Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • Tải về
Mục lục
Tìm từ trong trang
Tải dự thảo
Văn bản tiếng việt
Lưu
Báo lỗi
  • Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17
Ghi chú

thuộc tính Luật

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư
Lĩnh vực: Tư pháp-Hộ tịch Loại dự thảo:Luật
Cơ quan chủ trì soạn thảo: Bộ Tư phápTrạng thái:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Dự kiến thông qua tại:Kì họp đang cập nhật - Khóa đang cập nhật

Phạm vi điều chỉnh

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư (sau đây gọi là Dự thảo Luật) sửa đổi 28 điều, bổ sung 02 điều và bỏ 03 điều

Tải Luật

Tải dự thảo tiếng Việt (.doc)@Luật DOC (Bản Word)
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file.

Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!

LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Trạng thái: Đã biết
Ghi chú

BỘ TƯ PHÁP

BAN SOẠN THẢO DỰ ÁN LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT LUẬT SƯ

 

BẢN THUYẾT MINH

về Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư

I. PHẠM VI SỬA ĐỔI, BỔ SUNG

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư (sau đây gọi là Dự thảo Luật) sửa đổi 28 điều, bổ sung 02 điều và bỏ 03 điều, tập trung vào một số vấn đề sau: (i) tiêu chuẩn trở thành luật sư, điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư nhằm phát triển hợp lý số lượng, nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; (ii) quyền, nghĩa vụ của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong hoạt động luật sư và thủ tục tham gia tố tụng của luật sư để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động hành nghề của luật sư, bảo đảm cho luật sư thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình; (iii) địa vị pháp lý, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn luật sư, Liên đoàn luật sư Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc kiện toàn tổ chức, tăng cường tính thống nhất, phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư; (iv) nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động hành nghề luật sư, phân định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư; (v) điều kiện và phạm vi hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài, bảo đảm phù hợp với các cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.

Trong quá trình nghiên cứu xây dựng Dự án Luật cũng có ý kiến cho rằng cần xây dựng Dự án Luật thay thế Luật Luật sư hiện hành. Luật Luật sư mới  phải giải quyết không chỉ những vấn đề vướng mắc, bất cập hiện nay về luật sư, mà cả những vấn đề có liên quan của pháp luật về tố tụng, có tầm nhìn và định hướng hoạt động luật sư đến năm 2030.

Tuy nhiên, theo ý kiến của Ban soạn thảo thì hiện nay Hiến pháp, pháp luật về tố tụng và tổ chức bộ máy của các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn đang trong quá trình nghiên cứu, sửa đổi một cách toàn diện. Các quy định hiện hành của Luật Luật sư cơ bản là đúng hướng và đa phần vẫn phù hợp. Mặt khác, Luật về luật sư chỉ có thể quy định về luật sư, hành nghề luật sư chứ không thể quy định các vấn đề quá sâu về tố tụng.

Vì vậy, Dự án Luật chỉ tập trung sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức và hoạt động luật sư nhằm nâng cao chất lượng luật sư, chất lượng hành nghề luật sư, tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư hành nghề và bổ sung một số quy định nhằm phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư trước những yêu cầu mới của cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, bảo đảm cho hoạt động luật sư tiếp tục phát triển ổn định và bền vững, đồng thời không làm xáo trộn về tổ chức và hoạt động luật sư và tiếp tục phát huy những quy định vẫn còn phù hợp và đúng hướng của Luật Luật sư hiện hành.

Bên cạnh đó, việc xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư là phù hợp với Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 đã được Quốc hội khóa XIII thông qua. Vấn đề này đã được hầu hết các ý kiến góp ý của các Bộ, ngành, cơ quan, đơn vị có liên quan, Hội đồng thẩm định Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư và các thành viên Chính phủ tại Phiên họp chuyên đề ngày 20 tháng 3 năm 2012 của Chính phủ cho ý kiến về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư nhất trí cao.

II. NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định những nội dung như sau:

CHƯƠNG I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

1. Chức năng xã hội của luật sư (Điều 3)

Dự thảo Luật sửa đổi Điều 3 theo hướng quy định hoạt động nghề nghiệp của luật sư nhằm góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. 

Quy định như vậy là phù hợp với đặc thù của hoạt động luật sư nhằm làm rõ chức năng xã hội của luật sư, nâng cao vai trò, vị thế của luật sư, đặc biệt trong bối cảnh cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế.

2. Nguyên tắc quản lý luật sư và hành nghề luật sư (Điều 6)

Để làm rõ nguyên tắc quản lý luật sư, hành nghề luật sư, Điều 6 được sửa đổi theo hướng thể hiện nguyên tắc quản lý luật sư, hành nghề luật sư được thực hiện theo nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với chế độ tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư theo quy định của Luật Luật sư và Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam, phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư, đồng thời quy định Nhà nước thống nhất quản lý về luật sư, hành nghề luật sư.

Quy định mới này nhằm nâng cao chức năng tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư, phù hợp với đặc thù của hoạt động luật sư.

3. Nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí (Điều 8)

Nhằm tăng cường trách nhiệm xã hội của luật sư, phù hợp với thông lệ quốc tế, Dự thảo Luật bỏ Điều 8 khuyến khích luật sư tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý mà đưa việc thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý thành nghĩa vụ của luật sư (Điều 21).

Dự thảo Luật cũng quy định nghĩa vụ của tổ chức hành nghề luật sư trong việc tạo điều kiện cho luật sư của tổ chức mình thực hiện trợ giúp pháp lý và nghĩa vụ của Đoàn luật sư trong việc tổ chức để các luật sư của Đoàn tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý nhằm tạo điều kiện để luật sư làm tốt chức năng xã hội của mình.

Để đảm bảo nghĩa vụ trợ giúp pháp lý được thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước, Dự thảo Luật cũng quy định nghĩa vụ của Liên đoàn luật sư Việt Nam trong việc hướng dẫn và giám sát thực hiện nghĩa vụ trợ giúp pháp lý của luật sư.

