Chỉ thị 03/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
- Tóm tắt
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Chỉ thị 03/2005/CT-TTg
Cơ quan ban hành: | Thủ tướng Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 03/2005/CT-TTg | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Chỉ thị | Người ký: | Phạm Gia Khiêm |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 25/02/2005 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Tư pháp-Hộ tịch |
TÓM TẮT VĂN BẢN
* Hôn nhân có yếu tố nước ngoài - Ngày 25/02/2005, Tủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 03/2005/CT-TTg về tăng cường quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Chính phủ yêu cầu tăng cường thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời tổ chức, cá nhân sai phạm, chấm dứt ngay tình trạng môi giới kết hôn bất hợp pháp, làm lành mạnh hoá các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, bảo đảm thực hiện nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững, tôn trọng, giữ gìn những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc VN, bảo vệ uy tín của dân tộc VN và Nhà nước VN trong quan hệ quốc tế... Đối với những trường hợp có dấu hiệu cấu thành tội phạm, kiên quyết khởi tố để xử lý về hình sự. Từ nay đến cuối quý II - 2005, chỉ đạo cơ quan công an một số tỉnh, thành phố trọng điểm mở đợt cao điểm rà soát, xoá bỏ các tụ điểm giới thiệu cho người nước ngoài xem mặt phụ nữ VN muốn kết hôn với người nước ngoài, theo dõi, phát hiện và khẩn trương đưa ra xử lý... những trường hợp môi giới kết hôn bất hợp pháp...
Xem chi tiết Chỉ thị 03/2005/CT-TTg tại đây
tải Chỉ thị 03/2005/CT-TTg
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
CHỈ THỊ
CỦA THỦ TƯƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 03/2005/CT-TTG
NGÀY 25 THÁNG 02 NĂM 2005 VỀ TĂNG CƯƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯƯỚC ĐỐI VỚI QUAN HỆ HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Ngày 10 tháng
7 năm 2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nưước ngoài. Qua hơn hai năm triển khai thực hiện Nghị định,
việc xác lập quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nưước
ngoài đã có nhiều chuyển biến tích cực so với trước đây, phù hợp với bối cảnh
mở rộng quan hệ giữa nước ta với nước ngoài.
Tuy nhiên,
việc kết hôn giữa phụ nữ Việt
Ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
nhiều trưường hợp kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài, đặc biệt
với người Đài Loan, đã được tiến hành một cách vội vã, không bảo đảm nguyên tắc
hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; hoặc, phụ nữ Việt Nam vượt biên trái phép sang
chung sống như vợ chồng với công dân nước láng giềng mà không đăng ký kết hôn.
Hoạt động kinh doanh môi giới kết hôn nhằm mục đích trục lợi của
một số tổ chức, cá nhân diễn ra dưới nhiều hình thức trá hình, tinh vi, gây mất
trật tự xã hội. Nhiều trưường hợp môi giới kết hôn đã làm hạ thấp danh dự, nhân
phẩm của phụ nữ Việt
Phần lớn phụ nữ Việt Nam trưước khi ra nước ngoài sinh sống cùng
chồng chưa được tư vấn đầy đủ để có những hiểu biết cần thiết về pháp luật,
ngôn ngữ, phong tục, tập quán của nước sở tại; do đó, đã gặp nhiều khó khăn
trong việc hòa nhập với cộng đồng và ổn định cuộc sống ở nước ngoài. Một số phụ
nữ Việt Nam sau khi ra nước ngoài bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh nhưng chưưa
được pháp luật nước sở tại bảo vệ kịp thời.
Thực trạng nêu trên xảy ra do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên
nhân do công tác quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài chưa được thực hiện tốt, việc xử lý những vi phạm, tiêu cực trong
lĩnh vực này chưa nghiêm, chưa kịp thời.
