Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Công văn 4736/BHXH-TT 2024 truyền thông chuyên đề về Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
- Báo lỗi
- Gửi liên kết tới Email
- In tài liệu
- Chia sẻ:
- Chế độ xem: Sáng | Tối
- Thay đổi cỡ chữ:17
- Chú thích màu chỉ dẫn
thuộc tính Công văn 4736/BHXH-TT
Cơ quan ban hành: | Bảo hiểm xã hội Việt Nam | Số công báo: | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 4736/BHXH-TT | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Công văn | Người ký: | Đào Việt Ánh |
Ngày ban hành: | 17/12/2024 | Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Lao động-Tiền lương, Bảo hiểm |
tải Công văn 4736/BHXH-TT
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM Số: 4736/BHXH-TT | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Hà Nội, ngày 17 tháng 12 năm 2024 |
Kính gửi: |
- Các đơn vị trực thuộc BHXH Việt Nam; |
Thực hiện Kế hoạch số 4256/KH-BHXH ngày 20/11/2024 của Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam về triển khai thi hành Luật BHXH số 41/2024/QH15, Nghị quyết số 142/2024/QH15 của Quốc hội và các Quyết định số 717/QĐ-TTg, Quyết định số 1370/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (Kế hoạch số 4256/KH-BHXH); nhằm tạo sự đồng thuận, thống nhất trong quá trình tổ chức triển khai Luật BHXH số 41/2024/QH15 (Luật BHXH năm 2024), kịp thời đưa chính sách BHXH thực sự đi vào cuộc sống, góp phần hiệu quả trong việc đảm bảo quyền lợi an sinh xã hội lâu dài, bền vững cho người dân, người lao động, BHXH Việt Nam đề nghị các đơn vị trực thuộc BHXH Việt Nam, BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là đơn vị) thực hiện truyền thông chuyên đề về Luật BHXH năm 2024, cụ thể như sau:
1. Nội dung truyền thông1
1.1. Quan điểm, mục tiêu của việc ban hành Luật BHXH năm 2024; khẳng định một trong các mục tiêu khi xây dựng Luật BHXH năm 2024 là kế thừa và gia tăng quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia BHXH; tạo điều kiện thuận lợi để mọi người lao động được tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH. Hoàn thiện quy định quản lý nhà nước và hệ thống tổ chức thực hiện chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu quả, công khai, minh bạch.
1.2. Nội dung mới cơ bản của Luật BHXH năm 2024 về đối tượng tham gia, quyền, lợi ích, trách nhiệm của người tham gia, của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; quy định xử lý tình trạng chậm đóng, trốn đóng BHXH; tính nhân văn, ưu việt của Luật BHXH năm 2024, cụ thể:
- Những điểm mới liên quan đến người lao động, người sử dụng lao động
- Những điểm mới liên quan đến vai trò, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp.
1.3. Những điểm mới liên quan đến quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan BHXH.
1.4. Những quy định mới liên quan đến thủ tục tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH.
1.5. Quyền, lợi ích gia tăng của các chế độ, chính sách mới của Luật BHXH năm 2024 thông qua các nhân vật thực tế tại địa phương là những người được thụ hưởng. Niềm vui, cảm xúc của: Người tham gia BHXH tự nguyện khi được nhận chế độ thai sản; người được hưởng lương hưu khi tham gia BHXH từ đủ 15 năm trở lên; người được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, trợ cấp hằng tháng đối với người lao động không đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội… Đánh giá của người hưởng về việc cơ quan BHXH đã kịp thời giải quyết, chi trả các chế độ BHXH.
2. Hình thức truyền thông
Bám sát tinh thần Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 21/3/2023 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác truyền thông chính sách, căn cứ hướng dẫn tại Kế hoạch công tác thông tin, truyền thông hằng năm của BHXH Việt Nam, Kế hoạch, kịch bản công tác thông tin, truyền thông hằng năm của đơn vị, các đơn vị chủ động triển khai các hoạt động truyền thông chính sách BHXH đa dạng, linh hoạt, phù hợp với từng nhóm chủ thể được truyền thông; đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, chống lãng phí theo tinh thần Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 25/12/2023 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (Chỉ thị số 27-CT/TW), chỉ đạo về “Chống lãng phí”2 của Tổng Bí thư Tô Lâm, Chỉ thị số 150-CT/BCSĐ ngày 12/11/2024 của Ban Cán sự Đảng BHXH Việt Nam về tăng cường thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ngành BHXH Việt Nam (Chỉ thị số 150-CT/BCSĐ). Trong đó, chú trọng một số hình thức sau:
2.1. Truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng
- Phối hợp triển khai các tuyến tin, bài, tọa đàm, tiểu phẩm, Infographic,… truyền thông về các nội dung tại mục 1 Công văn này đăng tải trên các phương tiện truyền thông của các cơ quan thông tấn, báo chí Trung ương và địa phương; ưu tiên các sản phẩm phù hợp để truyền thông trên mạng xã hội và qua các ứng dụng di động.
- Cung cấp, định hướng thông tin truyền thông Luật BHXH năm 2024 cho đội ngũ báo cáo viên các cấp và các cơ quan báo chí thông qua hội nghị báo cáo viên hằng tháng, qua hệ thống tin, bài viết trên các ấn phẩm của Ban Tuyên giáo.
- Tăng cường các bản tin, chuyên đề, tiểu phẩm phát thanh về Luật BHXH năm 2024 trên hệ thống loa truyền thanh cơ sở và các chương trình truyền thông lưu động.
2.2. Truyền thông trên các phương tiện truyền thông của Ngành, môi trường Internet và mạng xã hội
- Tăng cường số lượng, tần suất đăng tải, chia sẻ các văn bản, tin, bài chuyên sâu, bài phỏng vấn, chương trình tọa đàm, clip, Infographic,… trên: Cổng Thông tin điện tử (TTĐT) BHXH Việt Nam và Cổng TTĐT BHXH các tỉnh; Cổng TTĐT của các sở, ngành, tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương; các kênh truyền thông mạng xã hội của BHXH Việt Nam và BHXH các tỉnh.
- Tổ chức các hội nghị trực tuyến (livestream), hội thi tìm hiểu chính sách, pháp luật BHXH trên môi trường Internet.
- Duy trì cung cấp thông tin tại mục 1 Công văn này trong mục Tin tức trên ứng dụng VssID - BHXH số.
- Lồng ghép truyền thông qua hệ thống Tổng đài hỗ trợ và các hoạt động chăm sóc khách hàng của Ngành.
2.3. Truyền thông trực tiếp qua các hội nghị truyền thông, tư vấn, đối thoại, gian hàng
- Tổ chức các hội nghị truyền thông, hội nghị tư vấn, đối thoại chính sách,….
- Phối hợp với các sở, ngành, tổ chức chính trị - xã hội tích cực triển khai các hoạt động truyền thông hiệu quả, phù hợp; nhất là đối với các đơn vị có liên quan trực tiếp như: Sở Lao động - Thương binh & Xã hội, Liên đoàn Lao động, Ban Quản lý Khu công nghiệp - Khu chế xuất,…
- Truyền thông trực tiếp tại: Bộ phận “Một cửa” của cơ quan BHXH tỉnh/huyện; Trung tâm Hành chính công của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố; các Trung tâm Dịch vụ việc làm của tỉnh.
- Truyền thông lồng ghép tại các buổi sinh hoạt của hội, đoàn thể; các cuộc họp Chi bộ, họp Tổ dân phố, buổi họp giao ban; các hoạt động văn hóa theo tập tục, tập quán từng địa phương.
- Tổ chức các gian hàng tư vấn, gian hàng an sinh.
2.4. Truyền thông qua các sản phẩm truyền thông
- Biên tập, cập nhật, thiết kế và sản xuất các sản phẩm truyền thông như: Tờ rơi, tờ gấp, Infographic, motion graphics, tiểu phẩm phát thanh/truyền hình,… về các nội dung nêu tại mục 1 Công văn này (đảm bảo có đầy đủ cả sản phẩm truyền thông BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện); Ưu tiên sử dụng các sản phẩm truyền thông online, truyền thông qua QR code, trên các ứng dụng di động, nền tảng mạng xã hội.