CHƯƠNG II. LUẬT SƯ

1. Đào tạo nghề luật sư (Điều 12)

Thực hiện ý kiến của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương tại Thông báo số 03-TB/CCTP ngày 29/12/2011 về việc cần thiết phải đào tạo chung ba chức danh thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư để tạo mặt bằng kiến thức chung cho những đối tượng này, góp phần thực hiện yêu cầu nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà; tạo điều kiện mở rộng nguồn bổ nhiệm thẩm phán, kiểm sát viên và việc chuyển đổi các chức danh này theo định hướng của Đảng về cải cách tư pháp, Dự thảo Luật đã quy định thời gian đào tạo nghề luật sư theo hướng tăng từ 6 tháng lên 12 tháng. Trong thời gian 12 tháng đào tạo nghề, học viên sẽ được học một số kỹ năng cơ bản chung cho cả 3 chức danh, được đi thực hành tại các cơ quan tư pháp (tòa án, kiểm sát, điều tra...), các tổ chức hành nghề luật sư, đồng thời chương trình đào tạo sẽ dành thời gian để đào tạo kỹ năng nghề nghiệp chuyên sâu của luật sư.

Có ý kiến cho rằng nên giữ nguyên thời gian đào tạo như Luật Luật sư.

Cũng có ý kiến cho rằng, Dự thảo Luật không nên quy định cứng về thời gian đào tạo mà nên giao cho Chính phủ quy định.

Ban soạn thảo Dự án Luật cho rằng, thời gian đào tạo nghề luật sư là vấn đề lớn, cần quy định trong luật. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng luật sư và phát triển hợp lý số lượng luật sư, tạo tính liên thông giữa các chức danh tư pháp và để tạo mặt bằng kiến thức chung cho những đối tượng này theo tinh thần cải cách tư pháp cần tăng thời gian đào tạo lên 12 tháng.

2. Người được miễn đào tạo nghề luật sư (Điều 13)

Điều 13 của Luật Luật sư hiện hành quy định chưa đầy đủ việc miễn đào tạo cho một số chức danh tư pháp trong xã hội đã có bằng cử nhân luật và được đào tạo nghề gần với nghề luật sư như công chứng viên, chấp hành viên, thừa phát lại, thanh tra viên, thẩm tra viên trong lĩnh vực pháp luật. Để khắc phục những hạn chế này, Dự thảo Luật quy định theo hướng rà soát tiêu chuẩn các chức danh để quy định các trường hợp vừa được miễn đào tạo, vừa được miễn tập sự hành nghề luật sư bao gồm: Giáo sư, phó giáo sư ngành luật, tiến sỹ luật; Đã là thẩm phán, kiểm sát viên sơ cấp từ 05 năm trở lên; Đã là thẩm phán trung cấp, thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, kiểm sát viên trung cấp, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, điều tra viên cao cấp, chấp hành viên cao cấp, thẩm tra viên cao cấp, kiểm tra viên cao cấp, thanh tra viên cao cấp, chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật; Đã là điều tra viên, chấp hành viên, công chứng viên, thừa phát lại, thẩm tra viên chính, kiểm tra viên chính, thanh tra viên chính, chuyên viên chính, nghiên cứu viên chính, giảng viên chính trong lĩnh vực pháp luật từ 05 năm trở lên; sĩ quan quân đội công tác trong lĩnh vực pháp luật từ 15 năm trở lên. 

Đồng thời, Dự thảo Luật cũng quy định miễn đào tạo nghề, nhưng vẫn phải tập sự hành nghề luật sư và phải qua kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư đối với người đã là điều tra viên, chấp hành viên, công chứng viên, thừa phát lại; thẩm tra viên chính, kiểm tra viên chính, thanh tra viên chính, chuyên viên chính, nghiên cứu viên chính, giảng viên chính trong lĩnh vực pháp luật từ 05 năm trở lên và sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam công tác trong lĩnh vực pháp luật từ 15 năm trở lên. 

Có ý kiến cho rằng chỉ nên cho phép giáo sư, phó giáo sư ngành luật và tiến sỹ luật được miễn đào tạo nghề luật sư. Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu, Ban soạn thảo thấy rằng những người được miễn nêu trong Dự thảo Luật đều có bằng cử nhân luật, đã có kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực pháp luật, vì vậy, việc miễn đào tạo nghề luật sư cho những người này là phù hợp tình hình thực tế hiện nay, góp phần tăng hợp lý số lượng luật sư như mục tiêu Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 đề ra.

Để nâng cao chất lượng của luật sư, Dự thảo Luật quy định chặt chẽ hơn việc miễn đào tạo nghề luật sư, cụ thể trừ giáo sư, phó giáo sư ngành luật, tiến sỹ luật, những người thuộc đối tượng này chỉ được xem xét miễn đào tạo nghề luật sư trong thời hạn tối đa là 05 năm, kể từ ngày thôi đảm nhiệm các chức danh đó.

3. Tập sự hành nghề luật sư (Điều 14)

Về quyền của người tập sự hành nghề luật sư, quy định của Luật Luật sư còn hạn chế người tập sự hành nghề luật sư được cọ xát vụ việc thực tế. Để tạo điều kiện cho người tập sự được rèn luyện về kỹ năng hành nghề của luật sư, khắc phục bất cập của Luật hiện hành về chế định người tập sự, Dự thảo Luật quy định cho phép người tập sự được thực hiện một số công việc nhưng dưới sự giám sát của luật sư hướng dẫn và được khách hàng đồng ý. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của khách hàng, người tập sự không được bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự, đại diện cho khách hàng trước tòa và ký văn bản tư vấn pháp luật.

Dự thảo Luật còn quy định điều kiện của luật sư hướng dẫn phải có ít nhất 03 năm kinh nghiệm hành nghề, có đạo đức tốt, uy tín nghề nghiệp và tại cùng một thời điểm, một luật sư không được hướng dẫn quá 03 người tập sự hành nghề luật sư nhằm bảo đảm chất lượng tập sự hành nghề luật sư. Để bảo vệ  quyền lợi của khách hàng và chất lượng của hoạt động luật sư, Dự thảo Luật quy định trách nhiệm của luật sư hướng dẫn trong việc giám sát và chịu trách nhiệm về các hoạt động của người tập sự hành nghề luật sư.

Để bảo đảm thời gian phù hợp cho cả việc đào tạo nghề và tập sự hành nghề luật sư, bên cạnh việc tăng thời gian đào tạo nghề, Dự thảo Luật quy định giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư từ 18 tháng xuống 12 tháng.

Có ý kiến đề nghị giữ như quy định của Luật hiện hành, không nên quy định như trong Dự thảo Luật. Ban soạn thảo thấy rằng, quy định như Dự thảo Luật là phù hợp để nâng cao chất lượng tập sự hành nghề luật sư.

Có ý kiến đề nghị nên đề nghị đổi tên ‘người tập sự hành nghề luật sư” thành “luật sư tập sự”.

Ban soạn thảo cho rằng người tập sự hành nghề luật sư chưa phải là luật sư nên không được hành nghề luật sư, do đó không thể gọi là “luật sư tập sự”. Quy định như Dự thảo Luật nhằm xác định rõ việc tập sự hành nghề (giai đoạn học việc) của người tập sự hành nghề luật sư, khắc phục tình trạng vừa tập sự vừa hành nghề gây ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng và chất lượng hoạt động luật sư. Quy định này cũng phù hợp của quy định của pháp luật về tố tụng và thông lệ quốc tế.

4. Kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư (Điều 15)

Để minh bạch hoá các quy định về những người tham gia và những người được miễn kiểm tra hết tập sự hành nghề luật sư, Dự thảo Luật quy định rõ người tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư là người tập sự đã hoàn thành thời gian tập sự. Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư có trách nhiệm lập danh sách những người đủ điều kiện tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư. Người được miễn tập sự hành nghề luật sư thì không phải tham dự kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư.

Nhằm nâng cao vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, Dự thảo Luật còn quy định Liên đoàn luật sư Việt Nam tổ chức kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư thay vì Bộ Tư pháp như Luật hiện hành. Chủ tịch Hội đồng kiểm tra là Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Liên đoàn luật sư Việt Nam. Bộ Tư pháp có trách nhiệm giám sát và hướng dẫn việc kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư. 

5. Cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư (Điều 17)

Để đơn giản hoá tối đa thủ tục hành chính, tại khoản 1, khoản 2, Điều 17 của Dự thảo Luật đã bỏ Sơ yếu lý lịch trong hồ sơ cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư. Những thông tin cá nhân về người đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư sẽ được thể hiện tại Đơn đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư theo mẫu do Bộ Tư pháp ban hành. Đồng thời, Dự thảo Luật cũng giảm thời gian xem xét, cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư từ 30 ngày xuống còn 20 ngày.

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, Dự thảo sửa đổi điểm c, khoản 4, Điều 17 theo hướng không cấm người phạm tội nghiêm trọng khi đã được xóa án tích được hành nghề luật sư, tạo cơ hội cho những người này hướng thiện và có cơ hội hành nghề.

6. Cho phép viên chức được hành nghề luật sư (Điều 17, 18)

Để tiếp tục phát triển hợp lý về số lượng luật sư, bổ sung đội ngũ luật sư phù hợp với mục tiêu của Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020, Dự thảo Luật mở rộng đối tượng được trở thành luật sư cho các viên chức đang làm công tác giảng dạy pháp luật để thu hút những người có trình độ, kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật tham gia hành nghề luật sư, tạo điều kiện cho viên chức giảng dạy pháp luật có thêm kinh nghiệm thực tiễn phục vụ công tác giảng dạy và nâng cao chất lượng đào tạo. Quy định này cũng không trái Luật Viên chức. Ban soạn thảo đồng tình với loại ý kiến này.

Trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật thì có ý kiến cho rằng không nên cho phép viên chức hành nghề luật sư bởi lẽ việc cho phép viên chức hành nghề luật sư cũng có thể ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động luật sư, vừa tạo ra một bộ phận luật sư không chuyên tâm với nghề và một bộ phận viên chức không chuyên tâm vào công việc. Thêm vào đó, nếu cho phép viên chức được hành nghề luật sư có thể dẫn đến việc xung đột lợi ích khi hành nghề bởi họ là người đang thực hiện dịch vụ cho Nhà nước. Trong khi đó, khi hành nghề luật sư thì phải đại diện cho khách hàng, bảo vệ quyền lợi của khách hàng nên có thể có xung đột về quyền lợi với Nhà nước. Pháp luật của nhiều nước không chấp nhận việc xung đột lợi ích trong hành nghề luật sư để bảo đảm tính độc lập, khách quan của luật sư. Quy định cho phép viên chức hành nghề luật sư không phù hợp với quan điểm “chuyên nghiệp hoá” nghề luật sư như định hướng của Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 và cũng không phù hợp với thông lệ quốc tế.

Bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng để đạt mục tiêu mà Chiến lược phát triển nghề luật sư đề ra là có 18.000-20.000 luật sư đến năm 2020 thì cần cho phép tất cả viên chức có đủ điều kiện theo quy định được hành nghề luật sư.

Sau khi nghiên cứu, Ban soạn thảo giữ nguyên quy định như Dự thảo Luật, cho phép một bộ phận viên chức là giảng viên giảng dạy pháp luật được hành nghề luật sư để bổ sung thêm nguồn nhân lực, phát triển hợp lý số lượng luật sư, phù hợp với định hướng của Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020, thu hút những người có trình độ, kinh nghiệm về pháp luật tham gia hành nghề luật sư, đồng thời tạo điều kiện cho đội ngũ này có thêm kinh nghiệm thực tiễn phục vụ công tác giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo luật và đào tạo nghề luật sư. Tuy nhiên, để bảo đảm tính khách quan của hoạt động luật sư và chặt chẽ về kỷ luật hành nghề, Dự thảo Luật nghiên cứu, bổ sung quy định viên chức hành nghề luật sư phải tuân thủ kỷ luật lao động, bảo đảm nhiệm vụ giảng dạy, cũng như chất lượng của hoạt động luật sư.

7. Thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư (Điều 18)

Để phù hợp với quy định cho phép viên chức đang làm công tác giảng dạy pháp luật được hành nghề luật sư, Dự thảo Luật quy định đối tượng này không bị thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư. Để tăng cường quản lý luật sư và hành nghề luật sư phù hợp với tình hình thực tế, Dự thảo Luật cũng bổ sung quy định thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư đối với những người thôi hành nghề luật sư theo nguyện vọng hoặc chuyển làm công việc khác. Đồng thời, Dự thảo Luật cũng quy định những người có Chứng chỉ hành nghề luật sư mà không gia nhập một Đoàn luật sư nào trong thời hạn 02 năm, người không hành nghề luật sư trong thời hạn 03 năm, luật sư là viên chức bị buộc thôi việc và người thôi hành nghề luật sư theo nguyện vọng hoặc chuyển làm công việc khác sẽ bị thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư.

8. Cấp lại Chứng chỉ hành nghề luật sư (Điều 19)

Ngoài những trường hợp bị thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư khi có đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 10 của Dự thảo Luật được xem xét cấp lại Chứng chỉ hành nghề luật sư, Điều 19 của Dự thảo Luật bổ sung thêm 03 trường hợp được cấp lại Chứng chỉ hành nghề luật sư đối với luật sư là viên chức bị buộc thôi việc,  những người bị thu hồi Chứng chỉ do không gia nhập một Đoàn luật sư nào trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và những người không thành lập, tham gia thành lập hoặc làm việc theo hợp đồng cho một tổ chức hành nghề luật sư hoặc đăng ký hành nghề với tư cách cá nhân trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày gia nhập Đoàn luật sư nhằm phù hợp với quy định tại Điều 18 của Dự thảo Luật.