Để khắc phục tình trạng này, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối
với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Thủ tướng Chính phủ chỉ
thị:
1. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân
dân các cấp cần nhận thức sâu sắc rằng tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với
người nước ngoài là một vấn đề liên quan đến nhiều mặt của đời sống kinh tế,
văn hoá, xã hội, an ninh, trật tự xã hội, đối ngoại. Trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của mình, các cơ quan nói trên cần tăng cường thực hiện chức năng quản
lý nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; phối hợp
chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan và địa phương có liên quan để có biện pháp
ngăn chặn, xử lý kịp thời tổ chức, cá nhân sai phạm, chấm dứt ngay tình trạng
môi giới kết hôn bất hợp pháp, làm lành mạnh hoá các quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài, bảo đảm thực hiện nguyên tắc hôn nhân tự nguyện,
tiến bộ, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững; tôn trọng, giữ gìn
những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, góp phần bảo vệ uy tín
của dân tộc Việt Nam và của Nhà nước Việt Nam trong quan hệ quốc tế.
2. Bộ Tưư pháp có trách
nhiệm:
a) Tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra các địa
phương trong việc thụ lý, giải quyết các hồ sơ đăng ký kết hôn giữa công dân
Việt Nam với người nước ngoài; kịp thời chấn chỉnh những lệch lạc, tiêu cực
trong công tác này. Chỉ đạo các Sở Tư pháp thực hiện nghiêm túc quy định không
chấp nhận việc nộp hồ sơ đăng ký kết hôn qua người thứ ba; quy định xác minh,
phỏng vấn các bên đương sự trong trường hợp nghi vấn hoặc có khiếu nại, tố cáo
đương sự kết hôn giả tạo, lợi dụng việc kết hôn nhằm mục đích mua bán phụ nữ,
kết hôn vì mục đích trục lợi khác hoặc xét thấy có vấn đề cần làm rõ về nhân
thân của đương sự hoặc giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hôn, góp phần loại trừ
những trường hợp kết hôn không bảo đảm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
b) Chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao và các cơ quan có liên quan
xác lập cơ chế thông tin về tình hình sinh sống của công dân Việt Nam kết hôn
với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài; khẩn trương nghiên cứu, đề
xuất việc đàm phán, ký kết thỏa thuận với các nước hữu quan để bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và đang
sinh sống ở nước ngoài trên các phương diện quốc tịch, cư trú, hôn nhân và gia
đình, tài sản... phù hợp với pháp luật của Việt Nam, pháp luật nước sở tại,
pháp luật và tập quán quốc tế.
c) Chỉ đạo việc đăng ký khai sinh và tháo gỡ những vướng mắc về hộ
tịch cho trẻ em là con chung của phụ nữ Việt
d) Tổ chức biên soạn các tài liệu tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, tài liệu hướng dẫn, tư vấn các
vấn đề về hộ tịch, quốc tịch của Việt Nam và nước ngoài nhằm giúp cho các bên
kết hôn nhận thức đúng và thực hiện đúng quy định của pháp luật.
đ) Chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin, Trung ương Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Trung ương Hội Nông dân Việt Nam chỉ đạo việc tuyên truyền, phổ biến sâu rộng
pháp luật về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, góp phần tạo chuyển biến
cơ bản trong nhận thức của nhân dân về vấn đề này.
e) Tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác
quốc tịch, bảo đảm điều kiện cần thiết để giải quyết kịp thời các yêu cầu xin
thôi quốc tịch Việt Nam của công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài.
3. Bộ Công an có trách nhiệm:
Chỉ đạo cơ quan công an các cấp tiến hành các biện pháp nghiệp vụ
cần thiết và thông qua quan hệ hợp tác, phối hợp với cảnh sát quốc tế để phát
hiện và xử lý nghiêm khắc các tổ chức, cá nhân có hoạt động môi giới kết hôn
bất hợp pháp. Đối với những trường hợp có dấu hiệu cấu thành tội phạm, kiên
quyết khởi tố để xử lý về hình sự.
Từ nay đến cuối quý II năm 2005, chỉ đạo cơ quan công an một số
tỉnh, thành phố trọng điểm mở đợt cao điểm rà soát, xóa bỏ các tụ điểm giới
thiệu cho người nước ngoài xem mặt phụ nữ Việt Nam muốn kết hôn với người nước
ngoài; theo dõi, phát hiện và khẩn trương đưa ra xử lý những trường hợp môi
giới kết hôn bất hợp pháp.