- Xây dựng tài liệu truyền thông, niêm yết tại bảng tin công cộng, màn hình tại khu dân cư, lồng ghép trong các loại hình thông tin, truyền thông văn hóa cơ sở khác (nếu phù hợp).
3. Tổ chức thực hiện
3.1. Trung tâm Truyền thông
- Là đầu mối cung cấp thông tin, hướng dẫn, đôn đốc BHXH các tỉnh triển khai thực hiện.
- Thực hiện tuyến tin, bài,… truyền thông về các nội dung tại mục 1 Công văn này trên các: phương tiện truyền thông của Ngành; kênh truyền thông của các cơ quan thông tấn, báo chí Trung ương; trên môi trường Internet, mạng xã hội; trong đó, chú trọng các sản phẩm truyền thông hiện đại, có thể dễ dàng tiếp cận trên ứng dụng điện thoại di động (Infographic, motion graphics,…). Phối hợp với các bộ, ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội đẩy mạnh truyền thông về những điểm mới của Luật BHXH năm 2024 theo từng nhóm chủ thể tại các hội nghị, hội thảo, hội thi (nếu cần thiết).
- Tiếp tục chủ động nắm bắt các thông tin được báo chí và dư luận xã hội quan tâm trong quá trình tổ chức thực hiện Luật BHXH năm 2024 để kịp thời báo cáo, phối hợp với các đơn vị có liên quan kịp thời đề xuất với Lãnh đạo Ngành các giải pháp thông tin, truyền thông phù hợp, hiệu quả.
- Biên tập, cập nhật các sản phẩm truyền thông đã sản xuất hoặc sản xuất mới các sản phẩm truyền thông về BHXH (clip ngắn, Infographic, tờ rơi, tờ gấp, tiểu phẩm truyền thanh/truyền hình, file phát thanh…) cung cấp cho BHXH các tỉnh tổ chức truyền thông và cung cấp các sản phẩm truyền thông phù hợp cho Trung tâm Công nghệ thông tin để đăng tải trên ứng dụng VssID - BHXH số.
3.2. Tạp chí BHXH
- Chủ động thực hiện, đăng tải tuyến tin, bài chuyên sâu và các sản phẩm báo chí hiện đại theo các nội dung truyền thông tại mục 1 Công văn này.
- Chủ động, kịp thời cung cấp các sản phẩm truyền thông phù hợp cho Trung tâm Công nghệ thông tin để đăng tải trên ứng dụng VssID - BHXH số.
3.3. Trung tâm Dịch vụ hỗ trợ, chăm sóc khách hàng
- Tổ chức truyền thông lồng ghép trong các chương trình chăm sóc khách hàng của đơn vị (hội nghị đối thoại, tư vấn,…); qua hệ thống Tổng đài chăm sóc khách hàng của Ngành.
- Tăng cường công tác tư vấn, giải đáp những nội dung liên quan đến Luật BHXH năm 2024 trên Cổng TTĐT BHXH Việt Nam và Fanpage BHXH Việt Nam.
3.4. Trung tâm Công nghệ thông tin
Duy trì liên kết thông tin từ Cổng TTĐT BHXH Việt Nam với mục Tin tức trên ứng dụng VssID - BHXH số; kịp thời cập nhật trên ứng dụng VssID - BHXH số các sản phẩm truyền thông phù hợp do Trung tâm Truyền thông, Tạp chí BHXH sản xuất và gửi Trung tâm Công nghệ thông tin để truyền thông đến người dùng ứng dụng.
3.5. Các đơn vị trực thuộc BHXH Việt Nam
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, các đơn vị phối hợp với Trung tâm Truyền thông:
- Chủ động, kịp thời cung cấp các thông tin cần truyền thông về Luật BHXH năm 2024.
- Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, chủ động nắm bắt, dự báo luồng thông tin liên quan và đề xuất các nội dung cần truyền thông liên quan đến Luật BHXH năm 2024 phát sinh mới theo thực tiễn.
3.6. BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
- Chủ động báo cáo Cấp ủy đảng, chính quyền, Ban Chỉ đạo thực hiện chính sách BHXH, BHYT; phối hợp với Sở Lao động - Thương binh & Xã hội, các sở, ban, ngành, các cơ quan thông tấn, báo chí tại địa phương và các đơn vị có liên quan tăng cường các hoạt động truyền thông Luật BHXH năm 2024 đảm bảo kịp thời, đa dạng, linh hoạt; chủ động xây dựng kịch bản truyền thông phù hợp với tình hình, diễn biến thực tế của địa phương đảm bảo linh hoạt, sáng tạo, phù hợp; ưu tiên sử dụng các hình thức truyền thông số, truyền thông đa phương tiện, trên môi trường Internet, mạng xã hội nhằm thực hiện hiệu quả việc tiết kiệm, chống lãng phí.
- Tiếp tục nâng cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác truyền thông Luật BHXH năm 2024 theo hướng dẫn tại Công văn này đảm bảo thường xuyên, phù hợp, tiết kiệm và hiệu quả.
- Chú trọng đẩy mạnh sản xuất, đăng tải các tin, bài theo các nội dung truyền thông tại mục 1 Công văn này trên: Cổng TTĐT, các trang mạng xã hội,… của BHXH tỉnh, Ủy ban nhân dân và các sở, ngành liên quan; hệ thống loa truyền thanh cơ sở. Đồng thời, phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh/Thành ủy cung cấp, định hướng thông tin truyền thông Luật BHXH năm 2024 cho đội ngũ báo cáo viên các cấp và các cơ quan báo chí trên địa bàn.
- Rà soát, cập nhật các sản phẩm truyền thông đã sản xuất hoặc sản xuất mới các sản phẩm truyền thông về BHXH (clip ngắn, Infographic, tờ rơi, tờ gấp, tiểu phẩm truyền thanh/truyền hình, file phát thanh…); ưu tiên sử dụng các sản phẩm truyền thông online, truyền thông qua QR code, trên các ứng dụng di động,… đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, không lãng phí.
- Chủ động, thường xuyên kiểm soát, nắm bắt thông tin về tình hình triển khai thực hiện Luật BHXH năm 2024 trên địa bàn để kịp thời lựa chọn nội dung, hình thức, giải pháp truyền thông phù hợp.
- Kịp thời nắm bắt các thông tin, kiến nghị, đề xuất của chủ sử dụng lao động, người lao động, người dân về chính sách, pháp luật BHXH; từ đó chủ động định hướng công tác truyền thông theo đúng chức trách, nhiệm vụ và phạm vi quản lý, có giải pháp hỗ trợ truyền thông, tư vấn kịp thời và báo cáo về BHXH Việt Nam.
- Chỉ đạo, hướng dẫn BHXH cấp quận, huyện triển khai truyền thông phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương.
Trên đây là hướng dẫn về việc tăng cường truyền thông chuyên đề về Luật BHXH năm 2024. BHXH Việt Nam yêu cầu các đơn vị nghiêm túc triển khai thực hiện. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc liên hệ về BHXH Việt Nam (qua Trung tâm Truyền thông) để được hướng dẫn chi tiết./.
Nơi nhận: | KT. TỔNG GIÁM ĐỐC |
_______________________________
1 Lưu ý:
- Nội dung truyền thông chi tiết tại điểm 1.1 và 1.2: Tại Phụ lục đính kèm Công văn này.
- Nội dung truyền thông tại điểm 1.3 và 1.4: Sẽ được ban hành vào thời điểm thích hợp (sau khi có Nghị định và các văn bản hướng dẫn cụ thể).
- Nội dung truyền thông tại điểm 1.5: Các đơn vị chủ động truyền thông sau khi Luật BHXH năm 2024 có hiệu lực.