9. Gia nhập Đoàn luật sư (Điều 20)

Dự thảo Luật quy định rõ, người có Chứng chỉ hành nghề luật sư gia nhập một Đoàn luật sư tại nơi có tổ chức hành nghề luật sư hoặc chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư mà mình thành lập hoặc tham gia thành lập hoặc nơi có tổ chức hành nghề luật sư hoặc cơ quan, tổ chức mà mình ký kết hợp đồng lao động. Đồng thời, Dự thảo Luật sửa đổi theo hướng đơn giản hóa hồ sơ và thủ tục gia nhập Đoàn luật sư, theo đó, luật sư chỉ phải nộp Giấy đề nghị gia nhập Đoàn luật sư theo mẫu do Liên đoàn luật sư Việt Nam ban hành và Bản sao Chứng chỉ hành nghề luật sư.

Có ý kiến cho rằng, việc bỏ Sơ yếu lý lịch trong thành phần hồ sơ xin gia nhập Đoàn luật sư sẽ gây khó khăn cho công tác quản lý luật sư của Đoàn luật sư do thiếu thông tin cá nhân về người xin gia nhập Đoàn. Về vấn đề thông tin cá nhân của người gia nhập Đoàn luật sư, trong mẫu Giấy đề nghị gia nhập Đoàn, Liên đoàn luật sư Việt Nam sẽ quy định cụ thể.

Để tạo điều kiện cho việc hành nghề của luật sư sau khi được cấp Chứng chỉ, thủ tục cấp Thẻ luật sư được sửa đổi theo hướng thành viên Đoàn luật sư được Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư cấp Thẻ luật sư theo mẫu thống nhất do Liên đoàn luật sư Việt Nam phát hành.

Ngoài ra, để đảm bảo luật sư thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Dự thảo Luật quy định Thẻ luật sư có thời hạn là 05 năm kể từ ngày cấp và được đổi khi hết hạn, trừ trường hợp luật sư vi phạm các nghĩa vụ theo quy định của Luật này và Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam. Để không ảnh hưởng đến hoạt động luật sư, Dự thảo Luật bổ sung Điều 92a quy định về Điều khoản chuyển tiếp:

- Thẻ luật sư do Liên đoàn luật sư Việt Nam cấp tiếp tục có giá trị trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Luật sư  có hiệu lực.

- Trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Luật sư  có hiệu lực, luật sư là thành viên của Đoàn luật sư khác với Đoàn luật sư nơi có tổ chức hành nghề luật sư hoặc chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư mà mình thành lập hoặc tham gia thành lập hoặc nơi có tổ chức hành nghề luật sư hoặc cơ quan, tổ chức mà mình ký kết hợp đồng lao động phải chuyển về gia nhập Đoàn luật sư theo quy định tại Điều 20 của Luật. Giấy đề nghị gia nhập Đoàn luật sư được Bộ Tư pháp ban hành nhằm mẫu hoá các loại giấy tờ đảm bảo thống nhất trong cả nước và tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư gia nhập Đoàn luật sư.

 Ngoài ra, thời hạn xem xét, quyết định việc gia nhập Đoàn luật sư cũng giảm từ 10 ngày làm việc xuống còn 7 ngày làm việc.

Nhằm tạo điều kiện cho luật sư chuyển từ Đoàn luật sư này sang Đoàn luật sư khác, Dự thảo Luật cũng quy định rõ thủ tục tên ra khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư và đăng ký gia nhập Đoàn luật sư mới.

10. Quyền, nghĩa vụ của luật sư (Điều 21)

Nhằm giúp luật sư có cơ sở thực hiện tốt hơn quyền của mình, khắc phục tình trạng nhiều cơ quan, tổ chức hiện nay không thừa nhận tính đại diện của luật sư, Dự thảo Luật bổ sung quy định cho luật sư quyền được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề theo quy định của Luật và pháp luật có liên quan; đại diện cho khách hàng trước cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật.

Để nâng cao chất lượng hành nghề luật sư, phù hợp với thông lệ quốc tế, xây dựng hình ảnh luật sư trong xã hội, nâng cao vị thế của luật sư, Dự thảo Luật quy định nghĩa vụ của luật sư tham gia bồi dưỡng bắt buộc hàng năm đối với luật sư và nghĩa vụ giữ gìn đạo đức và uy tín nghề nghiệp của luật sư. Việc bồi dưỡng bắt buộc hàng năm sẽ do Liên đoàn luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp.

Đối với luật sư là viên chức, để bảo đảm tính khách quan của hoạt động luật sư và chặt chẽ về kỷ luật hành nghề, Dự thảo Luật bổ sung quy định luật sư là viên chức phải bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của viên chức theo quy định của Luật Viên chức và nghĩa vụ của luật sư theo quy định của Luật Luật sư.

CHƯƠNG III: HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ

1. Hình thức hành nghề của luật sư (Điều 23)

Nhằm phù hợp với các quy định của Luật Viên chức, Dự thảo Luật quy định đối với những luật sư là viên chức thì không được thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư.

Trong quá trình soạn thảo cũng có ý kiến đề nghị cân nhắc việc tiếp tục duy trì hình thức hành nghề luật sư dưới hình thức Công ty luật TNHH và công ty luật chỉ nên là Công ty luật hợp danh và Luật Luật sư chỉ quy định điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư, còn việc đăng ký tổ chức hành nghề luật sư theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

Qua nghiên cứu, Ban soạn thảo thấy rằng việc đa dạng hoá hình thức tổ chức hành nghề luật sư trong giai đoạn hiện nay là cần thiết và cũng phù hợp với xu thế chung của thế giới trong lĩnh vực hành nghề luật sư. Hơn nữa, quy định về hình thức Công ty luật TNHH cũng tạo điều kiện cho luật sư trong việc lựa chọn hình thức tổ chức hành nghề phù hợp với khả năng thực tế của mình và nhu cầu của thị trường, tạo điều kiện để phát triển những tổ chức hành nghề luật sư có quy mô lớn, hoạt động chuyên sâu. Các luật chuyên ngành có tính đặc thù như Luật Chứng khoán, Luật Kiểm toán độc lập đều cho phép thành lập Công ty TNHH. Bên cạnh đó, Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư chỉ nên tập trung giải quyết những bất cập, vướng mắc hiện nay, trong khi đó, thực tế thi hành Luật Luật sư năm 2006 cho thấy mô hình Công ty luật trách nhiệm hữu hạn đã phát huy tác dụng tốt và không có bất cập trong thực tiễn. Vì những lý do trên, Ban soạn thảo giữ hình thức tổ chức hành nghề luật sư là Công ty luật trách nhiệm hữu hạn.

Về việc đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư chỉ quy định điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư, Ban soạn thảo cho rằng quy định như Luật Luật sư hiện hành phù hợp với tính chất đặc thù của nghề luật sư là nghề liên quan đến pháp luật, đến hoạt động của cơ quan nhà nước, đặc biệt là cơ quan tiến hành tố tụng, gắn liền với cơ chế thực thi pháp luật, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư tại địa phương, vì vậy, cơ chế gắn liền việc đăng ký tổ chức hành nghề luật sư với quản lý hành nghề luật sư của Sở Tư pháp là phù hợp và bảo đảm hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với luật sư và hành nghề luật sư với tư cách là nghề đặc thù. Đồng thời, quy định việc đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư tại Sở Tư pháp cũng không trái với Luật Doanh nghiệp vì theo quy định tại khoản 2, Điều 3 của Luật Doanh nghiệp thì “Trường hợp đặc thù liên quan đến thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp được quy định tại Luật khác thì áp dụng theo quy định của Luật đó”. Thực tiễn hiện nay, một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đặc thù cũng đăng ký hoạt động tại các cơ quan chuyên ngành, như công ty chứng khoán đăng ký thành lập tại Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, Văn phòng công chứng đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp. Quy định này của Luật hiện hành đã ổn định và phát huy tác dụng tốt, do đó, Ban soạn thảo giữ nguyên như Luật hiện hành.

2. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư (Điều 27)

Luật Luật sư hiện hành (Điều 27) quy định khi tham gia tố tụng hình sự, dân sự, hành chính luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận tham gia tố tụng. Quy định này được sửa đổi theo hướng đơn giản hoá thủ tục hành chính như sau:

Khi tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự, luật sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng.

 Khi tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa, luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận người bào chữa.

Mặc dù vẫn giữ lại quy định về cấp Giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư nhưng quy định tại Dự thảo có những điểm mới như sau:

- Thứ nhất, làm rõ hoạt động tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự, luật sư không phải xin cấp Giấy chứng nhận tham gia tố tụng mà chỉ cần xuất trình Thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng. Việc cấp Giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư chỉ áp dụng đối với trường hợp luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa;

- Thứ hai, quy định rõ người có quyền yêu cầu luật sư theo đó không chỉ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà cả  người thân  hoặc người đại diện hợp pháp của họ đều có quyền yêu cầu luật sư;

- Thứ ba, thời hạn cấp Giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư cũng được quy định theo hướng rõ ràng hơn. Cụ thể là trong thời hạn 3 ngày làm việc hoặc 24 giờ đối với trường hợp tạm giữ, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm cấp  Giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư;

- Thứ tư, quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc cấp Giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư, trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Luật sư có quyền khiếu nại, khiếu kiện trong trường hợp bị từ chối cấp Giấy chứng nhận người bào chữa;

- Thứ năm, nhằm đơn giản hoá tối đa thủ tục hành chính trong việc cấp Giấy chứng nhận người bào chữa để tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư trong việc cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, khắc phục những vướng mắc, bất cập hiện nay Dự thảo Luật quy định 2 loại giấy tờ (Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư của khách hàng hoặc văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư hoặc văn bản phân công của Đoàn luật sư đối với trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng) thay vì 3 loại giấy tờ như quy định của Luật hiện hành. Quy định này phù hợp với quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và tố tụng hình sự. Ban soạn thảo đồng tình với quy định như Dự thảo.

Tuy nhiên, Liên đoàn luật sư Việt Nam có ý kiến đề nghị nghiên cứu bỏ quy định về việc cấp Giấy chứng nhận người bào chữa để tạo điều kiện cho người bào chữa tham gia tố tụng ngay từ khi khởi tố bị can hoặc khi có quyết định tạm giữ theo quy định tại khoản 1, Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự. Việc bỏ quy định cấp Giấy chứng nhận người bào chữa sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia một cách kịp thời vào tất cả các giai đoạn tố tụng, nhất là từ giai đoạn điều tra, nâng cao vị thế của luật sư, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Cũng có ý kiến đề nghị nghiên cứu bỏ quy định về cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, nhưng đối với một số vụ án hình sự đặc biệt phức tạp như vụ án hình sự thuộc loại tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm buôn bán ma tuý có tổ chức... vẫn cần cấp Giấy chứng nhận người bào chữa để đảm bảo tốt hơn yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay.

Để tạo điều kiện cho người tập sự hành nghề luật sư có cơ hội cọ xát, trau dồi kỹ năng nghề nghiệp Dự thảo Luật  bổ sung quy định về thủ tục để người tập sự hành nghề luật sư đi cùng với luật sư hướng dẫn trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính và vụ án hình sự.

3. Hình thức tổ chức hành nghề luật sư, điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư (Điều 32)

Về điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư, theo quy định hiện hành, bất kỳ luật sư nào có Chứng chỉ hành nghề luật sư và có Thẻ luật sư là có thể thành lập tổ chức hành nghề luật sư. Việc thiếu các quy định chặt chẽ về điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư trong đó có yêu cầu về kinh nghiệm hành nghề và trụ sở của các tổ chức hành nghề luật sư đã dẫn đến tình trạng nhiều tổ chức hành nghề hoạt động nhỏ lẻ, manh mún, không bảo đảm chất lượng dịch vụ khi cung cấp cho khách hàng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và tính chuyên nghiệp của nghề luật sư. Vì vậy, Dự thảo Luật bổ sung quy định về điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư, cụ thể quy định về số năm kinh nghiệm hành nghề là 02 năm đối với người thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư và điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất của tổ chức hành nghề.

Ngoài ra, để giải quyết tình trạng luật sư gia nhập một Đoàn luật sư nhưng lại thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư ở địa phương khác,  Dự thảo Luật cũng bổ sung quy định về việc luật sư thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư mà không phải là thành viên của Đoàn luật sư nơi có tổ chức hành nghề luật sư phải chuyển về gia nhập Đoàn luật sư nơi có tổ chức hành nghề luật sư hoặc chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày tổ chức hành nghề luật sư được cấp Giấy đăng ký hoạt động.

4. Quyền của tổ chức hành nghề luật sư (Điều 39)

Với mục tiêu huy động sự đóng góp của các tổ chức hành nghề luật sư, đồng thời tạo điều kiện để nâng cao vị trí, vai trò của tổ chức hành nghề luật sư, Dự thảo Luật đã bổ sung quy định các tổ chức hành nghề luật sư được tham gia xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia tư vấn, giải quyết các vụ việc của các cơ quan, tổ chức nhà nước và doanh nghiệp nhà nước khi được yêu cầu.

5. Nghĩa vụ của tổ chức hành nghề luật sư (Điều 40)

Để tạo điều kiện thuận lợi cho người tập sự được tập sự hành nghề luật sư, giám sát quá trình tập sự hành nghề của người tập sự hành nghề luật sư, Dự thảo Luật quy định cho các tổ chức hành nghề luật sư có nghĩa vụ nhận người tập sự hành nghề luật sư và cử luật sư có đủ trình độ và năng lực hướng dẫn người tập sự hành nghề luật sư.

Ngoài ra, nhằm nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp của tổ chức hành nghề luật sư, Dự thảo Luật bổ sung quy định tổ chức hành nghề có nghĩa vụ thực hiện việc quản lý, bảo đảm cho luật sư của tổ chức mình tuân thủ pháp luật, Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam, tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam và thực hiện nghĩa vụ báo cáo về tổ chức và hoạt động của tổ chức mình theo quy định của pháp luật. Từ trước đến nay, việc quản lý, giám sát luật sư và hành nghề luật sư được hiểu là chức năng của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, điều này không phù hợp với tính chất của nghề luật sư và thông lệ hành nghề quốc tế. Do đó, quy định này sẽ nâng cao vai trò tự quản của tổ chức hành nghề luật sư và phù hợp với quy định tại Điều 6 của Dự thảo Luật.

6. Hợp nhất, sáp nhập và chuyển đổi hình thức tổ chức hành nghề luật sư (Điều 45)

Nhằm tạo tính tương thích với pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp, phù hợp thông lệ hành nghề luật sư trên thế giới, tạo điều kiện cho tổ chức hành nghề luật sư hoạt động ổn định, Dự thảo Luật sửa đổi theo hướng cho phép các công ty luật cùng loại hợp nhất, sáp nhập, văn phòng luật sư có thể chuyển đổi thành công ty luật trên cơ sở kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ của văn phòng luật sư theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên được chuyển đổi thành Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên và ngược lại; công ty luật trách nhiệm hữu hạn được chuyển đổi thành công ty luật hợp danh và ngược lại theo quy định của Chính phủ. Công ty luật được chuyển đổi kế thừa toàn bộ quyền và nghĩa vụ của công ty luật bị chuyển đổi.

7. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân (Điều 49, 50)

Trong quá trình soạn thảo, một số ý kiến cho rằng nên bỏ quy định về luật sư hành nghề với tư cách cá nhân. Ban soạn thảo cho rằng, cần giữ lại hình thức hành nghề với tư cách cá nhân. Dự thảo Luật đã sửa đổi về phạm vi hành nghề của luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, theo đó luật sư hành nghề với tư cách cá nhân chỉ được làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức, doanh nghiệp thay vì có địa điểm giao dịch như trước đây. Quy định như vậy là phù hợp với thông lệ hành nghề luật sư trên thế giới (in-house lawyer) và tạo điều kiện để cơ quan, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ của các luật sư, đa dạng hoá hình thức hành nghề của luật sư. Để bảo đảm không xáo trộn trong hoạt động hành nghề của luật sư Dự thảo luật bổ sung quy định về điều khoản chuyển tiếp (Điều 92a) theo đó trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư có hiệu lực, luật sư hành nghề với tư cách cá nhân phải chuyển đổi sang hành nghề dưới hình thức thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư hoặc làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức, doanh nghiệp và thực hiện việc đăng ký hoạt động theo quy định của Luật này.

 

CHƯƠNG V: TỔ CHỨC XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP CỦA LUẬT SƯ

 

1. Đoàn luật sư (Điều 60)

Dự thảo Luật (Điều 60) sửa đổi, bổ sung theo hướng Đoàn luật sư hoạt động theo Điều lệ chung, thống nhất do Liên đoàn luật sư Việt Nam ban hành và bỏ Điều 63 về Điều lệ Đoàn luật sư; Đoàn luật sư không được ban hành nghị quyết, quyết định, quy định về phí, khoản thu và các quy định khác trái với Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam. Ban soạn thảo thấy rằng nếu để cho các Đoàn luật sư tự ban hành Điều lệ sẽ dẫn đến tình trạng không thống nhất về cơ cấu tổ chức và hoạt động của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư từ Trung ương đến địa phương, vì vậy cần sửa đổi, bổ sung vấn đề này.

Trong quá trình soạn thảo, có ý kiến cho rằng không nên áp dụng một Điều lệ chung cho tất cả các Đoàn luật sư mà Liên đoàn luật sư Việt Nam chỉ nên quy định Điều lệ mẫu vì các Đoàn luật sư có Điều lệ riêng để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương. Qua nghiên cứu, Ban soạn thảo thấy rằng Luật Luật sư hiện hành (Điều 63) quy định Đoàn luật sư có Điều lệ riêng. Thực tiễn thi hành Luật Luật sư trong những năm qua cho thấy việc quy định mỗi Đoàn luật sư có Điều lệ riêng dẫn đến tình trạng “cát cứ”, “sứ quân” tại một số địa phương. Do vậy, Dự thảo Luật đã sửa đổi theo hướng quy định Đoàn luật sư hoạt động theo Điều lệ chung thống nhất do Liên đoàn luật sư Việt Nam ban hành nhằm tăng cường tính thống nhất trong tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, phát huy vai trò của tổ chức luật sư toàn quốc. Để bảo đảm tính linh hoạt, phù hợp với thực tiễn, dự thảo Luật đã quy định rõ những nội dung mang tính nguyên tắc của Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam và việc ban hành Nội quy của Đoàn luật sư (Điều 67).

Ngoài ra, nhằm nâng cao và tạo điều kiện cho việc tự quản của các Đoàn luật sư lớn, trong Dự thảo Luật quy định đối với các Đoàn luật sư có từ 500 luật sư trở lên thì có thể thành lập các chi hội Đoàn luật sư. Tên gọi, việc thành lập, cơ cấu tổ chức và quyền, nghĩa vụ của các chi hội Đoàn luật sư sẽ do Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam quy định.

2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn luật sư (Điều 61)

Để nâng cao vai trò tự quản của các Đoàn luật sư và đảm bảo tính thống nhất trong việc áp dụng Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Dự thảo Luật bổ sung quy định các Đoàn luật sư có trách nhiệm cấp Giấy chứng nhận người tập sự hành nghề luật sư; cấp Thẻ luật sư; trách nhiệm bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng quản trị, điều hành tổ chức hành nghề luật sư; giám sát việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư; quy định về mức phí gia nhập Đoàn luật sư, phí thành viên trên cơ sở khung phí do Liên đoàn luật sư Việt Nam ban hành; thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định của Liên đoàn luật sư Việt Nam; báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Liên đoàn luật sư về tổ chức và hoạt động, báo cáo kết quả đại hội nhiệm kỳ, nghị quyết, quyết định và các quy định của Đoàn luật sư v.v.

 Ngoài ra, nhằm phù hợp với các quy định của pháp luật về Hội, Dự thảo còn quy định Đoàn luật sư phải báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Liên đoàn luật sư về Đề án tổ chức Đại hội nhiệm kỳ, phương án xây dựng nhân sự Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật.

3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Liên đoàn luật sư Việt Nam (Điều 65)

Để phát huy vai trò, chức năng của Liên đoàn luật sư Việt Nam, trong Dự thảo Luật bổ sung thêm một số chức năng cho Liên đoàn luật sư Việt Nam như  hướng dẫn nghĩa vụ trợ giúp pháp lý của luật sư; tổ chức việc bồi dưỡng bắt buộc cho luật sư, bồi dưỡng kỹ năng quản trị, điều hành tổ chức hành nghề luật sư; giao cho Liên đoàn luật sư Việt Nam có quyền đình chỉ thi hành và yêu cầu sửa đổi những quy định, quyết định và nghị quyết của Đoàn luật sư trái với Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ thi hành và yêu cầu sửa đổi những quy định, quyết định và nghị quyết của Đoàn luật sư trái với quy định của Luật Luật sư. Ngoài ra, để phù hợp với các quy định của pháp luật về hội Dự thảo Luật bổ sung nghĩa vụ phối hợp với Bộ Tư pháp chuẩn bị và báo cáo cơ quan có thẩm quyền về Đề án tổ chức Đại hội, phương án nhân sự bầu các chức danh lãnh đạo chủ chốt, báo cáo về tổ chức, hoạt động của luật sư trong phạm vi toàn quốc và tổ chức, hoạt động của Liên đoàn luật sư Việt Nam, kết quả Đại hội của Liên đoàn luật sư Việt Nam; báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi được yêu cầu; gửi Bộ Tư pháp nghị quyết, quyết định, quy định của Liên đoàn luật sư Việt Nam.v.v.

Để tăng cường hơn nữa vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, Dự thảo Luật quy định chuyển giao một số nhiệm vụ quản lý của Nhà nước sang tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư như giao cho Liên đoàn luật sư Việt Nam tổ chức kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư thay vì Bộ Tư pháp tổ chức như quy định của Luật hiện hành; giao cho Liên đoàn luật sư Việt Nam hướng dẫn và giám sát việc thực hiện nghĩa vụ trợ giúp pháp lý của luật sư; giao cho Liên đoàn luật sư Việt Nam tổ chức bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ, bồi dưỡng kỹ năng quản trị, điều hành tổ chức hành nghề luật sư...

4. Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam (Điều 67)

Điều 67 về Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam đã được rà soát, sửa đổi, bổ sung cụ thể. Dự thảo Luật được quy định cụ thể hơn những nội dung chính của Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam như quy định về mối quan hệ giữa Đoàn luật sư và Liên đoàn luật sư Việt Nam, quyền, nghĩa vụ của thành viên, cơ cấu, số lượng đại biểu, nhiệm vụ, quyền hạn của Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc, Đoàn luật sư; thủ tục và trình tự tiến hành Đại hội của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư; tài chính của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư; khen thưởng, thủ tục xem xét kỷ luật luật sư; thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và nghĩa vụ báo cáo về tổ chức và hoạt động của Đoàn luật sư.v.v. Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam được áp dụng thống nhất dối với Liên đoàn và các Đoàn luật sư (bỏ Điều 63 về Điều lệ Đoàn luật sư).

Trong quá trình soạn thảo, có ý kiến cho rằng việc phê duyệt Điều lệ của Hội hoạt động trong phạm vi cả nước hoặc liên tỉnh thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Nội vụ để đảm bảo tính thống nhất với các hội hiện hành.

Về vấn đề này, Ban soạn thảo thấy rằng theo quy định của Khoản 1, Điều 14 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội thì Bộ trưởng Bộ Nội vụ phê duyệt điều lệ đối với hội có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh, trừ trường hợp luật, pháp lệnh có quy định khác.

Xuất phát từ tính chất đặc thù của nghề luật sư nên Liên đoàn luật sư Việt Nam mặc dù là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư nhưng có vị trí, vai trò quan trọng trong quản lý nghề nghiệp luật sư. Khác với các tổ chức xã hội - nghề nghiệp khác, ngoài chức năng tập hợp, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của thành viên và bồi dưỡng, trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp, Liên đoàn đoàn luật sư Việt Nam còn thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng trong việc quản lý hoạt động hành nghề của luật sư, trong đó có việc ban hành và giám sát luật sư trong việc tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp; xử lý kỷ luật đối với luật sư vi phạm quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp; giám sát hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư; hoà giải các tranh chấp giữa các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư với nhau và với khách hàng. Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước chuyên ngành đối với luật sư và hành nghề luật sư. Vì vậy, Luật Luật sư hiện hành quy định Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Nội vụ là phù hợp. Quy định này cũng phù hợp với pháp luật về luật sư của các nước như Trung quốc, Thái Lan, Hàn Quốc...

 

CHƯƠNG VI: HÀNH NGHỀ CỦA TỔ CHỨC LUẬT SƯ NƯỚC NGOÀI, LUẬT SƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

 

1. Điều kiện hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài (Điều 68)

Điều 68 Dự thảo Luật quy định bổ sung việc cam kết tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam của tổ chức luật sư nước ngoài khi thành lập tổ chức hành nghề tại Việt Nam. Ngoài ra, luật sư nước ngoài là Trưởng chi nhánh, giám đốc công ty luật nước ngoài tại Việt Nam phải có ít nhất 05 năm hành nghề liên tục, kể từ khi được công nhận là luật sư theo pháp luật của nước nơi được công nhận.

