Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân tối cao | Số công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 01/2006/NQ-HĐTP | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Nguyễn Văn Hiện |
Ngày ban hành: | 12/05/2006 | Ngày hết hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày hết hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Áp dụng: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Hình sự, Tư pháp-Hộ tịch |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
SỐ 01/2006/NQ-HĐTP NGÀY 12 THÁNG 5 NĂM 2006
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ vào Luật tổ chức Toà án nhân dân;
Để áp dụng đúng và thống nhất các quy định của Bộ luật hình sự (sau đây viết tắt là BLHS);
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
QUYẾT NGHỊ:
1.1. Cũng được áp dụng tình tiết “người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Bị cáo là người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 15 tuổi khi phạm tội và cha, mẹ của họ đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;
b) Bị cáo là người từ đủ 15 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi khi phạm tội và cha, mẹ của họ đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nếu bị cáo không có tài sản;
c) Bị cáo (không phân biệt là người đã thành niên hay người chưa thành niên) hoặc cha, mẹ của bị cáo chưa thành niên đã tự nguyện dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhưng người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối nhận, nếu số tiền, tài sản đó đã được giao cho cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác quản lý để thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;
d) Bị cáo (không phân biệt là người đã thành niên hay người chưa thành niên) hoặc cha, mẹ của bị cáo chưa thành niên xuất trình được chứng cứ chứng minh là họ đã tự nguyện dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhưng người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối nhận và họ đã đem số tiền, tài sản đó về nhà cất giữ để sẵn sàng thực hiện việc bồi thường khi có yêu cầu;
đ) Bị cáo không có tài sản để bồi thường nhưng đã tích cực tác động,
đề nghị cha, mẹ hoặc người khác (vợ, chồng, con, anh, chị, em, bạn bè...) sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và những người này đã thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;
e) Bị cáo không có trách nhiệm sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra (ví dụ việc bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ) nhưng đã tự nguyện dùng tiền, tài sản của mình để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả hoặc đã tích cực tác động, đề nghị cha, mẹ hoặc người khác sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả (nếu bị cáo không có tài sản để bồi thường) và những người này đã thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.
1.2. Đối với các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm đ và e tiểu mục 1.1 mục 1 này mà bị cáo không có việc tác động, đề nghị cha, mẹ hoặc người khác sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, nếu những người này đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thì bị cáo chỉ được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 của BLHS.
2.1. Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già” đối với những trường hợp phạm tội do lỗi cố ý, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của bị cáo có nhận biết được hay không nhận biết được người bị xâm hại là trẻ em, phụ nữ có thai, người già.
2.2. “Trẻ em” được xác định là người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 1 của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
2.4. “Người già” được xác định là người từ 70 tuổi trở lên.
3.1. Tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 của BLHS
“Dùng hung khí nguy hiểm” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 của BLHS là trường hợp dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.
Ví dụ: Theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì dao nhọn là phương tiện nguy hiểm và đã được A sử dụng gây thương tích cho B thì thuộc trường hợp “dùng hung khí nguy hiểm”.
3.2. Tình tiết “phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS
a) “Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS được hiểu là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người từ hai lần trở lên hoặc của hai người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người) và trong các lần đó chưa có lần nào bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu xử lý hành chính, xử lý
kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người” để xét xử bị cáo theo khoản 1, khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 104 của BLHS được thực hiện theo hướng dẫn tại các điểm b, c và d tiểu mục 3.2 này.
b) Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 104 của BLHS trong các trường hợp sau đây:
b.1) Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người từ hai lần trở lên mà mỗi lần tỷ lệ thương tật dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả các lần từ 11% trở lên.
Trường hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ thương tật từ 11%
đến 30%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 11% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 104 của BLHS.
b.2) Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của hai người
trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người) mà mỗi lần tỷ lệ thương tật dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả các lần từ 11% trở lên.
Trường hợp trong các lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 11% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 104 của BLHS.
c) Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 2 Điều 104 của BLHS trong các trường hợp sau đây:
c.1) Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người từ hai lần trở lên mà có ít nhất hai lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%.
Trường hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 31% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 2 Điều 104 của BLHS.
c.2) Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của hai người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người) mà trong đó có ít nhất hai người và mỗi người một lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%.
Trường hợp trong các lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 31% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 2 Điều 104 của BLHS.
d) Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 3 Điều 104 của BLHS trong các trường hợp sau đây:
d.1) Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người từ hai lần trở lên mà có ít nhất hai lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
Trường hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 61% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 3 Điều 104 của BLHS.
d.2) Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của hai người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người) mà trong đó có ít nhất hai người và mỗi người một lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
Trường hợp trong các lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 61% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 3 Điều 104 của BLHS.
3.3. Tình tiết “đối với thầy giáo, cô giáo của mình” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 104 của BLHS
a) Chỉ áp dụng tình tiết “đối với thầy giáo, cô giáo của mình” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 104 của BLHS khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
a.1) Nạn nhân phải là thầy giáo, cô giáo tức là người đã hoặc đang làm công tác giảng dạy theo biên chế hoặc theo hợp đồng tại cơ quan, tổ chức có chức năng giáo dục, đào tạo, dạy nghề được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép;
a.2) Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân là vì lý do thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, dạy nghề của họ đối với bị cáo, không phân biệt nhiệm vụ đó đã được thực hiện hay đang được thực hiện và không kể thời gian dài hay ngắn;
a.3) Tỷ lệ thương tật của nạn nhân dưới 11%.
b) Chỉ áp dụng tình tiết “đối với thầy giáo, cô giáo của mình” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 2 Điều 104 của BLHS khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
b.1) Các điều kiện được hướng dẫn tại các điểm a.1 và a.2 tiểu mục 3.3 này;
b.2) Tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 11% đến 30%.
c) Chỉ áp dụng tình tiết “đối với thầy giáo, cô giáo của mình” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 3 Điều 104 của BLHS khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
c.1) Các điều kiện được hướng dẫn tại các điểm a.1 và a.2 tiểu mục 3.3 này;
c.2) Tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 31% đến 60%.
4. Về tình tiết “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 254 của BLHS
4.1. Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần” đối với người chứa mại dâm khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Chứa mại dâm (không phân biệt tại một địa điểm hay tại các địa điểm khác nhau) một đôi hoặc nhiều đôi mua bán dâm khác nhau từ hai lần trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau (không phân biệt thời gian dài hay ngắn);
b) Chứa mại dâm hai đôi mua bán dâm trở lên độc lập với nhau trong cùng một khoảng thời gian;
c) Chứa mại dâm một người mua bán dâm với hai người trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau.
4.2. Không coi là phạm tội nhiều lần trong các trường hợp sau đây:
a) Chứa mại dâm một đôi mua bán dâm trong một khoảng thời gian liên tục;
b) Chứa mại dâm nhiều người (một nhóm) cùng đến mua bán dâm, nhưng chỉ một người trong số họ hoặc một số người trong số họ hoặc tất cả họ cùng nhau thoả thuận đứng ra giao dịch với người chứa mại dâm để trả tiền thuê địa điểm, phương tiện một lần và việc mua bán dâm diễn ra trong cùng một khoảng thời gian.
5. Về tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 48 và một số điều luật trong Phần các tội phạm của BLHS
5.1. Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
a) Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xoá án tích;
b) Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
Ví dụ: A là một người không nghề nghiệp, chuyên sống bằng nguồn thu nhập từ việc phạm tội. Trong một thời gian, A liên tiếp thực hiện năm vụ trộm cắp tài sản (tài sản chiếm đoạt được trong mỗi vụ có giá trị từ năm trăm ngàn đồng trở lên). Trong trường hợp này, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải bị áp dụng tình tiết định khung hình phạt “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.
5.2. Khi áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, cần phân biệt:
a) Đối với trường hợp phạm tội từ năm lần trở lên mà trong đó có lần phạm tội đã bị kết án, chưa được xoá án tích thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị áp dụng cả ba tình tiết là “phạm tội nhiều lần”, “tái phạm” (hoặc “tái phạm nguy hiểm”) và “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.
Ví dụ: B đã bị kết án về tội “trộm cắp tài sản”, nhưng chưa chấp hành hình phạt hoặc sau khi chấp hành xong hình phạt, trong một thời gian, B lại liên tiếp thực hiện bốn vụ trộm cắp tài sản (tài sản chiếm đoạt được trong mỗi vụ có giá trị từ năm trăm ngàn đồng trở lên). Trong trường hợp này, B phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải bị áp dụng ba tình tiết tăng nặng là “phạm tội nhiều lần”, “tái phạm” (hoặc “tái phạm nguy hiểm”) và “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.
b) Đối với tội phạm mà trong điều luật có quy định tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” là tình tiết định khung hình phạt thì không được áp dụng tình tiết đó là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định tại Điều 48 của BLHS. Trường hợp điều luật không có quy định tình tiết này là tình tiết định khung hình phạt thì phải áp dụng là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định tại Điều 48 của BLHS.
6. Về tình tiết “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” quy định tại một số điều luật của BLHS
6.1. Đối với các tội mà điều luật có quy định tình tiết “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” và đã được hướng dẫn tại các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan có thẩm quyền thì thực hiện theo đúng hướng dẫn của các văn bản đó.
6.2. Đối với các tội mà điều luật có quy định tình tiết “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” nhưng chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền thì phân biệt như sau:
a) Đối với điều luật quy định một tội (tội đơn) thì “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” là trước đó một người đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó bằng một trong các hình thức xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó.
Ví dụ: A đã bị xử phạt hành chính về hành vi đặt chướng ngại vật trên đường sắt để cản trở giao thông đường sắt, chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính, A lại thực hiện một trong các hành vi (đặt chướng ngại vật trên đường sắt; làm xê dịch ray, tà vẹt; khoan, đào, xẻ trái phép nền đường sắt, mở đường trái phép qua đường sắt...) quy định tại Điều 209 của BLHS để cản trở giao thông đường sắt.
b) Đối với điều luật quy định nhiều tội khác nhau (tội ghép) thì “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” là trước đó một người đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê trong một tội tại điều luật đó bằng một trong các hình thức xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó (không bao gồm các hành vi được liệt kê trong tội khác cũng tại điều luật đó).
Ví dụ: Điều 164 của BLHS quy định tội làm tem giả, vé giả, tội buôn bán tem giả, vé giả. Trường hợp B đã bị xử phạt hành chính về hành vi làm tem giả, chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính, B lại làm vé giả thì bị coi là “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”; nếu B chỉ buôn bán tem, vé giả thì không coi là “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”.
7. Về tình tiết “đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” quy định tại một số điều luật của BLHS
7.1. Đối với điều luật quy định một tội (tội đơn) thì “đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” là trước đó một người đã bị kết án về một tội, chưa được xoá án tích mà lại thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó.
Ví dụ 1: A đã bị kết án về tội quảng cáo gian dối theo quy định tại Điều 168 của BLHS. Sau khi ra tù, chưa được xoá án tích, A lại thực hiện hành vi quảng cáo gian dối.
Ví dụ 2: B đã bị kết án về tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai theo quy định tại Điều 173 của BLHS, chưa được xoá án tích, B lại thực hiện một trong những hành vi (lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai) quy định tại Điều 173 của BLHS.
7.2. Đối với điều luật quy định nhiều tội khác nhau (tội ghép) thì “đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” là trước đó một người đã bị kết án về một tội tại điều luật đó, chưa được xoá án tích mà lại thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó (không bao gồm các hành vi được liệt kê trong tội khác cũng tại điều luật đó).
Ví dụ: C đã bị kết án về tội mua bán trái phép công cụ hỗ trợ theo quy định tại Điều 233 của BLHS, sau khi ra tù chưa được xoá án tích, C lại thực hiện hành vi chế tạo trái phép vũ khí thô sơ cùng quy định tại Điều 233 của BLHS thì không thuộc trường hợp “đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”.
7.3. Khi áp dụng tình tiết “đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”, cần phân biệt:
a) Trường hợp các tiền án của bị cáo đã được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội phạm “đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” thì các tiền án đó không được tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với bị cáo.
Ví dụ: D là người đã có hai tiền án đều về tội chiếm đoạt tài sản (có thể đều cùng về tội trộm cắp tài sản, có thể về tội trộm cắp tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản). Sau khi ra tù, chưa được xoá án tích D lại trộm cắp tài sản có giá trị dưới năm trăm ngàn đồng, thì trong trường hợp này hai tiền án về tội chiếm đoạt tài sản được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội phạm “đã bị kết án về tội chiếm đoạt, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” để truy cứu trách nhiệm hình sự D theo khoản 1 Điều 138 của BLHS mà không được tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với D.
b) Trường hợp các tiền án của bị cáo không được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội phạm “đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” vì hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì các tiền án của bị cáo phải tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
Ví dụ 1: H đã bị kết án về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chưa chấp hành xong hình phạt, H trộm cắp tài sản có giá trị bốn trăm ngàn đồng và gây hậu quả nghiêm trọng. Trong trường hợp này tiền án về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” phải tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với H.
Ví dụ 2: K có hai tiền án về tội “cố ý gây thương tích” và tội “cướp tài sản”, đều chưa được xoá án tích lại trộm cắp tài sản có giá trị ba trăm năm mươi ngàn đồng. Trong trường hợp này tiền án về tội “cướp tài sản” được xem xét là dấu hiệu “đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” để xác định cấu thành tội phạm của lần trộm cắp tài sản. Còn tiền án về tội “cố ý gây thương tích” phải tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với K.
8. Về tội “không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính” quy định tại Điều 269 của BLHS
8.1. Bị coi là “cố ý không chấp hành quyết định hành chính của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính” nếu người bị áp dụng quyết định hành chính có một trong các hành vi sau đây:
a) Không thực hiện quyết định hành chính sau khi đã được giao nhận quyết định hành chính đó theo đúng quy định của pháp luật;
b) Bỏ trốn khỏi nơi cư trú để trốn tránh việc chấp hành quyết định hành chính;
c) Bỏ trốn sau khi đã được đưa vào nơi lưu giữ để đưa đến cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;
d) Bỏ trốn sau khi đã được đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh hoặc bỏ trốn khỏi nơi quản chế hành chính.
8.2. “Các biện pháp cưỡng chế cần thiết” là những biện pháp được pháp luật cho phép và được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật như: xử phạt hành chính về hành vi không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính; tổ chức truy tìm bắt lại, lưu giữ đối với các trường hợp bỏ trốn... để buộc những người có hành vi cố ý không chấp hành các quyết định hành chính của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính phải chấp hành các quyết định đó.