2 Báo Nhân dân đăng ngày 13/10/2024: https://special.nhandan.vn/chong-lang-phi/index.html
BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM ______________ |
|
Phụ lục
MỘT SỐ NỘI DUNG TRUYỀN THÔNG VỀ LUẬT BHXH NĂM 2024
(Ban hành kèm theo Công văn số 4736/BHXH-TT
ngày 17 tháng 12 năm 2024 của BHXH Việt Nam)
Chuyên đề 1
NHỮNG NỘI DUNG CHUNG
I. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật BHXH năm 2024
1. Mục tiêu
- Bảo đảm an sinh xã hội của người dân theo quy định của Hiến pháp và thể chế hóa các nội dung trong Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về cải cách chính sách BHXH (Nghị quyết số 28-NQ/TW) theo hướng đa dạng, linh hoạt, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế, tiến tới bao phủ BHXH toàn bộ lực lượng lao động.
- Sửa đổi căn bản các vướng mắc, bất cập từ thực tiễn thi hành Luật BHXH năm 2014 và Nghị quyết số 93/2015/QH13 ngày 22/6/2015 của Quốc hội về việc thực hiện chính sách hưởng BHXH một lần đối với người lao động (NLĐ); bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất, có tính khả thi, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và bảo đảm yếu tố bình đẳng giới
- Mở rộng, gia tăng quyền, lợi ích, tạo sự hấp dẫn để thu hút NLĐ tham gia BHXH; đồng thời bảo đảm tốt nhất quyền lợi cho NLĐ đang làm việc và người hưởng lương hưu. Hoàn thiện quy định quản lý nhà nước và hệ thống tổ chức thực hiện chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu quả, công khai, minh bạch.
2. Quan điểm chỉ đạo
Luật BHXH năm 2024 được xây dựng trên các quan điểm chỉ đạo sau đây:
- Bảo đảm quyền an sinh xã hội theo quy định của Hiến pháp; thể chế hóa quan điểm, đường lối, nội dung cải cách trong Nghị quyết số 28-NQ/TW và các văn kiện, nghị quyết có liên quan.
- Kế thừa, phát triển những quy định hiện hành phù hợp đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn, sửa đổi các quy định chưa phù hợp, bảo đảm tính khả thi, dài hạn, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; bổ sung những quy định mới phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế.
- Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia BHXH; tạo điều kiện thuận lợi để mọi NLĐ được tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH.
- Xây dựng các chế độ BHXH theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ, bền vững.
- Tham khảo và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia có điểm tương đồng với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tuân thủ các tiêu chuẩn, điều kiện và cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia.
II. Các điểm mới của Luật BHXH năm 2024 so với Luật hiện hành
Luật BHXH năm 2024 gồm 11 chương, 141 điều; tăng 2 chương và 16 điều so với Luật hiện hành, bao gồm nhiều điểm mới, trong đó có một số điểm mới trọng tâm như sau:
1. Bổ sung trợ cấp hưu trí xã hội để hình thành hệ thống BHXH đa tầng1
Trợ cấp hưu trí xã hội theo quy định của Luật BHXH năm 2024 là loại hình BHXH do ngân sách nhà nước (NSNN) bảo đảm, được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển một phần từ quy định về trợ cấp xã hội hằng tháng đối với người cao tuổi, trong đó quy định:
(i) Độ tuổi được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội thấp hơn 5 tuổi so với tuổi hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng đối với người cao tuổi hiện hành, cụ thể:
- Công dân Việt Nam từ đủ 75 tuổi mà không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp BHXH hằng tháng thì được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
- Công dân Việt Nam từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và đáp ứng đủ điều kiện thì được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
(ii) Mức trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng do Chính phủ quy định phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và khả năng của NSNN từng thời kỳ.
Định kỳ 03 năm, Chính phủ thực hiện rà soát, xem xét việc điều chỉnh mức trợ cấp hưu trí xã hội.
Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng cân đối ngân sách, huy động các nguồn lực xã hội, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định hỗ trợ thêm cho người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
(iii) Người vừa đủ điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội vừa thuộc đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng thì được hưởng chế độ trợ cấp cao hơn.
(iv) Được NSNN đóng BHYT khi đang hưởng trợ cấp hưu trí xã hội; khi chết thì tổ chức, cá nhân lo mai táng được nhận hỗ trợ chi phí mai táng theo quy định của pháp luật về người cao tuổi.
(v) Xem xét điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội trên cơ sở đề nghị của Chính phủ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và khả năng của NSNN từng thời kỳ.
2. Bổ sung quy định nhằm gia tăng sự liên kết giữa tầng trợ cấp hưu trí xã hội và BHXH cơ bản
Bổ sung chế độ trợ cấp hằng tháng đối với NLĐ không đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, cụ thể:
(i) Công dân Việt Nam đủ tuổi nghỉ hưu nhưng không đủ thời gian đóng để hưởng lương hưu và chưa đủ điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội nếu không hưởng BHXH một lần và không bảo lưu mà có yêu cầu thì được hưởng trợ cấp hằng tháng từ chính khoản đóng của mình. Thời gian hưởng, mức hưởng trợ cấp hằng tháng được xác định căn cứ vào thời gian đóng, căn cứ đóng BHXH của NLĐ. Mức trợ cấp hằng tháng thấp nhất bằng mức trợ cấp hưu trí xã hội.
Trường hợp tổng số tiền tính theo thời gian đóng, căn cứ đóng BHXH của NLĐ cao hơn số tiền tính mức trợ cấp hằng tháng bằng mức trợ cấp hưu trí xã hội tại thời điểm giải quyết hưởng cho khoảng thời gian từ khi đủ tuổi nghỉ hưu đến khi đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội thì NLĐ được tính để hưởng trợ cấp hằng tháng với mức cao hơn.
Trường hợp tổng số tiền tính theo thời gian đóng, căn cứ đóng BHXH không đủ để NLĐ hưởng trợ cấp hằng tháng cho đến khi đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, nếu NLĐ có nguyện vọng thì được đóng một lần cho phần còn thiếu để hưởng cho đến khi đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
(ii) Mức trợ cấp hằng tháng được điều chỉnh khi Chính phủ thực hiện điều chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng.
(iii) Trong thời gian hưởng trợ cấp hằng tháng thì được NSNN đóng BHYT; khi chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp một lần cho những tháng chưa nhận và được hưởng trợ cấp mai táng nếu đủ điều kiện theo quy định.
3. Mở rộng đối tượng được tham gia và thụ hưởng đầy đủ các chế độ BHXH bằng việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với chủ hộ kinh doanh của hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh; Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; NLĐ làm việc không trọn thời gian; Người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên, người đại diện phần vốn nhà nước, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; thành viên Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, Giám đốc, thành viên Ban Kiểm soát hoặc kiểm soát viên và các chức danh quản lý khác được bầu của Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã theo quy định của Luật Hợp tác xã không hưởng tiền lương.
Luật BHXH năm 2024 giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tham gia BHXH bắt buộc đối với đối tượng khác mà có việc làm, thu nhập ổn định, thường xuyên trên cơ sở đề xuất của Chính phủ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ. Quy định này tạo điều kiện cho việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với các nhóm đối tượng khác phù hợp với sự thay đổi của quan hệ lao động2, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của NLĐ trong tương lai.
4. Bổ sung quyền thụ hưởng chế độ ốm đau, thai sản đối với NLĐ không chuyên trách ở cấp xã thay vì chỉ hưởng hai chế độ là hưu trí và tử tuất như Luật hiện hành.
5. Bổ sung chế độ thai sản vào chính sách BHXH tự nguyện
Người tham gia BHXH tự nguyện đáp ứng đủ điều kiện theo quy định được hưởng trợ cấp thai sản với mức là 02 triệu đồng cho mỗi con mới sinh do NSNN bảo đảm, NLĐ không phải đóng thêm so với quy định hiện hành.
Lao động nữ là người dân tộc thiểu số hoặc lao động nữ là người dân tộc Kinh có chồng là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, khi sinh con, ngoài chế độ thai sản theo quy định của Luật BHXH năm 2024 vẫn được hưởng chính sách hỗ trợ khác theo quy định của Chính phủ.