2. Phạm vi hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài (Điều 70)

Để tránh tình trạng xung đột pháp luật về phạm vi hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài trong các quy định của pháp luật hiện hành, Dự thảo Luật sửa đổi theo hướng quy định phạm vi hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam phù hợp với Nghị quyết 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006 của Quốc hội Phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới (WTO).

Bên cạnh đó, Dự thảo Luật cũng quy định rõ những việc tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài những việc được làm và không được làm, tương ứng như cách quy định đối với tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam, khắc phục tình trạng không nhất quán trong việc áp dụng pháp luật hiện nay.

3. Điều kiện hành nghề của luật sư nước ngoài (Điều 74)

Để bảo đảm tính liên thông, bình đẳng giữa luật sư nước ngoài và luật sư Việt Nam, Dự thảo Luật bổ sung quy định điều kiện để hành nghề của luật sư nước ngoài tại Việt Nam là phải cam kết tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư Việt Nam.

4. Phạm vi hành nghề của luật sư nước ngoài (Điều 76)

Để đảm bảo tính tương thích giữa phạm vi hành nghề của luật sư nước ngoài và phạm vi hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Điều 76 theo hướng làm rõ những việc luật sư nước ngoài được làm và những việc không được làm, phù hợp với các quy định của WTO và Nghị quyết 71/2006/QH11.

 

CHƯƠNG VII: QUẢN LÝ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ

 

1. Trách nhiệm quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư (Điều 83)

Nhằm khắc phục tình trạng mất cân đối trong việc phát triển số lượng luật sư, tạo điều kiện phát triển các công ty luật quy mô lớn, Dự thảo Luật bổ sung quy định Bộ Tư pháp xây dựng, trình Chính phủ chính sách hỗ trợ cho Đoàn luật sư các tỉnh đặc biệt khó khăn; khuyến khích phát triển các tổ chức hành nghề luật sư có quy mô lớn; thu hút các tổ chức hành nghề luật sư tham gia đào tạo luật sư phục vụ hội nhập quốc tế và các chính sách khác hỗ trợ phát triển nghề luật sư. 

Ngoài ra, Dự thảo Luật đã bổ sung quy định Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm cấp phép thành lập cơ sở đào tạo nghề luật sư, quy định chương trình khung đào tạo nghề luật sư; hướng dẫn chế độ bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ của luật sư; phối hợp với Bộ Tài chính quy định học phí đào tạo nghề luật sư; quản lý, tổ chức việc bồi dưỡng, đào tạo nghề luật sư; đình chỉ việc kiểm tra, huỷ bỏ kết quả kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư khi phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng theo quy định của Luật Luật sư và các quy định của pháp luật khác có liên quan; đình chỉ thi hành và yêu cầu sửa đổi nghị quyết, quyết định, quy định của Liên đoàn luật sư Việt Nam trái với quy định của Luật và các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật.

Bên cạnh đó, để tăng cường việc quản lý nhà nước tại địa phương, Dự thảo Luật bổ sung quy định Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư tại địa phương.

 

NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁC

 

1. Quy định chuyển tiếp

Nhằm tạo điều kiện cho luật sư hành nghề với tư cách cá nhân có thời gian chuyển đổi sang hoạt động theo quy định mới, Dự thảo Luật quy định trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, luật sư hành nghề với tư cách cá nhân phải chuyển đổi sang hành nghề dưới hình thức thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư hoặc làm việc theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc làm việc theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức.

Đối với quy định về việc đổi Thẻ luật sư, Dự thảo Luật quy định Thẻ luật sư do Liên đoàn luật sư Việt Nam đã cấp tiếp tục có giá trị trong thời hạn 05 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực.

Dự thảo Luật quy định, trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, luật sư là thành viên của Đoàn luật sư khác với Đoàn luật sư nơi có tổ chức hành nghề luật sư hoặc chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư mà mình thành lập hoặc tham gia thành lập hoặc nơi có tổ chức hành nghề luật sư hoặc cơ quan, tổ chức mà mình ký kết hợp đồng lao động phải chuyển về gia nhập Đoàn luật sư theo quy định tại Điều 20 của Luật này.

Để đảm bảo quyền lợi của luật sư Dự thảo Luật cũng quy định các luật sư chuyển Đoàn luật sư và đăng ký hoạt động theo quy định của Điều khoản chuyển tiếp không phải nộp phí gia nhập Đoàn luật sư hoặc lệ phí đăng ký hoạt động.

2. Thực hiện đơn giản hoá thủ tục hành chính theo Đề án 30 của Chính phủ

a) Minh bạch hóa các trình tự, thủ tục trong hoạt động luật sư, Dự thảo Luật bổ sung 01 Điều quy định số lượng, cách thức nộp hồ sơ khi thực hiện các thủ tục hành chính; quy định rõ các đối tượng phải tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư và người không phải tham dự kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư.

b) Bỏ bản sao Chứng chỉ hành nghề luật sư của luật sư Việt Nam trong thành phần hồ sơ cấp phép thành lập Chi nhánh, Công ty luật nước ngoài quy định tại điểm d, khoản 3, Điều 78 của Luật Luật sư năm 2006.

3. Thay thế các cụm từ

a) Thay cụm từ “tổ chức luật sư toàn quốc” bằng cụm từ “Liên đoàn luật sư Việt Nam”.

Khi xây dựng Luật Luật sư năm 2006, Liên đoàn luật sư Việt Nam chưa ra đời, vì vậy, nhằm quy định phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành, Dự thảo Luật thay cụm từ “tổ chức luật sư toàn quốc” bằng cụm từ “Liên đoàn luật sư Việt Nam”.

b) Thay cụm từ “quản lý hành nghề luật sư” bằng cụm từ “quản lý luật sư và hành nghề luật sư”.

c) Thay cụm từ “cơ quan, tổ chức” tại các Điều 53, 58, 59 bằng cụm từ “tổ chức, doanh nghiệp”.

Trên đây là Bản thuyết minh về Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư.

 

BAN SOẠN THẢO

Ghi chú

văn bản tiếng việt

download Luật DOC (Word)
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file.

Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!

văn bản TIẾNG ANH

* Lưu ý: Để đọc được văn bản tải trên Luatvietnam.vn, bạn cần cài phần mềm đọc file DOC, DOCX và phần mềm đọc file PDF.

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

loading
×
×
×
Vui lòng đợi