Trường hợp người đang chấp hành quyết định hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính nhưng trong thời gian chấp hành, người đó có những hành vi vi phạm nội quy của cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính và bị xử lý kỷ luật thì những lần bị xử lý kỷ luật đó không được coi là đã bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ theo Điều 269 của BLHS.
9. Về việc xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội đánh bạc quy định tại Điều 248 của BLHS
9.1. Đánh bạc được hiểu là nhiều người (ít nhất từ hai người trở lên) cùng tham gia thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật. Khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người đánh bạc không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc để xem xét; cụ thể như sau:
a) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới một triệu đồng theo hướng dẫn tại tiểu mục 6.3 mục 6 phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao) và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều 248 và Điều 249 của BLHS hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm) thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc;
b) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của lần đánh bạc nào bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ một triệu đồng trở lên theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02 nêu trên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối với lần đánh bạc đó;
c) Trường hợp đánh bạc từ hai lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của BLHS;
d) Trường hợp đánh bạc từ năm lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự và lấy tiền, hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết định khung “có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 248 của BLHS.
9.2. Khi truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa... cần phân biệt:
a) Một lần chơi số đề, một lần cá độ bóng đá, một lần cá độ đua ngựa... (để tính là một lần đánh bạc) được hiểu là tham gia chơi trong một lô đề, tham gia cá độ trong một trận bóng đá, tham gia cá độ trong một kỳ đua ngựa... trong đó người chơi có thể chơi làm nhiều đợt. Trách nhiệm hình sự được xác định đối với người chơi một lần đánh bạc trong các trường hợp này là tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để chơi trong các đợt đó.
Ví dụ: Tại kỳ đua ngựa thứ 46, tổ chức vào ngày 06-4-2006, trong khoảng thời gian từ 9 giờ đến 11 giờ A đã cá độ ba đợt thì chỉ coi A đã đánh bạc một lần trong kỳ đua ngựa này với tổng số tiền cá độ của cả ba đợt đó; nếu tổng số tiền cá độ của cả ba đợt từ một triệu đồng đến dưới mười triệu đồng thì A phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 248 của BLHS. Cần chú ý là nếu số tiền cá độ mỗi đợt từ một triệu đồng trở lên thì đối với trường hợp này cũng không được áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của BLHS.
b) Số tiền hoặc giá trị hiện vật của người chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa... với nhiều người là tổng số tiền, giá trị hiện vật mà họ và những người chơi khác dùng để đánh bạc.
Ví dụ: B là chủ đề của năm người chơi đề khác nhau, mỗi người chơi đề với số tiền là hai mươi ngàn đồng; nếu với tỷ lệ chơi 1/70 (1 ăn 70) thì số tiền dùng để đánh bạc được xác định như sau:
- Tiền dùng để đánh bạc của một người chơi đề với B sẽ được xác định là một triệu bốn trăm hai mươi ngàn đồng [20.000 đồng tiền của một người chơi dùng để đánh bạc + (20.000 đồng ´ 70 lần) tiền của B dùng đánh bạc với người chơi đó = 1.420.000 đồng)].
- Tiền dùng để đánh bạc của B với năm người chơi đề là bảy triệu một trăm ngàn đồng (1.420.000 đồng tiền của B dùng đánh bạc với một người chơi ´ 5 người chơi = 7.100.000 đồng).
10. Về việc xác định trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mua bán trái phép chất ma tuý nhiều lần
10.1. Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma tuý từ hai lần trở lên, nếu tổng trọng lượng chất ma tuý của các lần cộng lại dưới mức tối thiểu hoặc không xác định được tổng trọng lượng chất ma tuý của tất cả các lần đã đến mức tối thiểu quy định tại các điểm g, h, i, k, l, m, n hoặc o khoản 2 Điều 194 của BLHS thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma tuý.
10.2. Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma tuý từ hai lần trở lên, nếu tổng trọng lượng chất ma tuý của các lần cộng lại từ mức tối thiểu quy định tại các điểm g, h, i, k, l, m, n hoặc o khoản 2 Điều 194 của BLHS trở lên thì tuỳ thuộc vào trọng lượng chất ma tuý được xác định trong từng trường hợp cụ thể, mà họ phải bị xét xử theo khoản tương ứng (2, 3 hoặc 4) quy định tại Điều 194 của BLHS. Tuy nhiên, cần phân biệt:
a) Trường hợp người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma tuý từ hai lần trở lên và trọng lượng chất ma tuý của mỗi lần thuộc trường hợp quy định tại các điểm g, h, i, k, l, m, n hoặc o khoản 2 Điều 194 của BLHS thì tuỳ thuộc vào loại chất ma tuý mà họ phải bị áp dụng điểm tương ứng và điểm b “phạm tội nhiều lần” quy định tại khoản 2 Điều 194 của BLHS.
b) Trường hợp người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma tuý từ hai lần trở lên và trọng lượng chất ma tuý của mỗi lần thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 194 của BLHS thì cùng với việc phải bị xét xử theo khoản tương ứng, họ còn phải bị áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần” quy định
tại điểm g khoản 1 Điều 48 của BLHS.
11. Về việc quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội
11.1. Khi quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội thì cần thực hiện như sau:
a) Xác định mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội như đối với trường hợp người phạm tội là người đã thành niên;
b) Trường hợp người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì hình phạt áp dụng đối với họ là 3/4 mức hình phạt áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 11.1 này;
c) Trường hợp người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì hình phạt áp dụng đối với họ là 1/2 mức hình phạt áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 11.1 này.
Ví dụ: A là người chưa thành niên phạm tội “vận chuyển trái phép chất ma tuý” thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 194 của BLHS, có khung hình phạt từ 15 năm đến 20 năm tù thì trước hết cần xem A là người đã thành niên phạm tội. Do có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được áp dụng Điều 47 của BLHS, nếu A là người đã thành niên thì xét xử A mức hình phạt 12 năm tù là thoả đáng. Vì A là người chưa thành niên, nếu A từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì mức hình phạt đối với A là 9 năm tù (3/4 của 12 năm tù); nếu A là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì mức hình phạt đối với A là 6 năm tù (1/2 của 12 năm tù).
11.2. Khi quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội, cần phân biệt:
a) Trường hợp theo cách tính được hướng dẫn tại tiểu mục 11.1 mục 11 này, mà mức hình phạt tù được xác định đối với người chưa thành niên phạm tội thấp hơn mức tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn (ba tháng) thì cần áp dụng loại hình phạt khác nhẹ hơn đối với họ mà không được quyết định hình phạt tù dưới ba tháng.
b) Trường hợp theo cách tính được hướng dẫn tại tiểu mục 11.1 mục 11 này, mà mức hình phạt tù được xác định đối với người chưa thành niên phạm tội có số dư ngày không tròn tháng thì chỉ nên xử phạt mức hình phạt tù bằng số tròn tháng không lấy số dư ngày.
12.1. Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 12 tháng 5 năm 2006 và có hiệu lực thi hành sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
12.2. Nghị quyết này được áp dụng khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với người thực hiện hành vi phạm tội trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp theo các văn bản hướng dẫn trước đây là phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng theo Nghị quyết này không phải chịu trách nhiệm hình sự thì Toà án áp dụng khoản 1 Điều 25 của BLHS miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội. Trong trường hợp này Toà án cần giải thích cho họ biết là do chuyển biến của tình hình mà hành vi của họ không còn nguy hiểm cho xã hội nữa cho nên họ được miễn trách nhiệm hình sự, chứ không phải họ bị oan do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra; do đó, họ không có quyền đòi yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 620 của Bộ luật dân sự và theo Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17-3-2003 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội “về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra”.