4. Bộ Ngoại giao có trách nhiệm:
a) Chỉ đạo các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài nắm chắc tình
hình về cuộc sống mọi mặt của cộng đồng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước
ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài; phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu
quan của nước sở tại hướng dẫn những phụ nữ này thành lập các tổ chức, hiệp hội
thích hợp nhằm giúp đỡ họ trong việc hòa nhập với cộng đồng nơi họ đang sinh
sống, đồng thời giúp họ giữ mối liên hệ thường xuyên với Tổ quốc, với gia đình
ở Việt Nam.
b) Tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước
ngoài tăng cường thực hiện các biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của phụ nữ Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với
pháp luật nước sở tại và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; kịp
thời có biện pháp bảo vệ và hỗ trợ những phụ nữ này nếu bị rơi vào hoàn cảnh
bất hạnh.
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm:
Chỉ đạo các địa phương tiến hành việc kiểm tra, phát hiện, xử lý
những doanh nghiệp vi phạm quy định cấm kinh doanh dịch vụ môi giới hôn nhân có
yếu tố nước ngoài theo quy định tại Nghị định số 125/2004/NĐ-CP ngày 19 tháng 5
năm 2004 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
03/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Doanh nghiệp.
6. Bộ Văn hoá - Thông tin có trách nhiệm:
Chỉ đạo định hưướng thông tin báo chí về tình hình phụ nữ Việt Nam
kết hôn với ngưười nước ngoài, nhất là với người Đài Loan và người Hàn Quốc,
nhằm bảo đảm thông tin chính xác, khách quan, toàn diện, không nên đăng tải
thông tin một chiều; đồng thời, phát huy hơn nữa vai trò của các phương tiện
thông tin đại chúng trong việc đấu tranh chống tiêu cực, tham gia phát hiện kịp
thời những vi phạm trong công tác giải quyết việc đăng ký kết hôn giữa phụ nữ
Việt Nam với người nước ngoài.
7. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
trách nhiệm:
a) Tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài trên địa bàn tỉnh, thành phố; kiên quyết xóa bỏ các hoạt
động môi giới kết hôn bất hợp pháp, chấm dứt tình trạng kết hôn vi phạm nguyên
tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, vi phạm truyền thống văn hoá và phong tục tập
quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải chịu
trách nhiệm nếu để xảy ra hoạt động môi giới kết hôn bất hợp pháp tại địa
phương.
b) Uỷ ban nhân dân các tỉnh khu vực biên giới có trách nhiệm chỉ
đạo các cơ quan hữu quan tại địa phương tăng cường kiểm soát khu vực biên giới,
đẩy mạnh công tác quản lý dân cư để ngăn ngừa, chấm dứt tình trạng công dân
Việt Nam vượt biên trái phép qua biên giới để chung sống như vợ chồng với công
dân nước láng giềng mà không đăng ký kết hôn; đẩy mạnh tuyên truyền và thực
hiện việc đăng ký kết hôn ở các xã biên giới theo quy định tại Nghị định số
68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia
đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nưước ngoài.
c) Rà soát đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác giải quyết việc
đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, trên cơ sở đó tăng
cường bố trí cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất và trình độ chuyên môn làm công
tác này; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm khắc những cán bộ có hành vi tiêu
cực trong việc giải quyết việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài.
d) Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch đẩy mạnh tuyên truyền,
phổ biến giáo dục pháp luật và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc Việt
đ) Hỗ trợ Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh trong việc thành lập Trung
tâm Hỗ trợ kết hôn theo quy định tại Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7
năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân
và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nưước ngoài.
8. Đề nghị Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
a) Chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Uỷ
ban Dân số, Gia đình và Trẻ em hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của các Trung
tâm Hỗ trợ kết hôn, hỗ trợ các Trung tâm này hoạt động có hiệu quả, góp phần
bảo đảm việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài đúng pháp luật
và lành mạnh.
b) Chỉ đạo, hướng dẫn Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh trong việc
thành lập Trung tâm Hỗ trợ kết hôn tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương theo quy định của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ Quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nưước ngoài. Trước mắt, tập trung chỉ đạo việc thành
lập và đưa vào hoạt động Trung tâm Hỗ trợ kết hôn tại một số tỉnh có số lượng
lớn phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài.
9. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan
thuộc Chính phủ và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Chỉ thị này.
Bộ Tư pháp có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng
kết việc thực hiện Chỉ thị này, kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ.