều 13), có ý kiến ĐBQH đề nghị sửa lại khoản 2 cho thống nhất với nhiệm vụ của Sở tư pháp trong việc tiếp nhận, cập nhật, xử lý thông tin LLTP theo quy định của dự thảo Luật.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉnh lý quy định này tại khoản 2 Điều 13 của dự thảo Luật.
- Có ý kiến ĐBQH đề nghị dự thảo Luật cần phải quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong việc cung cấp, tiếp nhận, cập nhật, xử lý thông tin LLTP; có ý kiến đề nghị bổ sung vai trò chủ động của Trung tâm LLTP trong việc yêu cầu các cơ quan có liên quan cung cấp thông tin và thẩm định tính xác thực của thông tin LLTP.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng: quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, các cơ quan có thẩm quyền của Bộ công an, Bộ quốc phòng, Trung tâm LLTP quốc gia, Sở tư pháp trong việc cung cấp, tiếp nhận, cập nhật, xử lý thông tin LLTP. Chương III của dự thảo Luật đã được chỉnh lý để thể hiện nội dung trên, trong đó bổ sung mới 05 điều quy định cụ thể nhiệm vụ của cơ quan thi hành án thuộc Bộ quốc phòng; cơ quan thi hành án dân sự; cập nhật thông tin trong trường hợp dẫn độ, trục xuất; cập nhật thông tin LLTP tại Trung tâm LLTP quốc gia; bổ sung, đính chính thông tin LLTP (Điều 18a, Điều 18b, Điều 23b, Điều 29a, Điều 33a).
- Có ý kiến ĐBQH đề nghị bổ sung nhiệm vụ của giám thịtrại tạm giamtrong việc cung cấp thông tin LLTP về án tích;
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉnh lý bổ sung quy định này vào khoản 1 Điều 18, khoản 1 Điều 18a dự thảo Luật.
- Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “Sở tư phápnơi có trại giam”bằngcụm từ“Sở tư phápnơingười mãn hạn tù về cư trú”quy định tại khoản 1 Điều 18 và khoản 1 Điều 18a để thuận tiện cho việc tra cứu, xác nhận LLTP sau này khi công dân đó có yêu cầu.
UBTVQH nhận thấy, quy định giám thị trại giam gửi bản sao giấy chứng nhận người bị kết án tù đã chấp hành xong hình phạt cho Sở tư phápnơi có trại giamđể tạo thuận tiện cho giám thị trại giam trong việc cung cấp thông tin. Sở tư pháp nơi tiếp nhận thông tin có trách nhiệm xử lý thông tin để gửi cho Sở tư pháp nơi người bị kết án tù đã chấp hành xong hình phạt về cư trú. Do đó, UBTVQH đề nghị cho giữ như dự thảo.
7. Về hình thức cung cấp thông tin LLTP về án tích và xóa bỏ thông tin trong LLTP (Điều 23a, Điều 31)
- Có ý kiến ĐBQH cho rằng quy định tại Điều 23a có nội dung tương tự với Điều 35 dự thảo Luật, do vậy đề nghị bỏ Điều 35 và bổ sung nội dung vào Điều 23a.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉnh lý ghép quy định củaĐiều 23a vào Điều 35 dự thảo Luật.
-Có ý kiến ĐBQHkhông nhất trí với quy định xóa bỏ thông tin trong LLTP khi tội phạm đó được xóa bỏ theo qui định của Bộ luật hình sự.
UBTVQH nhận thấy, theo quy định của Bộ luật hình sự, trường hợp điều luật xóa bỏ một tội phạm thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành. Như vậy, hành vi đó không bị coi là tội phạm, việcquy định xóa bỏ thông tin trong LLTP khi tội phạm đó được xóa bỏ là phù hợp với quy định của Bộ luật hình sự và chính sách hình sự của Nhà nước ta. Do đó, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ như dự thảo Luật.
8. Về thời hạn giải quyết yêu cầu cấp Phiếu LLTP và tra cứu thông tin LLTP
Có ý kiến ĐBQH đề nghịbổ sung quy định về thời hạn giải quyết yêu cầu cấp phiếu LLTP số 2 theo yêu cầu của cá nhân quy định tại khoản 2 Điều 49 dự thảo Luật.Có ý kiến đề nghị quy định rõ thời hạn tra cứu tại Trung tâm LLTP quốc gia trong trường hợp Sở Tư pháp có yêu cầu tra cứu và ngược lại cũng như mối quan hệ công tác giữa Trung tâm LLTP quốc gia và Sở Tư pháp.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉnh lý theo hướng quy định cụ thể về thời hạn giải quyết yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2 và thời hạn tra cứu thông tin tạiTrung tâm LLTP quốc gia và Sở Tư pháp để phục vụ yêu cầu cấp Phiếu LLTP.
9.Về giải quyết khiếu nại, tố cáo (Chương V)
-Có ý kiến ĐBQH đề nghị bỏ Chương này, vì đối chiếu với quy định tại Điều 5 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Chương V dự thảo Luật không có nội dung mới.Có ý kiếnĐBQH đề nghị bổ sung quy định cụ thể trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong việcquản lý, cấp và sử dụng phiếu LLTP, việc đính chính, thay đổi, huỷ bỏphiếu LLTP trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền xác định việc khiếu nại, tố cáo của đương sự là có căn cứ.
UBTVQH nhận thấy,LLTP là vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền nhân thân của công dân. Do đó, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân về các hành vi vi phạm trong quản lý, cấp và sử dụng phiếu LLTP cần được quy định cụ thể trong Luật. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉnh lý, bổ sung quy định về thời hiệu, thẩm quyền, thời hạn giải quyết khiếu nại, đính chính, thay đổi, huỷ bỏ phiếu LLTP trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền xác định việc khiếu nại, tố cáo của đương sự là có căn cứ tại các điều: 52, 52a, 52b và 52c.
10. Về điều khoản chuyển tiếp (Điều 53)
Một số ý kiến ĐBQH đề nghị cân nhắc rút ngắn thời hạn chuyển tiếp, không kéo dài đến 5 năm như dự thảo Luật; có ý kiến đề nghị không quy định thời hạn chuyển tiếp mà nên quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong việc phối hợp cung cấp, trao đổi thông tin LLTP có trước ngày Luật này có hiệu lực; ý kiến khác đề nghị bỏ Điều này.
Về vấn đề này, UBTVQH thấy rằng, việc xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP đặt ra yêu cầu không chỉ tiếp nhận, cập nhật và xử lý thông tin LLTP từ ngày Luật này có hiệu lực mà còn phải cập nhật, xử lý thông tin LLTP đã có từ trước. Đây là công việc đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan như Toà án, Viện kiểm sát, Thi hành án, Bộ tư pháp, Bộ công an, Bộ quốc phòng. Do đó, việc quy định điều khoản chuyển tiếp trong dự thảo Luật là cần thiết. Đồng thời, tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho chỉnh lý quy định điều khoản chuyển tiếp theo hướng không quy định thời hạn chuyển tiếp và xác định rõ nhiệm vụ của Bộ tư pháp, các cơ quan có liên quan trong việc trao đổi, cung cấp thông tin về án tích, tình trạng thi hành án; thông tin về cấm đảm nhiệm chức vụ không được thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định của Luật phá sản có trước ngày Luật này có hiệu lực như quy định tại Điều 53 dự thảo Luật.
11. Về các nội dung khác
Ngoài những nội dung trên đây,UBTVQHđã chỉ đạo các cơ quancó liênquan nghiên cứu, tiếp thuý kiến Đại biểu Quốc hội đểchỉnh lýtoàn diện dự thảo Luật.
Quá trình rà soát, đã chỉnh lý 45 điều; bỏ 4 điều (Điều 20, Điều 21, Điều 24 và Điều 33) để chuyển nội dung vào các điều luật khác; bổ sung 8 điều (Điều 18a, Điều 18b, Điều 23b, Điều 29a, Điều 33a,Điều 52a, Điều 52bvàĐiều 52c); giữ nguyên nội dung 4 điều (Điều 10, Điều 14, Điều 41 và Điều 51); chuyển nội dung Chương IV thành mục 3 của Chương III. Dự thảo Luật được chỉnh lý trình Quốc hội có 6 chương, 57 điều.
Kính thưa các vị Đại biểu Quốc hội,
Trên đây là báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến của Đại biểu Quốc hội về dự thảo Luật Lý lịch tư pháp, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
| TM. UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘIPHÓ CHỦ TỊCH(Đã ký)
Uông Chu Lưu |
1Công văn số 1207/VPCP-PL ngày 25/02/2009 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến của Thường trực Chính phủ.
[2]Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/08/2007 về“Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước”.