12.3. Đối với các trường hợp mà người phạm tội đã bị kết án đúng theo các văn bản hướng dẫn trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì không căn cứ vào Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, trừ trường hợp có những căn cứ kháng nghị khác; nếu theo Nghị quyết này là họ không phải chịu trách nhiệm hình sự thì giải quyết theo thủ tục miễn chấp hành hình phạt.
TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
CHÁNH ÁN
Nguyễn Văn Hiện
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG THẨM
PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
SỐ 01/2006/NQ-HĐTP NGÀY 12 THÁNG 5
NĂM 2006
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG
MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH
SỰ
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ
ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ vào
Luật tổ chức Toà án nhân dân;
Để
áp dụng đúng và thống nhất các quy định
của Bộ luật hình sự (sau đây viết tắt
là BLHS);
Sau khi có ý kiến
thống nhất của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ
Tư pháp;
QUYẾT
NGHỊ:
1. Về tình tiết "người
phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi
thường thiệt hại, khắc phục hậu quả" quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 46 của BLHS
1.1. Cũng được áp
dụng tình tiết "người phạm tội tự
nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt
hại, khắc phục hậu quả" nếu thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
a)
Bị cáo là người từ đủ 14 tuổi
nhưng chưa đủ 15 tuổi khi phạm tội và cha, mẹ của họ đã tự
nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt
hại, khắc phục hậu quả do hành vi
phạm tội của bị cáo gây ra;
b)
Bị cáo là người từ đủ 15 tuổi
nhưng chưa đủ 18 tuổi khi phạm tội và cha, mẹ của họ đã tự
nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt
hại, khắc phục hậu quả do hành vi
phạm tội của bị cáo gây ra, nếu bị cáo
không có tài sản;
c) Bị cáo (không phân biệt là
người đã thành niên hay người chưa thành niên) hoặc cha, mẹ của bị
cáo chưa thành niên đã tự nguyện dùng tiền, tài
sản để sửa
chữa, bồi thường thiệt hại, khắc
phục hậu quả do hành vi phạm tội của
bị cáo gây ra, nhưng người bị hại,
nguyên đơn dân sự hoặc người đại
diện hợp pháp của họ từ chối nhận,
nếu số tiền, tài sản đó đã
được giao cho cơ quan tiến hành tố tụng,
cơ quan thi hành án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác
quản lý để thực hiện việc sửa
chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục
hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây
ra;
d) Bị cáo (không phân biệt là
người đã thành niên hay người chưa thành niên) hoặc cha, mẹ của bị
cáo chưa thành niên xuất trình được chứng
cứ chứng minh là họ đã tự nguyện dùng
tiền, tài sản để sửa chữa, bồi
thường thiệt hại, khắc phục hậu
quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra,
nhưng người bị hại, nguyên đơn dân
sự hoặc người đại diện hợp pháp
của họ từ chối nhận và họ đã đem
số tiền, tài sản đó về nhà cất giữ
để sẵn sàng thực hiện việc bồi
thường khi có yêu cầu;
đ)
Bị cáo không có tài sản để bồi thường
nhưng đã tích cực tác động,
đề nghị cha, mẹ
hoặc người khác (vợ, chồng, con, anh, chị,
em, bạn bè...) sửa chữa, bồi thường
thiệt hại, khắc phục hậu quả và những
người này đã thực hiện việc sửa chữa, bồi thường
thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi
phạm tội của bị cáo gây ra;
e) Bị cáo không có trách nhiệm sửa
chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi
phạm tội của mình gây ra (ví dụ việc bồi
thường thiệt hại thuộc
trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy
hiểm cao độ) nhưng đã tự nguyện dùng tiền, tài sản của mình
để sửa chữa, bồi thường thiệt
hại, khắc phục hậu quả hoặc đã tích cực tác
động, đề nghị cha, mẹ hoặc
người khác sửa chữa, bồi thường
thiệt hại, khắc phục hậu quả (nếu
bị cáo không có tài sản để bồi thường)
và những người này đã thực hiện việc sửa
chữa, bồi thường thiệt hại, khắc
phục hậu quả do hành vi phạm tội của
bị cáo gây ra.
1.2. Đối với các trường
hợp được hướng dẫn tại các
điểm đ và e tiểu mục 1.1 mục
1 này mà bị cáo không có việc tác động, đề
nghị cha, mẹ hoặc người khác sửa
chữa, bồi thường thiệt hại, khắc
phục hậu quả, nếu những người này
đã tự nguyện sửa
chữa, bồi thường thiệt hại, khắc
phục hậu quả do hành vi phạm tội của
bị cáo gây ra thì bị cáo chỉ được
hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định
tại khoản 2 Điều 46 của BLHS.
2. Về tình tiết "phạm
tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai,
người già" quy định tại điểm h
khoản 1 Điều 48 của BLHS
2.1. Chỉ áp dụng tình tiết
"phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ
có thai, người già" đối với những
trường hợp phạm tội do lỗi cố ý, không
phụ thuộc vào ý thức chủ quan của bị cáo có
nhận biết được hay không nhận biết
được người bị xâm hại là trẻ em,
phụ nữ có thai, người già.
2.2.
"Trẻ em" được xác định là người
dưới 16 tuổi theo quy định tại
Điều 1 của Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em.
2.3.
"Phụ nữ có thai" được xác định
bằng các chứng cứ chứng minh là người phụ
nữ đó đang mang thai, như: bị cáo và mọi
người đều nhìn thấy được hoặc
bị cáo nghe được, biết được
từ các nguồn thông tin khác nhau về người
phụ nữ đó đang mang thai. Trong trường
hợp thực tế khó nhận biết được
người phụ nữ đó đang có thai hay không
hoặc giữa lời khai của bị cáo và người
bị hại về việc này có mâu thuẫn với nhau
thì để xác định người phụ nữ
đó có thai hay không phải
căn cứ vào kết luận của cơ quan chuyên môn y
tế hoặc kết luận giám định.
2.4. "Người già"
được xác định là người từ 70
tuổi trở lên.
3.
Về một số tình tiết quy định tại
khoản 1 Điều 104 của BLHS
3.1. Tình tiết "dùng hung khí nguy
hiểm" quy định tại điểm a khoản 1
Điều 104 của BLHS
"Dùng
hung khí nguy hiểm" quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 104 của BLHS là trường hợp
dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm theo
hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2
mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP
ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao để cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác.
Ví dụ: Theo
hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.2
mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì dao
nhọn là phương tiện nguy hiểm và đã
được A sử dụng gây thương tích cho B thì
thuộc trường hợp "dùng hung khí nguy hiểm".
3.2. Tình tiết "phạm tội
nhiều lần đối với cùng một người
hoặc đối với nhiều người" quy
định tại điểm c khoản 1 Điều 104
của BLHS
a) "Phạm tội nhiều lần
đối với cùng một người hoặc
đối với nhiều người" quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 104 của BLHS được
hiểu là trường hợp cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một
người từ hai lần trở lên hoặc của hai
người trở lên (có thể một lần, có thể
nhiều lần đối với mỗi người) và
trong các lần đó chưa có lần nào bị xử lý
hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu xử
lý hành chính, xử lý
kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việc áp dụng tình tiết "phạm tội nhiều
lần đối với cùng một người hoặc
đối với nhiều người" để xét
xử bị cáo theo khoản 1, khoản 2 hoặc khoản
3 Điều 104 của BLHS được thực hiện
theo hướng dẫn tại các điểm b, c và d
tiểu mục 3.2 này.
b)
Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội nhiều
lần đối với cùng một người hoặc
đối với nhiều người" quy định
tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS để
xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 104 của BLHS
trong các trường hợp sau đây:
b.1) Cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một
người từ hai lần trở lên mà mỗi lần
tỷ lệ thương tật dưới 11%, nhưng
tổng tỷ lệ thương tật của tất
cả các lần từ 11% trở lên.
Trường hợp trong các
lần đó chỉ có một lần tỷ lệ
thương tật từ 11%
đến 30%, còn các lần khác tỷ lệ thương
tật đều dưới 11% thì bị cáo cũng
chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 104
của BLHS.
b.2) Cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của hai
người
trở lên (có thể một lần, có thể nhiều
lần đối với mỗi người) mà mỗi
lần tỷ lệ thương
tật dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ
thương tật của tất cả các lần từ
11% trở lên.
Trường hợp trong các
lần đó chỉ có một người một lần
tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%,
còn các lần khác tỷ lệ thương tật
đều dưới 11% thì bị cáo cũng chỉ
bị xét xử theo khoản 1 Điều 104 của BLHS.
c)
Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội nhiều
lần đối với cùng một người hoặc
đối với nhiều người" quy định
tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS để
xét xử bị cáo theo khoản 2 Điều 104 của BLHS
trong các trường hợp sau đây:
c.1) Cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một
người từ hai lần trở lên mà có ít nhất hai
lần tỷ lệ thương tật từ 11%
đến 30%.
Trường hợp trong các
lần đó chỉ có một lần tỷ lệ
thương tật từ 31% đến 60%, còn các lần
khác tỷ lệ thương tật đều
dưới 31% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử
theo khoản 2 Điều 104 của BLHS.
c.2) Cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của hai
người trở lên (có thể một lần, có thể
nhiều lần đối với mỗi người) mà
trong đó có ít nhất hai người và mỗi
người một lần tỷ lệ thương
tật từ 11% đến 30%.
Trường hợp trong các
lần đó chỉ có một người một lần
tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%,
còn các lần khác tỷ lệ thương tật
đều dưới 31% thì bị cáo cũng chỉ
bị xét xử theo khoản 2 Điều 104 của BLHS.
d)
Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội nhiều
lần đối với cùng một người hoặc
đối với nhiều người" quy định
tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS
để xét xử bị cáo theo khoản 3 Điều 104
của BLHS trong các trường hợp sau đây:
d.1) Cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một
người từ hai lần trở lên mà có ít nhất hai
lần tỷ lệ thương tật từ 31%
đến 60%.
Trường hợp trong các
lần đó chỉ có một lần tỷ lệ
thương tật từ 61% trở lên, còn các lần khác
tỷ lệ thương tật đều dưới 61%
thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 3
Điều 104 của BLHS.
d.2) Cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của hai
người trở lên (có thể một lần, có thể
nhiều lần đối với mỗi người) mà
trong đó có ít nhất hai người và mỗi
người một lần tỷ lệ thương
tật từ 31% đến 60%.
Trường hợp trong các
lần đó chỉ có một người một lần
tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên, còn
các lần khác tỷ lệ thương tật đều
dưới 61% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử
theo khoản 3 Điều 104 của BLHS.
3.3.
Tình tiết "đối với thầy giáo, cô giáo của
mình" quy định tại điểm đ khoản 1
Điều 104 của BLHS
a) Chỉ áp dụng tình tiết
"đối với thầy giáo, cô giáo của mình" quy
định tại điểm
đ khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét
xử bị cáo theo khoản 1 Điều 104 của
BLHS khi có đầy đủ các điều kiện sau
đây:
a.1) Nạn nhân phải là thầy
giáo, cô giáo tức là người đã hoặc đang làm
công tác giảng dạy theo biên chế hoặc theo hợp
đồng tại cơ quan, tổ chức có chức
năng giáo dục, đào tạo, dạy nghề
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cho phép;
a.2) Cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn
nhân là vì lý do thực hiện
nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, dạy nghề
của họ đối với bị cáo, không phân
biệt nhiệm vụ đó đã được thực
hiện hay đang được thực hiện và không
kể thời gian dài hay ngắn;
a.3) Tỷ lệ thương
tật của nạn nhân dưới 11%.
b) Chỉ áp dụng tình tiết
"đối với thầy giáo, cô giáo của mình" quy
định tại điểm
đ khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét
xử bị cáo theo khoản 2 Điều 104 của
BLHS khi có đầy đủ các điều kiện sau
đây:
b.1) Các điều
kiện được hướng dẫn tại các
điểm a.1 và a.2 tiểu mục 3.3 này;
b.2) Tỷ lệ thương
tật của nạn nhân từ 11% đến 30%.
c) Chỉ áp dụng tình tiết
"đối với thầy giáo, cô giáo của mình" quy
định tại điểm
đ khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét
xử bị cáo theo khoản 3 Điều 104 của
BLHS khi có đầy đủ các điều kiện sau
đây:
c.1) Các điều
kiện được hướng dẫn tại các
điểm a.1 và a.2 tiểu mục 3.3 này;
c.2) Tỷ lệ thương
tật của nạn nhân từ 31% đến 60%.
4. Về tình tiết "phạm
tội nhiều lần" quy định tại điểm
c khoản 2 Điều 254 của BLHS
4.1. Chỉ áp dụng tình tiết
"phạm tội nhiều lần" đối với
người chứa mại dâm khi thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
a) Chứa mại
dâm (không phân biệt tại một địa điểm
hay tại các địa điểm khác nhau) một đôi hoặc nhiều
đôi mua bán dâm khác nhau từ hai lần trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau
(không phân biệt thời gian dài hay ngắn);
b) Chứa mại dâm hai đôi mua
bán dâm trở lên độc lập với nhau trong cùng
một khoảng thời gian;
c) Chứa mại dâm một
người mua bán dâm với hai người trở lên trong
các khoảng thời gian khác nhau.
4.2. Không coi là phạm tội
nhiều lần trong các trường hợp sau đây:
a) Chứa mại dâm một đôi
mua bán dâm trong một khoảng thời gian liên tục;
b) Chứa mại dâm nhiều
người (một nhóm) cùng đến mua bán dâm, nhưng
chỉ một người trong số họ hoặc
một số người trong số họ hoặc
tất cả họ cùng nhau thoả thuận đứng ra
giao dịch với người chứa mại dâm để
trả tiền thuê địa điểm, phương
tiện một lần và việc mua bán dâm diễn ra trong
cùng một khoảng thời gian.
5. Về tình tiết "phạm
tội có tính chất chuyên nghiệp" quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 48 và một số
điều luật trong Phần các tội phạm của
BLHS
5.1. Chỉ áp dụng tình tiết
"phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" khi có
đầy đủ các điều kiện sau đây:
a) Cố ý phạm
tội từ năm lần trở lên về cùng một
tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự
hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa
được xoá án tích;
b) Người phạm tội
đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh
sống và lấy kết quả của việc phạm
tội làm nguồn sống chính.
Ví
dụ: A là một người không nghề nghiệp, chuyên
sống bằng nguồn thu nhập từ việc phạm
tội. Trong một thời gian, A liên tiếp thực
hiện năm vụ trộm cắp tài sản (tài sản
chiếm đoạt được trong mỗi vụ có
giá trị từ năm trăm
ngàn đồng trở lên). Trong trường hợp này, A
bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải
bị áp dụng tình tiết định khung hình phạt
"phạm tội có tính chất chuyên nghiệp".
5.2. Khi áp dụng tình tiết
"phạm tội có tính chất chuyên nghiệp", cần phân
biệt:
a) Đối với trường
hợp phạm tội từ năm lần trở lên mà
trong đó có lần phạm tội đã bị kết án,
chưa được xoá án tích thì tuỳ từng
trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị áp
dụng cả ba tình tiết là "phạm tội
nhiều lần", "tái phạm" (hoặc "tái phạm
nguy hiểm") và "phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp".
Ví
dụ: B đã bị kết án về tội "trộm
cắp tài sản", nhưng chưa chấp hành hình phạt
hoặc sau khi chấp hành xong hình phạt, trong một
thời gian, B lại liên tiếp thực hiện bốn
vụ trộm cắp tài sản (tài sản chiếm
đoạt được trong mỗi vụ có giá trị
từ năm trăm ngàn đồng trở lên). Trong
trường hợp này, B phải bị truy cứu trách
nhiệm hình sự và phải bị áp dụng ba tình
tiết tăng nặng là "phạm tội nhiều
lần", "tái phạm" (hoặc "tái phạm nguy hiểm") và
"phạm tội có tính chất chuyên nghiệp".
b) Đối với tội
phạm mà trong điều luật có quy định tình
tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" là
tình tiết định khung hình phạt thì không được
áp dụng tình tiết đó là tình tiết tăng nặng
tương ứng quy định tại Điều 48
của BLHS. Trường hợp điều luật không có
quy định tình tiết này là tình tiết định
khung hình phạt thì phải áp dụng là tình tiết tăng
nặng tương ứng quy định tại
Điều 48 của BLHS.
6. Về tình tiết "đã bị
xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" quy
định tại một số điều luật
của BLHS
6.1. Đối với các tội mà
điều luật có quy định tình tiết "đã
bị xử phạt hành chính
về hành vi này mà còn vi phạm" và đã được
hướng dẫn tại các văn bản quy
phạm pháp luật của cơ quan có thẩm quyền thì
thực hiện theo đúng hướng dẫn của các
văn bản đó.
6.2.
Đối với các tội mà điều luật có quy
định tình tiết "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi
phạm" nhưng chưa có hướng dẫn của
cơ quan có thẩm quyền thì phân biệt như sau:
a) Đối với điều luật quy định
một tội (tội đơn) thì "đã bị xử phạt hành chính về
hành vi này mà còn vi phạm" là trước đó một
người đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi
được liệt kê trong tội đó bằng một
trong các hình thức xử phạt theo quy định
của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính,
nhưng chưa hết thời hạn để
được coi là chưa bị xử phạt vi
phạm hành chính mà lại
thực hiện một trong những hành vi được
liệt kê trong tội đó.
Ví dụ: A
đã bị xử phạt hành chính về hành vi đặt
chướng ngại vật trên đường sắt
để cản trở giao thông đường sắt,
chưa hết thời hạn để được coi
là chưa bị xử phạt hành chính, A lại thực
hiện một trong các hành vi (đặt chướng
ngại vật trên đường sắt; làm xê dịch
ray, tà vẹt; khoan, đào, xẻ trái phép nền đường sắt, mở
đường trái phép qua đường sắt...) quy
định tại Điều 209 của BLHS để
cản trở giao thông đường sắt.
b)
Đối với điều luật quy định
nhiều tội khác nhau (tội ghép) thì "đã bị xử
phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" là
trước đó một người đã bị xử
phạt hành chính về một trong những hành vi
được liệt kê trong một tội tại
điều luật đó bằng một trong các hình
thức xử phạt theo quy định của pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính, nhưng chưa
hết thời hạn để được coi là
chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại
thực hiện một trong những hành vi được
liệt kê trong tội đó (không bao gồm các hành vi
được liệt kê trong tội khác cũng tại
điều luật đó).
Ví dụ:
Điều 164 của BLHS quy định tội làm tem
giả, vé giả, tội buôn bán tem giả, vé giả.
Trường hợp B đã bị xử phạt hành chính
về hành vi làm tem giả, chưa hết thời hạn
để được coi là chưa bị xử
phạt hành chính, B lại làm vé giả thì bị coi là
"đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi
phạm"; nếu B chỉ buôn bán tem, vé giả thì không coi là
"đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi
phạm".
7.
Về tình tiết "đã bị kết án về tội này,
chưa được xoá án tích mà còn vi phạm" quy
định tại một số điều luật
của BLHS
7.1. Đối với điều luật
quy định một tội (tội đơn) thì "đã
bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm" là
trước đó một người đã bị
kết án về một tội, chưa được xoá
án tích mà lại thực hiện một trong những hành vi
được liệt kê trong tội đó.
Ví dụ 1: A đã bị kết án
về tội quảng cáo gian dối theo quy định
tại Điều 168 của BLHS. Sau khi ra tù, chưa
được xoá án tích, A lại thực hiện hành vi quảng
cáo gian dối.
Ví dụ 2: B đã bị kết án
về tội vi phạm các quy định về sử
dụng đất đai theo quy định tại
Điều 173 của BLHS, chưa được xoá án tích,
B lại thực hiện một trong những hành vi
(lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền
sử dụng đất, sử dụng đất trái
với các quy định của Nhà nước về
quản lý và sử dụng đất đai) quy
định tại Điều 173 của BLHS.
7.2.
Đối với điều luật quy định
nhiều tội khác nhau (tội ghép) thì "đã bị
kết án về tội này, chưa được xoá án tích
mà còn vi phạm" là trước đó một
người đã bị kết án về một tội
tại điều luật đó, chưa được
xoá án tích mà lại thực hiện một trong những hành
vi được liệt kê trong tội đó (không bao
gồm các hành vi được liệt kê trong tội khác
cũng tại điều luật đó).
Ví dụ: C đã bị kết án về tội mua bán
trái phép công cụ hỗ trợ theo quy định tại Điều 233
của BLHS, sau khi ra tù chưa được xoá án tích, C
lại thực hiện hành vi chế tạo trái phép vũ
khí thô sơ cùng quy định tại Điều 233
của BLHS thì không thuộc trường hợp "đã
bị kết án về tội này, chưa được
xoá án tích mà còn vi phạm".
7.3. Khi áp dụng tình
tiết "đã bị kết án về tội này, chưa
được xoá án tích mà còn vi phạm", cần
phân biệt:
a) Trường
hợp các tiền án của bị cáo đã được
xem xét là dấu hiệu cấu thành
tội phạm "đã bị kết án về tội này,
chưa được xoá án tích mà còn vi phạm" thì các
tiền án đó không
được tính để xác định tái phạm, tái
phạm nguy hiểm đối với bị cáo.
Ví
dụ: D là người đã có hai tiền án đều
về tội chiếm đoạt tài sản (có thể
đều cùng về tội trộm cắp tài sản, có
thể về tội trộm cắp tài sản và tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản). Sau khi ra
tù, chưa được xoá án tích D lại trộm cắp
tài sản có giá trị dưới năm trăm ngàn
đồng, thì trong trường hợp này hai tiền án
về tội chiếm đoạt tài sản
được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội
phạm "đã bị kết án về tội chiếm
đoạt, chưa được xoá án tích mà còn vi
phạm" để truy cứu trách nhiệm hình sự D theo khoản 1 Điều
138 của BLHS mà không được tính để xác
định tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối
với D.
b)
Trường hợp các tiền án của bị cáo không
được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội
phạm "đã bị kết án về tội này, chưa
được xoá án tích mà còn vi phạm" vì hành vi phạm
tội của bị cáo đã đủ yếu tố
cấu thành tội phạm thì các tiền án của bị
cáo phải tính để xác định tái phạm, tái
phạm nguy hiểm.
Ví
dụ 1: H đã bị kết án về tội "lừa
đảo chiếm đoạt tài sản", chưa chấp
hành xong hình phạt, H trộm cắp tài sản có giá
trị bốn trăm ngàn đồng và gây hậu quả nghiêm trọng. Trong
trường hợp này tiền án về tội "lừa
đảo chiếm đoạt tài sản" phải
tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy
hiểm đối với H.
Ví dụ 2: K có hai tiền án về tội
"cố ý gây thương tích" và tội "cướp tài sản", đều chưa
được xoá án tích lại trộm cắp tài sản
có giá trị ba trăm năm mươi ngàn đồng.
Trong trường hợp này tiền án về tội
"cướp tài sản" được xem xét là dấu
hiệu "đã bị kết án về tội chiếm
đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà
còn vi phạm" để xác định cấu thành tội
phạm của lần trộm cắp tài sản. Còn
tiền án về tội "cố ý
gây thương tích" phải tính để xác định
tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với
K.
8. Về tội "không
chấp hành các quyết định hành chính của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về việc
đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa
bệnh, quản chế hành chính" quy định tại
Điều 269 của BLHS
8.1.
Bị coi là "cố ý không chấp hành quyết định
hành chính của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về việc đưa vào cơ sở giáo
dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành
chính" nếu người bị áp dụng quyết
định hành chính có một trong các hành vi sau đây:
a) Không thực hiện quyết
định hành chính sau khi đã được giao nhận
quyết định hành chính đó theo đúng quy
định của pháp luật;
b) Bỏ trốn khỏi nơi
cư trú để trốn tránh việc chấp hành
quyết định hành chính;
c) Bỏ trốn
sau khi đã được đưa vào nơi lưu
giữ để đưa đến cơ sở giáo dục, cơ sở chữa
bệnh;
d) Bỏ trốn sau khi đã
được đưa vào cơ sở giáo dục, cơ
sở chữa bệnh hoặc bỏ trốn khỏi nơi
quản chế hành chính.
8.2.
"Các biện pháp cưỡng chế cần thiết" là
những biện pháp được pháp luật cho phép và
được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật như: xử phạt hành chính về
hành vi không chấp hành các quyết định hành chính
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở
chữa bệnh, quản chế hành chính; tổ chức
truy tìm bắt lại, lưu giữ đối với các
trường hợp bỏ trốn... để buộc
những người có hành vi cố ý không chấp hành các
quyết định hành chính của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền về việc đưa vào cơ
sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản
chế hành chính phải chấp hành các quyết định
đó.
Trường
hợp người đang chấp hành quyết
định hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ
sở chữa bệnh, quản chế hành chính nhưng
trong thời gian chấp hành, người đó có những
hành vi vi phạm nội quy của cơ sở giáo dục,
cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính và
bị xử lý kỷ luật thì những lần bị
xử lý kỷ luật đó không được coi là
đã bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế
cần thiết để truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với họ theo Điều 269 của
BLHS.
9. Về việc xác định
trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội đánh bạc quy định tại
Điều 248 của BLHS
9.1. Đánh bạc được
hiểu là nhiều người (ít nhất từ hai
người trở lên) cùng tham gia thực hiện hành vi
dưới bất kỳ hình thức nào với
mục đích được thua bằng tiền hay
hiện vật. Khi xác định trách nhiệm hình sự
đối với người đánh bạc không
được tính tổng số tiền, giá trị
hiện vật dùng để đánh bạc của tất
cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào
từng lần đánh bạc để xem xét; cụ
thể như sau:
a) Trường hợp tổng
số tiền, giá trị hiện vật dùng để
đánh bạc của từng lần đánh bạc
đều dưới mức tối thiểu để
truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới một
triệu đồng theo hướng dẫn tại
tiểu mục 6.3 mục 6 phần I Nghị quyết
số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội
đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao) và không
thuộc một trong các trường hợp khác để
truy cứu trách nhiệm hình sự (đã bị xử
phạt hành chính về hành vi quy định tại
Điều 248 và Điều 249 của BLHS hoặc đã
bị kết án về một trong các tội này, chưa
được xoá án tích mà còn vi phạm) thì người
đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội đánh bạc;
b) Trường hợp tổng
số tiền, giá trị hiện vật dùng để
đánh bạc của lần đánh bạc nào bằng
hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu
trách nhiệm hình sự (từ một triệu đồng
trở lên theo hướng dẫn tại Nghị quyết
số 02 nêu trên) thì người đánh bạc phải
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
đánh bạc đối với lần đánh bạc
đó;
c) Trường hợp đánh
bạc từ hai lần trở lên mà tổng số
tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh
bạc của từng lần đánh bạc bằng
hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu
trách nhiệm hình sự thì người đánh bạc phải
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
đánh bạc với tình tiết tăng nặng "phạm
tội nhiều lần" quy định tại điểm
g khoản 1 Điều 48 của BLHS;
d) Trường hợp đánh
bạc từ năm lần trở lên mà tổng số
tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh
bạc của từng lần đánh bạc bằng
hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu
trách nhiệm hình sự và lấy tiền, hiện vật
do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính thì
người đánh bạc phải bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình
tiết định khung "có tính chất chuyên nghiệp" quy
định tại điểm a khoản 2 Điều 248
của BLHS.
9.2. Khi truy cứu trách nhiệm hình
sự người có hành vi đánh bạc dưới hình
thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá
độ đua ngựa... cần phân biệt:
a) Một lần chơi số
đề, một lần cá độ bóng đá, một
lần cá độ đua ngựa... (để tính là
một lần đánh bạc) được hiểu là
tham gia chơi trong một lô đề, tham gia cá độ trong một trận bóng
đá, tham gia cá độ trong một kỳ đua ngựa...
trong đó người chơi có thể chơi làm nhiều
đợt. Trách nhiệm hình sự được xác
định đối với người chơi một
lần đánh bạc trong các trường hợp này là
tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng
để chơi trong các đợt đó.
Ví dụ: Tại kỳ đua
ngựa thứ 46, tổ chức vào ngày 06-4-2006, trong khoảng thời gian từ 9 giờ
đến 11 giờ A đã cá độ ba đợt thì
chỉ coi A đã đánh bạc một lần trong
kỳ đua ngựa này với tổng số tiền cá
độ của cả ba đợt đó; nếu tổng số tiền cá
độ của cả ba đợt từ một
triệu đồng đến dưới mười
triệu đồng thì A phải bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 248
của BLHS. Cần chú ý là nếu số tiền cá
độ mỗi đợt từ một triệu đồng
trở lên thì đối với trường
hợp này cũng không được áp dụng tình
tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần
quy định tại điểm g khoản 1 Điều
48 của BLHS.
b) Số tiền hoặc giá
trị hiện vật của người chơi số
đề, cá độ bóng đá, cá độ đua
ngựa... với nhiều người là tổng số
tiền, giá trị hiện vật mà họ và những
người chơi khác dùng để đánh bạc.
Ví dụ: B là chủ đề
của năm người chơi đề khác nhau,
mỗi người chơi đề với số
tiền là hai mươi ngàn đồng; nếu với
tỷ lệ chơi 1/70 (1 ăn 70) thì số tiền dùng
để đánh bạc được xác định
như sau:
- Tiền dùng để đánh
bạc của một người chơi đề
với B sẽ được xác định là một
triệu bốn trăm hai mươi ngàn đồng [20.000
đồng tiền của một người chơi dùng
để đánh bạc + (20.000 đồng ´ 70 lần) tiền của B dùng
đánh bạc với người chơi đó = 1.420.000
đồng)].
- Tiền dùng để đánh
bạc của B với năm người chơi
đề là bảy triệu một trăm ngàn đồng
(1.420.000 đồng tiền của B dùng đánh bạc
với một người chơi ´ 5 người chơi = 7.100.000
đồng).
10. Về việc
xác định trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi mua bán trái phép chất ma tuý nhiều lần
10.1. Người chưa thành niên
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma tuý
từ hai lần trở lên, nếu tổng trọng
lượng chất ma tuý của các lần cộng lại
dưới mức tối thiểu hoặc không xác
định được tổng trọng lượng
chất ma tuý của tất cả các lần đã
đến mức tối thiểu quy định tại các
điểm g, h, i, k, l, m, n hoặc o khoản 2 Điều
194 của BLHS thì họ không phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội mua bán trái phép chất ma tuý.
10.2. Người chưa thành niên
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma tuý
từ hai lần trở lên, nếu tổng trọng
lượng chất ma tuý của các lần cộng lại
từ mức tối thiểu quy định tại các
điểm g, h, i, k, l, m, n hoặc o khoản 2 Điều
194 của BLHS trở lên thì tuỳ thuộc vào trọng
lượng chất ma tuý được xác định
trong từng trường hợp cụ thể, mà họ
phải bị xét xử theo khoản tương ứng (2,
3 hoặc 4) quy định tại Điều 194 của
BLHS. Tuy nhiên, cần phân biệt:
a) Trường hợp
người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi mua
bán trái phép chất ma tuý từ hai lần trở lên và
trọng lượng chất ma
tuý của mỗi lần thuộc trường hợp quy
định tại các điểm g, h, i, k, l, m, n
hoặc o khoản 2 Điều 194 của BLHS thì tuỳ
thuộc vào loại chất ma tuý mà họ phải bị áp
dụng điểm tương ứng và điểm b
"phạm tội nhiều lần" quy định tại
khoản 2 Điều 194 của BLHS.
b) Trường hợp
người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi mua
bán trái phép chất ma tuý từ hai lần trở lên và
trọng lượng chất ma tuý của mỗi lần
thuộc trường hợp quy định tại
khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 194 của BLHS thì
cùng với việc phải bị xét xử theo khoản
tương ứng, họ còn phải bị áp dụng tình
tiết "phạm tội nhiều lần" quy định
tại điểm g khoản 1 Điều 48 của BLHS.
11. Về việc quyết
định hình phạt tù đối với người
chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi phạm tội
11.1. Khi quyết
định hình phạt tù đối với người
chưa thành niên phạm tội thì cần thực hiện như sau:
a) Xác định mức hình
phạt tương xứng với tính chất và mức
độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội
như đối với trường hợp người
phạm tội là người đã thành niên;
b) Trường hợp
người chưa thành niên phạm tội là người
từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi thì hình phạt áp dụng đối
với họ là 3/4 mức hình phạt áp dụng
đối với người đã thành niên phạm
tội được xác định theo hướng
dẫn tại điểm a tiểu mục 11.1 này;
c) Trường hợp người
chưa thành niên phạm tội là người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì
hình phạt áp dụng đối với họ là 1/2
mức hình phạt áp dụng đối với
người đã thành niên phạm tội được
xác định theo hướng dẫn tại điểm a
tiểu mục 11.1 này.
Ví dụ: A là người chưa
thành niên phạm tội "vận chuyển trái phép chất ma
tuý" thuộc trường hợp quy định tại
khoản 3 Điều 194 của BLHS, có khung hình phạt từ 15 năm
đến 20 năm tù thì trước hết cần xem A là
người đã thành niên phạm tội. Do có
nhiều tình tiết giảm nhẹ và được áp
dụng Điều 47 của BLHS, nếu
A là người đã thành niên thì xét xử A mức hình
phạt 12 năm tù là thoả đáng. Vì A là
người chưa thành niên, nếu A từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi thì mức hình phạt đối với A là 9
năm tù (3/4 của 12 năm tù); nếu A là người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi thì mức hình phạt đối với A là 6
năm tù (1/2 của 12 năm tù).
11.2. Khi quyết
định hình phạt tù đối với người
chưa thành niên phạm tội, cần phân biệt:
a) Trường
hợp theo cách tính được hướng dẫn
tại tiểu mục 11.1 mục 11 này, mà mức hình phạt tù
được xác định đối với
người chưa thành niên phạm tội thấp hơn
mức tối thiểu của hình phạt tù có thời
hạn (ba tháng) thì cần áp dụng loại hình phạt
khác nhẹ hơn đối với họ mà không
được quyết định hình phạt tù
dưới ba tháng.
b) Trường
hợp theo cách tính được hướng dẫn
tại tiểu mục 11.1 mục 11 này, mà mức hình phạt tù
được xác định đối với
người chưa thành niên phạm tội có số dư
ngày không tròn tháng thì chỉ nên xử phạt mức hình phạt
tù bằng số tròn tháng không lấy số dư ngày.
12.
Hiệu lực thi hành của Nghị quyết
12.1. Nghị
quyết này đã được Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua
ngày 12 tháng 5 năm 2006 và có hiệu lực thi hành sau
mười lăm ngày, kể từ ngày đăng
Công báo.
12.2. Nghị
quyết này được áp dụng khi xét xử sơ
thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm đối với người thực hiện hành
vi phạm tội trước ngày Nghị quyết này có
hiệu lực. Trong trường hợp theo các văn
bản hướng dẫn
trước đây là phải chịu trách nhiệm hình
sự, nhưng theo Nghị quyết này không phải chịu trách nhiệm hình sự
thì Toà án áp dụng khoản 1 Điều 25 của BLHS miễn trách nhiệm hình
sự cho người phạm tội. Trong trường
hợp này Toà án cần giải thích cho họ biết
là do chuyển biến của tình hình mà hành vi của họ không còn nguy hiểm cho
xã hội nữa cho nên họ được miễn trách nhiệm
hình sự, chứ không phải họ bị oan do cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự gây ra; do đó, họ
không có quyền đòi yêu cầu bồi thường
thiệt hại theo quy định tại Điều 620 của Bộ luật
dân sự và theo Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11
ngày 17-3-2003 của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội "về bồi thường thiệt hại cho
người bị oan do người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra".
12.3. Đối với các
trường hợp mà người phạm tội đã
bị kết án đúng theo các văn bản hướng
dẫn trước đây và bản án đã có hiệu
lực pháp luật thì không căn
cứ vào Nghị quyết này để kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm,
trừ trường hợp có những căn cứ kháng
nghị khác; nếu theo Nghị quyết này là họ không
phải chịu trách nhiệm hình sự thì giải
quyết theo thủ tục miễn chấp hành hình phạt.
TM. HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN CHÁNH ÁN Nguyễn Văn Hiện |