6. Gia tăng cơ hội được hưởng lương hưu của người tham gia BHXH thông qua việc giảm điều kiện về số năm đóng BHXH tối thiểu để được hưởng lương hưu từ 20 năm xuống 15 năm. Quy định này nhằm tạo cơ hội cho các đối tượng bắt đầu tham gia BHXH muộn (những người 45-47 tuổi mới bắt đầu tham gia) hoặc tham gia không liên tục hoặc làm công việc đặc thù có thời gian làm nghề ngắn dẫn đến khi đến tuổi nghỉ hưu vẫn không tích lũy đủ 20 năm đóng BHXH cũng có cơ hội được hưởng lương hưu hằng tháng và được bảo đảm BHYT. Quy định này cũng góp phần giảm số người hưởng BHXH một lần do đủ điều kiện hưởng lương hưu. Đối với NLĐ có thời gian đóng BHXH dài hơn thì vẫn được hưởng lương hưu với tỷ lệ hưởng lương hưu cao hơn, không thay đổi so với quy định hiện hành.
7. Bổ sung quy định nhằm gia tăng quyền lợi, tăng tính hấp dẫn, khuyến khích NLĐ bảo lưu thời gian đóng để hưởng lương hưu thay vì nhận BHXH một lần
Luật BHXH năm 2024 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung theo hướng gia tăng quyền lợi, tăng tính hấp dẫn, khuyến khích NLĐ bảo lưu thời gian đóng để hưởng lương hưu thay vì nhận BHXH một lần. NLĐ đã chấm dứt tham gia BHXH mà có đề nghị thì được hưởng BHXH một lần nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
(i) Đủ tuổi hưởng lương hưu mà chưa đủ 15 năm đóng BHXH.
(ii) Ra nước ngoài để định cư.
(iii) Người đang mắc một trong những bệnh ung thư, bại liệt, xơ gan mất bù, lao nặng, AIDS.
(iv) Người có mức suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; người khuyết tật đặc biệt nặng.
(v) NLĐ có thời gian đóng BHXH trước ngày 01/7/2025, sau 12 tháng không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc mà cũng không tham gia BHXH tự nguyện và có thời gian đóng BHXH chưa đủ 20 năm.
(vi) Đối tượng thuộc lực lượng vũ trang khi phục viên, xuất ngũ, thôi việc không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc mà cũng không tham gia BHXH tự nguyện và không đủ điều kiện để hưởng lương hưu.
*** NLĐ không hưởng BHXH một lần mà bảo lưu thời gian đóng để tiếp tục tham gia thì có cơ hội được thụ hưởng các quyền lợi cao hơn như: (i) Khi tiếp tục tham gia được hưởng các chế độ với mức hưởng cao hơn do các chế độ đều tính theo thời gian đóng (ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,...); (ii) Được hưởng lương hưu với điều kiện dễ dàng hơn; (iii) Trong thời gian hưởng lương hưu được quỹ BHXH đóng BHYT; (iv) Được hưởng trợ cấp hàng tháng khi không đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội; (v) Trong thời gian hưởng trợ cấp hằng tháng thì được NSNN đóng BHYT; (vi) Ngoài ra, NLĐ còn có cơ hội được hưởng chính sách hỗ trợ về tín dụng cho NLĐ có thời gian đóng BHXH mà bị mất việc làm.
8. Đảm bảo tốt hơn quyền tham gia và thụ hưởng BHXH đối với NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và NLĐ nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam thông qua việc quy định linh hoạt hơn về đóng - hưởng, bổ sung quy định trường hợp Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về thời gian tham gia BHXH của NLĐ ở Việt Nam và ở nước ngoài được tính để xét điều kiện hưởng chế độ BHXH, NLĐ khi đủ điều kiện có cơ hội được hưởng đồng thời chế độ hưu trí ở cả Việt Nam và nước mà Việt Nam có ký Điều ước quốc tế về BHXH.
9. Nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ BHXH, tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ BHXH thông qua việc mở rộng danh mục và phương thức đầu tư quỹ BHXH như: (i) Đầu tư quỹ BHXH tại thị trường quốc tế là trái phiếu Chính phủ; (ii) Ủy thác đầu tư tại thị trường trong nước, thị trường quốc tế; (iii) Bổ sung quy định quản lý hoạt động đầu tư quỹ BHXH; (iv) Bổ sung quy định việc duyệt, thẩm định, phê chuẩn quyết toán chi tổ chức và hoạt động BHXH; (v) Kiện toàn và nâng cao trách nhiệm của Hội đồng quản lý BHXH; (vi) Quy định rõ hơn các cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về tài chính BHXH, tài chính quỹ BHXH.
10. Bổ sung một chương quy định về bảo hiểm hưu trí bổ sung, trong đó quy định về đối tượng, nguyên tắc, quỹ bảo hiểm hưu trí bổ sung và chính sách của nhà nước đối với bảo hiểm hưu trí bổ sung, tạo điều kiện cho người sử dụng lao động và NLĐ có thêm sự lựa chọn tham gia đóng góp để được hưởng mức lương hưu cao hơn.
11. Quy định cụ thể về “mức tham chiếu” thay cho “mức lương cơ sở”
Luật BHXH năm 2024 đã quy định “mức tham chiếu” dùng để tính mức đóng, mức hưởng một số chế độ BHXH và do Chính phủ quyết định. Khi chưa bãi bỏ mức lương cơ sở thì mức tham chiếu quy định tại Luật BHXH năm 2024 bằng mức lương cơ sở. Tại thời điểm mức lương cơ sở bị bãi bỏ thì mức tham chiếu không thấp hơn mức lương cơ sở tại thời điểm đó. Mức tham chiếu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế, phù hợp với khả năng của NSNN và quỹ BHXH.
Bên cạnh đó, Luật BHXH năm 2024 cũng quy định giao Chính phủ trình Quốc hội xem xét điều chỉnh một số quy định liên quan đến căn cứ đóng BHXH bắt buộc, cách tính mức bình quân tiền lương làm căn cứ tính lương hưu, trợ cấp BHXH và điều chỉnh tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc khi Nhà nước áp dụng chế độ tiền lương mới theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo thay thế cho hệ thống bảng lương hiện hành.
12. Tăng cường tính tuân thủ pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ bằng việc dành riêng 01 chương để quy định quản lý thu, đóng BHXH; làm rõ nội hàm và việc xử lý hành vi chậm đóng và hành vi trốn đóng BHXH. Bổ sung quy định trách nhiệm của cơ quan BHXH và các cơ quan có liên quan trong việc xác định và theo dõi đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, đôn đốc thực hiện trách nhiệm đóng BHXH bắt buộc. Quy định trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính sách BHXH, phát triển đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và chậm đóng BHXH bắt buộc, trốn đóng BHXH bắt buộc trong phạm vi địa phương.
13. Tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người tham gia và thụ hưởng quyền lợi BHXH thông qua việc bổ sung quy định giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH; điều chỉnh, cắt giảm, đơn giản hóa hồ sơ, thủ tục thực hiện BHXH; bổ sung quy định về đánh giá sự hài lòng của người dân đối với việc tổ chức thực hiện chính sách, chế độ BHXH.
14. Sửa đổi, bổ sung quy định của các chế độ BHXH phù hợp hơn với thực tiễn, đảm bảo tốt hơn quyền lợi của NLĐ: Luật BHXH năm 2024 đã kế thừa, phát triển những quy định hiện hành phù hợp đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn, sửa đổi các quy định chưa phù hợp, bảo đảm tính khả thi, dài hạn, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật. Có thể kể ra một số quy định như:
(i) Bổ sung quy định về hưởng chế độ ốm đau đối với trường hợp nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau không trọn ngày.
(ii) NLĐ được quỹ BHXH đóng BHYT trong thời gian nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng.
(iii) Sửa đổi quy định thời gian hưởng chế độ ốm đau đối với NLĐ nghỉ việc do mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày thống nhất tính theo năm.
(iv) Bổ sung điều kiện hưởng chế độ thai sản khi sinh con đối với trường hợp phải nghỉ việc để điều trị vô sinh.
(v) Quy định trường hợp lao động nữ mang thai từ đủ 22 tuần tuổi trở lên đủ điều kiện quy định mà bị sảy thai, phá thai, thai chết trong tử cung, thai chết trong khi chuyển dạ thì lao động nữ và người chồng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản như trường hợp lao động nữ sinh con.
(vi) Sửa đổi quy định thời gian hưởng chế độ thai sản đối với trường hợp sau khi sinh con chết.
(vii) NLĐ được quỹ BHXH đóng BHYT trong thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng.
(viii) Quy định thống nhất với Bộ luật Lao động năm 2019 về tuổi nghỉ hưu, điều kiện về tuổi hưởng lương hưu.
(ix) Sửa đổi, bổ sung quy định về trợ cấp một lần khi nghỉ hưu để khuyến khích NLĐ tiếp tục làm việc, đóng BHXH sau tuổi nghỉ hưu.
(x) Sửa đổi quy định về điều kiện về tuổi của thân nhân hưởng trợ cấp tuất hằng tháng thống nhất, phù hợp với tuổi nghỉ hưu của Bộ luật Lao động năm 2019.
(xi) Sửa đổi quy định về quyền lựa chọn hưởng trợ cấp tuất hằng tháng hoặc một lần theo hướng tôn trọng quyền lựa chọn của thân nhân NLĐ, không phân biệt trường hợp nào; khi các thân nhân đủ điều kiện hưởng trợ cấp tuất hằng tháng thì có quyền lựa chọn hưởng trợ cấp tuất hằng tháng hoặc lựa chọn hưởng trợ cấp tuất một lần theo hướng có lợi hơn.
Chuyên đề 2
NHỮNG QUY ĐỊNH MỚI CỦA LUẬT BHXH NĂM 2024
LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI LAO ĐỘNG
Luật BHXH năm 2024 có nhiều thay đổi, bên cạnh hướng tới các mục tiêu lớn như: mở rộng đối tượng tham gia; sửa đổi căn bản các vướng mắc, bất cập từ thực tiễn triển khai thực hiện Luật BHXH năm 2014; tăng cường chế tài xử lý hành vi chậm đóng, trốn đóng BHXH,.... còn đảm bảo quyền, lợi ích trong thụ hưởng chính sách BHXH để thu hút NLĐ tham gia BHXH, hướng tới mục tiêu BHXH toàn dân, bảo đảm an sinh xã hội lâu dài theo quy định của Hiến pháp và thể chế hóa các nội dung cải cách trong Nghị quyết số 28-NQ/TW.
I. Về quyền, trách nhiệm của người tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH
Luật BHXH năm 2024 đã bổ sung các quy định để làm rõ quyền và trách nhiệm của người tham gia và người thụ hưởng chính sách BHXH (Điều 10, 11).
- Về quyền của người tham gia và thụ hưởng được quy định cụ thể như: (1) Được cơ quan BHXH định kỳ hằng tháng cung cấp thông tin về việc đóng, hưởng BHXH thông qua phương tiện điện tử; được cơ quan BHXH xác nhận thông tin về đóng, hưởng BHXH khi có yêu cầu; (2) Được hưởng BHYT trong thời gian nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng; (3) Người hưởng được ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện BHXH; (4) Đối với người từ đủ 80 tuổi trở lên nếu có nhu cầu thì được cơ quan BHXH hoặc Tổ chức dịch vụ được cơ quan BHXH ủy quyền thực hiện việc chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH tại nơi cư trú trên lãnh thổ Việt Nam; (5) Người hưởng có quyền từ chối hưởng chế độ BHXH; (6) Trường hợp ủy quyền nhận lương hưu, trợ cấp BHXH và chế độ khác theo quy định của Luật này thì văn bản ủy quyền có hiệu lực tối đa là 12 tháng kể từ ngày xác lập việc ủy quyền.
- Về trách nhiệm của người tham gia và người thụ hưởng đã bổ sung như: (1) Hoàn trả tiền hưởng chế độ BHXH khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền xác định việc hưởng không đúng quy định; (2) Định kỳ hằng năm, người thụ hưởng chế độ BHXH qua tài khoản cá nhân mở tại ngân hàng có trách nhiệm phối hợp với cơ quan BHXH hoặc Tổ chức dịch vụ được cơ quan BHXH ủy quyền để thực hiện việc xác minh thông tin đủ điều kiện thụ hưởng chế độ BHXH.
II. Các chế độ BHXH
1. Về chế độ ốm đau
a) Bổ sung quy định chế độ ốm đau nửa ngày để đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho NLĐ (Khoản 5 Điều 45) với nội dung: Mức hưởng trợ cấp ốm đau nửa ngày được tính bằng một nửa mức hưởng trợ cấp ốm đau một ngày. Khi tính mức hưởng trợ cấp ốm đau đối với NLĐ nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau không trọn ngày thì trường hợp nghỉ việc dưới nửa ngày được tính là nửa ngày; từ nửa ngày đến dưới một ngày được tính là một ngày.
b) Luật hóa bổ sung quy định các trường hợp NLĐ nghỉ việc được hưởng chế độ ốm đau (Điểm a, c, đ Khoản 1 và Điểm b Khoản 2 Điều 42):
(i) Điều trị khi mắc bệnh mà không phải bệnh nghề nghiệp.
(ii) Điều trị khi bị tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở theo tuyến đường và thời gian hợp lý theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động.
(iii) Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người theo quy định của pháp luật.
(iv) Trường hợp sử dụng thuốc tiền chất hoặc thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất theo chỉ định của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh thuộc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
c) Sửa đổi quy định về chế độ ốm đau dài ngày, theo đó NLĐ có thể hưởng chế độ ốm đau trong một năm tối đa từ 30 đến 70 ngày tùy theo điều kiện làm việc với mức hưởng bằng 75% tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, sau đó khi hưởng hết thời hạn hưởng mà vẫn tiếp tục điều trị thì NLĐ nghỉ việc do mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức hưởng thấp hơn như sau:
+ Bằng 65% tiền lương làm căn cứ đóng BHXH nếu đã đóng BHXH bắt buộc từ đủ 30 năm trở lên.
+ Bằng 55% tiền lương làm căn cứ đóng BHXH nếu đã đóng BHXH bắt buộc từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm.
+ Bằng 50% tiền lương làm căn cứ đóng BHXH nếu đã đóng BHXH bắt buộc dưới 15 năm.
d) NLĐ được quỹ BHXH đóng BHYT trong thời gian nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng.
2. Về chế độ thai sản
2.1. Chế độ thai sản đối với BHXH bắt buộc
a) Bổ sung quy định trường hợp lao động nữ mang thai hoặc lao động nữ mang thai hộ có đủ điều kiện về thời gian đóng để hưởng chế độ thai sản khi sinh con; nếu trong trường hợp thai từ đủ 22 tuần tuổi trở lên mà bị sảy thai, phá thai, thai chết trong tử cung, thai chết trong khi chuyển dạ thì lao động nữ và người chồng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản như trường hợp lao động nữ sinh con.
Theo đó, đối với lao động nữ mang thai hoặc lao động nữ mang thai hộ mà thai từ đủ 22 tuần tuổi bị chết, sẽ có 02 trường hợp xảy ra:
(1) Đối với trường hợp đủ điều kiện thời gian đóng như đối với trường hợp sinh con thì được hưởng chế độ như trường hợp thai sản sinh con.
(2) Đối với trường hợp chưa đủ điều kiện về thời gian đóng thì được nghỉ 50 ngày nếu thai từ 22 tuần tuổi trở lên (quy định này đã mở rộng hơn so với Luật hiện hành là “50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên”).
b) Bổ sung quy định điều kiện hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ sinh con, mà trước khi sinh con phải nghỉ việc để điều trị vô sinh. Theo đó, lao động nữ chỉ cần đóng BHXH bắt buộc từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng liền kề trước khi sinh con.
c) Quy định trường hợp lao động nữ mang thai từ đủ 22 tuần tuổi trở lên đủ điều kiện quy định mà bị sảy thai, phá thai, thai chết trong tử cung, thai chết trong khi chuyển dạ thì lao động nữ và người chồng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản như trường hợp lao động nữ sinh con.
d) Sửa đổi quy định thời gian hưởng chế độ thai sản đối với trường hợp sau khi sinh con chết.
đ) Bổ sung quy định về thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đối với lao động nam có vợ sinh con như sau:
- Trường hợp sinh ba trở lên phải phẫu thuật thì được nghỉ thêm 03 ngày làm việc cho mỗi con tính từ con thứ ba trở đi.
- Ngày bắt đầu nghỉ việc hưởng chế độ thai sản phải trong khoảng thời gian 60 ngày kể từ ngày vợ sinh con; trường hợp NLĐ nghỉ nhiều lần thì ngày bắt đầu nghỉ việc của lần cuối cùng phải trong khoảng thời gian 60 ngày đầu kể từ ngày vợ sinh con và tổng thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản không quá thời gian quy định.
e) Sửa đổi quy định về thời gian hưởng chế độ thai sản được tính là thời gian đóng BHXH như sau:
Đối với trường hợp lao động nữ sinh con, NLĐ nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi, lao động nữ mang thai hộ khi sinh con, lao động nữ nhờ mang thai hộ thì thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được tính là thời gian đóng BHXH bắt buộc, NLĐ và người sử dụng lao động không phải đóng BHXH.
Đối với các trường hợp khác mà có thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì thời gian này được tính là thời gian đóng BHXH bắt buộc, NLĐ và người sử dụng lao động không phải đóng BHXH.
g) Luật hóa quy định đối với lao động nữ mang thai hộ và lao động nữ nhờ mang thai hộ
h) Trợ cấp một lần khi sinh con, nhận con khi nhờ mang thai hộ hoặc nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi
- Luật hóa quy định: “Lao động nữ sinh con nhưng không đủ điều kiện quy định mà người chồng có đủ điều kiện quy định thì người chồng được trợ cấp một lần”.
- Bổ sung quy định “Trường hợp người mang thai hộ, người mẹ nhờ mang thai hộ và người chồng của người mẹ nhờ mang thai hộ không tham gia BHXH bắt buộc hoặc không đủ điều kiện thì người chồng của người mang thai hộ đã đóng BHXH bắt buộc từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng tính đến thời điểm người mang thai hộ sinh con được trợ cấp một lần”.
- Sửa đổi quy định về mức trợ cấp thai sản một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức tham chiếu tại tháng lao động nữ sinh con, nhận con do nhờ mang thai hộ, nhận nuôi con nuôi.
k) NLĐ được quỹ BHXH đóng BHYT trong thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng.
2.2. Bổ sung chế độ thai sản vào chính sách BHXH tự nguyện
Nghị quyết số 28-NQ/TW có nội dung: BHXH tự nguyện với các chế độ hưu trí, tử tuất hiện nay, từng bước mở rộng sang các chế độ khác. Khảo sát, tổng kết thi hành Luật BHXH năm 2014 cho thấy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến số người tham gia BHXH tự nguyện còn thấp trong đó có nguyên nhân do chế độ được hưởng còn thiếu hấp dẫn vì NLĐ chưa được hưởng các chế độ ngắn hạn. Trong khi thực tế thời gian qua, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ cho phụ nữ là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, cư trú tại các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn khi sinh con đúng chính sách dân số.
Do đó, Luật BHXH năm 2024 quy định NLĐ tham gia BHXH tự nguyện (bao gồm cả lao động nữ và lao động nam) khi sinh con hoặc có vợ sinh con nếu đáp ứng đủ điều kiện (đóng BHXH từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con) thì được hưởng trợ cấp bằng 02 triệu đồng cho mỗi con được sinh ra và mỗi thai từ 22 tuần tuổi trở lên chết trong tử cung, thai chết trong khi chuyển dạ.
Kinh phí thực hiện trợ cấp này do Ngân sách nhà nước bảo đảm và Chính phủ quyết định điều chỉnh mức trợ cấp thai sản phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và khả năng của NSNN từng thời kỳ.
Lao động nữ là người dân tộc thiểu số hoặc lao động nữ là người dân tộc Kinh có chồng là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo khi sinh con ngoài trợ cấp thai sản (nêu trên) còn được hưởng chính sách hỗ trợ khác theo quy định của Chính phủ.
3. Đối với chế độ hưu trí
3.1. Quy định giảm điều kiện về số năm đóng BHXH tối thiểu để được hưởng lương hưu hằng tháng từ 20 năm xuống 15 năm. Gia tăng cơ hội được hưởng lương hưu của người tham gia BHXH thông qua việc quy định giảm điều kiện về số năm đóng BHXH tối thiểu để được hưởng lương hưu hằng tháng từ 20 năm xuống 15 (Điều 64, Điều 98).
Nghị quyết số 28-NQ/TW đã đặt ra nhiệm vụ cải cách với nội dung: “Sửa đổi điều kiện hưởng chế độ hưu trí theo hướng giảm dần số năm đóng BHXH tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí từ 20 năm xuống 15 năm, hướng tới còn 10 năm với mức hưởng được tính toán phù hợp nhằm tạo điều kiện cho NLĐ cao tuổi, có số năm tham gia BHXH thấp được tiếp cận và thụ hưởng quyền lợi BHXH”.
Qua khảo sát thực tiễn, một trong những nguyên nhân được chỉ ra đối với việc nhiều người hưởng BHXH một lần là do số năm tích lũy để được hưởng lương hưu (20 năm) quá dài, làm giảm động lực tham gia, gắn bó lâu dài chờ đủ điều kiện hưởng lương hưu của NLĐ.
Luật BHXH năm 2024 quy định thống nhất với Bộ luật Lao động năm 2019 về tuổi nghỉ hưu, điều kiện về tuổi hưởng lương hưu. Quy định NLĐ khi đủ tuổi nghỉ hưu mà có thời gian đóng BHXH từ đủ 15 năm trở lên được hưởng lương hưu hằng tháng. Quy định này nhằm tạo cơ hội cho những người tham gia muộn hoặc tham gia không liên tục có cơ hội tích lũy đủ 15 năm đóng (thay vì 20 năm như quy định hiện hành) để hưởng lương hưu hằng tháng và được bảo đảm BHYT. Đồng thời, quy định này cũng góp phần giảm số người hưởng BHXH một lần do đủ điều kiện hưởng lương hưu. Quy định về số năm đóng tối thiểu này không áp dụng với người hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động.
Luật BHXH năm 2024 cũng quy định tỷ lệ hưởng lương hưu đối với lao động nam và lao động nữ có 15 năm đóng BHXH, quy định mức tối đa giữ nguyên là 75%. Cụ thể:
+ Lao động nam đóng BHXH từ 15 năm đến dưới 20 năm: 15 năm đóng tương ứng 40%, mỗi năm đóng thêm tăng 1%, 20 năm đóng tương ứng 45%;
Lao động nam đóng BHXH 20 năm, tương ứng tỷ lệ hưởng 45%, sau đó, cứ mỗi năm đóng thêm được cộng 2%.
+ Lao động nữ đóng BHXH 15 năm tương ứng 45%. Sau đó, cứ mỗi năm đóng thêm được cộng 2%.
Đồng thời quy định việc tính mức lương hưu hằng tháng của NLĐ đủ điều kiện hưởng lương hưu mà có thời gian đóng BHXH theo quy định của Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên nhưng có thời gian đóng BHXH ở Việt Nam dưới 15 năm thì mỗi năm đóng trong thời gian này được tính bằng 2,25%.
Với mức lương hưu hằng tháng ổn định, định kỳ được Nhà nước điều chỉnh mức hưởng và trong thời gian hưởng lương hưu được quỹ BHXH mua thẻ BHYT, chắc chắn sẽ góp phần đảm bảo tốt hơn cuộc sống của NLĐ. Tin tưởng rằng, sẽ ngày càng có thêm nhiều người được đảm bảo lương hưu để ổn định cuộc sống và được hưởng chính sách BHYT để chăm sóc sức khỏe khi về già.
3.2. Về trợ cấp một lần khi nghỉ hưu
Sửa đổi, bổ sung quy định về trợ cấp một lần khi nghỉ hưu để khuyến khích NLĐ tiếp tục làm việc, đóng BHXH sau tuổi nghỉ hưu (Điều 68, Điều 100).
So với quy định hiện hành chỉ có một mức tính hưởng trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, đối với lao động có thời gian đóng BHXH cao hơn mức tối đa 75% (lao động nam có thời gian đóng BHXH cao hơn 35 năm; lao động nữ có thời gian đóng BHXH cao hơn 30 năm) thì tại Luật BHXH năm 2024 đã quy định 02 mức như sau:
(1) Bằng 0,5 lần của mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH cho mỗi năm đóng cao hơn đến tuổi nghỉ hưu theo quy định của pháp luật.
(2) Trường hợp NLĐ đã đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định mà tiếp tục đóng BHXH thì mức trợ cấp bằng 2 lần của mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH cho mỗi năm đóng cao hơn số năm kể từ sau thời điểm đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định của pháp luật đến thời điểm nghỉ hưu.
3.3. Bổ sung quy định nhằm gia tăng quyền lợi, tăng tính hấp dẫn, khuyến khích NLĐ bảo lưu thời gian đóng để hưởng lương hưu thay vì nhận BHXH một lần
Nghị quyết số 28-NQ/TW đề ra định hướng: “Có quy định phù hợp để giảm tình trạng hưởng BHXH một lần theo hướng tăng quyền lợi nếu bảo lưu thời gian tham gia BHXH để hưởng chế độ hưu trí, giảm quyền lợi nếu hưởng BHXH một lần
- Luật BHXH năm 2024 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung theo hướng gia tăng quyền lợi, tăng tính hấp dẫn, khuyến khích NLĐ bảo lưu thời gian đóng để hưởng lương hưu thay vì nhận BHXH một lần. NLĐ đã chấm dứt tham gia BHXH mà có đề nghị thì được hưởng BHXH một lần (Điều 70, Điều 102) nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
(i) Đủ tuổi hưởng lương hưu mà chưa đủ 15 năm đóng BHXH.
(ii) Ra nước ngoài để định cư.
(iii) Người đang mắc một trong những bệnh: ung thư, bại liệt, xơ gan mất bù, lao nặng, AIDS.
(iv) Người có mức suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; người khuyết tật đặc biệt nặng.
(v) NLĐ có thời gian đóng BHXH trước ngày 01/7/2025, sau 12 tháng không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc mà cũng không tham gia BHXH tự nguyện và có thời gian đóng BHXH chưa đủ 20 năm.
(vi) Đối tượng thuộc lực lượng vũ trang khi phục viên, xuất ngũ, thôi việc không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc mà cũng không tham gia BHXH tự nguyện và không đủ điều kiện để hưởng lương hưu.
- NLĐ không hưởng BHXH một lần mà bảo lưu thời gian đóng để tiếp tục tham gia thì có cơ hội được thụ hưởng các quyền lợi cao hơn như:
(i) Khi tiếp tục tham gia được hưởng các chế độ với mức hưởng cao hơn do các chế độ đều tính theo thời gian đóng (ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,..).
(ii) Được hưởng lương hưu với điều kiện dễ dàng hơn.
(iii) Trong thời gian hưởng lương hưu được quỹ BHXH đóng BHYT.
(iv) Được hưởng trợ cấp hàng tháng khi không đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
(v) Trong thời gian hưởng trợ cấp hằng tháng được NSNN đóng BHYT. Ngoài ra, NLĐ còn có cơ hội được hưởng chính sách hỗ trợ về tín dụng cho NLĐ có thời gian đóng BHXH mà bị mất việc làm.
3.4. Quy định cụ thể các trường hợp tạm dừng, chấm dứt hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng
Luật BHXH năm 2024 đã phân định rõ các trường hợp tạm dừng và chấm dứt hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng (Điều 75). Theo đó:
a) Tạm dừng việc hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng đối với người đang hưởng khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
(i) Xuất cảnh trái phép.
(ii) Bị Tòa án tuyên bố mất tích.
(iii) Khi không xác minh được thông tin người thụ hưởng theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 11 của Luật BHXH năm 2024.
b) Chấm dứt việc hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng đối với người đang hưởng khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
(i) Chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết.
(ii) Từ chối hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng bằng văn bản.
(iii) Kết luận của cơ quan có thẩm quyền về hưởng BHXH không đúng quy định của pháp luật.
Đồng thời quy định rõ việc tiếp tục được chi trả khi người hưởng đảm bảo đủ điều kiện. Đặc biệt, đối với người đã từ chối hưởng chế độ sẽ được tiếp tục chi trả kể từ thời điểm cơ quan BHXH nhận văn bản đề nghị được hưởng lại lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng và không bao gồm tiền lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng của thời gian chưa nhận do đã từ chối nhận.
3.5. Một số lưu ý (quy định chuyển tiếp)
Đối với BHXH bắt buộc: Đối tượng quy định tại điểm a, b, c, d, đ, g và i khoản 1 Điều 2 của Luật BHXH năm 2024 đã tham gia BHXH trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà có thời gian đóng BHXH bắt buộc từ đủ 20 năm trở lên thì mức lương hưu hằng tháng thấp nhất bằng mức tham chiếu.
Đối với BHXH tự nguyện: Người tham gia BHXH tự nguyện trước ngày 01/01/2021 và đủ 20 năm đóng BHXH tự nguyện trở lên thì được hưởng lương hưu khi đủ 60 tuổi đối với nam, đủ 55 tuổi đối với nữ, trừ trường hợp NLĐ có nguyện vọng hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 98 của Luật này.
4. Về chế độ tử tuất
- Sửa đổi quy định về điều kiện về tuổi của thân nhân hưởng trợ cấp tuất hằng tháng thống nhất, phù hợp với tuổi nghỉ hưu của Bộ luật Lao động năm 2019 (Khoản 2 Điều 86).
- Sửa đổi quy định về quyền lựa chọn hưởng trợ cấp tuất hằng tháng hoặc một lần theo hướng tôn trọng quyền lựa chọn của mọi thân nhân của NLĐ khi đủ điều kiện hưởng trợ cấp tuất hằng tháng. Cụ thể, khi thân nhân đủ điều kiện hưởng trợ cấp tuất hằng tháng nhưng có nguyện vọng hưởng trợ cấp tuất một lần thì họ có quyền lựa chọn hưởng trợ cấp tuất một lần (Điểm c Khoản 2 Điều 88).
5. Bổ sung quy định trợ cấp hưu trí xã hội để hình thành hệ thống BHXH đa tầng
Một trong những nội dung cải cách trong Nghị quyết số 28-NQ/TW đã xác định xây dựng hệ thống BHXH đa tầng, bao gồm: (i) Trợ cấp hưu trí xã hội; (ii) BHXH cơ bản, bao gồm BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện; (iii) Bảo hiểm hưu trí bổ sung; đồng thời đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2030 có khoảng 60% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, BHXH hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội.
Luật BHXH năm 2024 đã bổ sung chương III về trợ cấp hưu trí xã hội. Theo đó quy định trợ cấp hưu trí xã hội là loại hình BHXH do NSNN bảo đảm, được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển một phần từ quy định về trợ cấp xã hội hằng tháng đối với người cao tuổi (Điều 21, 22).
6. Bổ sung chế độ đối với NLĐ không đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội để hình thành chế độ liên kết tầng (Điều 23, 24)
(i) Công dân Việt Nam đủ tuổi nghỉ hưu nhưng không đủ thời gian đóng để hưởng lương hưu và chưa đủ điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội nếu không hưởng BHXH một lần và không bảo lưu mà có yêu cầu thì được hưởng trợ cấp hằng tháng từ chính khoản đóng của mình. Thời gian hưởng, mức hưởng trợ cấp hằng tháng được xác định căn cứ vào thời gian đóng, căn cứ đóng BHXH của NLĐ. Mức trợ cấp hằng tháng thấp nhất bằng mức trợ cấp hưu trí xã hội.
Trường hợp tổng số tiền tính theo thời gian đóng, căn cứ đóng BHXH của NLĐ cao hơn số tiền tính mức trợ cấp hằng tháng bằng mức trợ cấp hưu trí xã hội tại thời điểm giải quyết hưởng cho khoảng thời gian từ khi đủ tuổi nghỉ hưu đến khi đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội thì NLĐ được tính để hưởng trợ cấp hằng tháng với mức cao hơn.
Trường hợp tổng số tiền tính theo thời gian đóng, căn cứ đóng BHXH không đủ để NLĐ hưởng trợ cấp hằng tháng cho đến khi đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, nếu NLĐ có nguyện vọng thì được đóng một lần cho phần còn thiếu để hưởng cho đến khi đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
(ii) Mức trợ cấp hằng tháng được điều chỉnh khi Chính phủ thực hiện điều chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng.
(iii) Trong thời gian hưởng trợ cấp hằng tháng thì được NSNN đóng BHYT; khi chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp một lần cho những tháng chưa nhận và được hưởng trợ cấp mai táng nếu đủ điều kiện theo quy định.
III. Về xác định đối tượng tham gia, căn cứ đóng BHXH, xử lý chậm đóng, trốn đóng
1. Về đối tượng tham gia (Điều 2)
Mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
Một trong những yêu cầu cải cách đã xác định trong Nghị quyết số 28- NQ/TW là: “Mở rộng đối tượng BHXH bắt buộc sang các nhóm đối tượng khác”; “Rà soát, mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với các nhóm chủ hộ kinh doanh, người quản lý doanh nghiệp, người quản lý, điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương, NLĐ làm việc theo chế độ linh hoạt”.
Luật BHXH năm 2024 đã thể chế cơ bản Nghị quyết số 28/NQ-TW, quy định mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với:
(1) Chủ hộ kinh doanh của hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh tham gia theo quy định của Chính phủ.
(2) Người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên, người đại diện phần vốn nhà nước, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp tại công ty và công ty mẹ theo quy định của Luật Doanh nghiệp; thành viên Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, Giám đốc, thành viên Ban Kiểm soát hoặc kiểm soát viên và các chức danh quản lý khác được bầu của Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã theo quy định của Luật Hợp tác xã không hưởng tiền lương.
(3) NLĐ làm việc không trọn thời gian, có tiền lương trong tháng bằng hoặc cao hơn tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc thấp nhất.
(4) Trường hợp NLĐ và người sử dụng lao động thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên,...
(5) Người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố.
(6) Dân quân thường trực.
(7) Mở rộng quyền lợi đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được tham gia và thụ hưởng đầy đủ các chế độ BHXH bắt buộc thay vì chỉ đóng và hưởng hai chế độ là hưu trí và tử tuất như Luật hiện hành.
Bên cạnh đó, nhằm từng bước hướng tới chính sách BHXH bắt buộc đối với toàn bộ NLĐ có việc làm, có thu nhập và tiền lương khi đáp ứng đủ điều kiện cần thiết theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW, Luật BHXH năm 2024 giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tham gia BHXH bắt buộc đối với đối tượng khác mà có việc làm, thu nhập ổn định, thường xuyên trên cơ sở đề xuất của Chính phủ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ. Quy định này tạo điều kiện cho việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với các nhóm đối tượng khác phù hợp với sự thay đổi của quan hệ lao động, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của NLĐ trong tương lai.
Việc bổ sung quy định trên phù hợp với những quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, góp phần tạo điều kiện cho nhiều NLĐ được bảo đảm quyền được tham gia BHXH bắt buộc và thụ hưởng đầy đủ chính sách BHXH.
Mở rộng đối tượng tham gia BHXH: Bổ sung đối tượng đang tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận về việc đóng BHXH bắt buộc trong thời gian này.
2. Về căn cứ đóng BHXH (Điều 31)
2.1. Tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc
Thấp nhất bằng mức tham chiếu và cao nhất bằng 20 lần mức tham chiếu tại thời điểm đóng.
Về tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc khu vực nhà nước: Cơ bản giữ như hiện hành.
Về tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc đối với khu vực ngoài nhà nước (do người sử dụng lao động quyết định) là tiền lương tháng, bao gồm mức lương, phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác, được trả thường xuyên và ổn định trong mỗi kỳ trả lương.
Một số đối tượng mới bổ sung có tiền lương và không có tiền lương (chủ hộ kinh doanh, người quản lý điều hành không hưởng lương, lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, phu nhân, phu quân) được lựa chọn tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc trong khoảng từ mức thấp nhất đến mức cao nhất (sau ít nhất 12 tháng thực hiện đóng theo căn cứ đã lựa chọn thì NLĐ được lựa chọn lại).
2.2. Thu nhập làm căn cứ đóng BHXH tự nguyện
Mức thu nhập làm căn cứ đóng BHXH tự nguyện giữ như quy định hiện hành (chỉ thay mức lương cơ sở bằng mức tham chiếu), thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn và cao nhất bằng 20 lần mức tham chiếu tại thời điểm đóng.
3. Bổ sung quy định xử lý tình trạng chậm đóng, trốn đóng BHXH
Điều 35. Đôn đốc thực hiện trách nhiệm đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN).
Điều 38, 39: Chậm đóng, trốn đóng.
Điều 40, 41: Biện pháp xử lý.
Vấn đề chậm đóng, trốn đóng BHXH ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của NLĐ, do vậy Luật BHXH năm 2024 đã bổ sung quy định trách nhiệm của các cơ quan trong xác định và quản lý đối tượng tham gia BHXH; quy định cụ thể hành vi chậm đóng, hành vi trốn đóng; đồng thời, đã sửa đổi, bổ sung nhiều biện pháp xử lý, chế tài xử lý tình trạng chậm đóng, trốn đóng BHXH như:
3.1. (Điều 38) Chậm đóng BHXH bắt buộc, BHTN là hành vi của người sử dụng lao động
(i) Chưa đóng hoặc đóng chưa đầy đủ số tiền phải đóng theo hồ sơ tham gia BHXH bắt buộc, BHTN đã đăng ký kể từ sau ngày đóng BHXH, BHTN chậm nhất, trừ trường hợp quy định tại Điểm đ và Điểm e Khoản 1 Điều 39 của Luật này.
(ii) Không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia BHXH bắt buộc, BHTN trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn quy định.
(iii) Thuộc trường hợp không bị coi là trốn đóng BHXH bắt buộc, BHTN theo quy định tại Khoản 2 Điều 39 của Luật này (có lý do chính đáng).
3.2. (Điều 39) Trốn đóng BHXH bắt buộc, BHTN là hành vi của người sử dụng lao động thuộc một trong các trường hợp sau đây để không đóng hoặc đóng không đầy đủ BHXH, BHTN cho NLĐ
(i) Sau 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn quy định mà người sử dụng lao động không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia BHXH bắt buộc, BHTN.
(ii) Đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc, BHTN thấp hơn quy định.
(iii) Không đóng hoặc đóng không đầy đủ số tiền đã đăng ký BHXH bắt buộc sau 60 ngày kể từ ngày đóng BHXH bắt buộc chậm nhất, BHTN chậm nhất và đã được cơ quan có thẩm quyền đôn đốc theo quy định tại Điều 35 của Luật này.
(iv) Các trường hợp khác bị coi là trốn đóng BHXH bắt buộc, BHTN theo quy định của Chính phủ.
Tại Luật BHXH năm 2024 đã giao Chính phủ quy định chi tiết Điều 39 về trốn đóng BHXH bắt buộc, BHTN và quy định các trường hợp thuộc trốn đóng nhưng có lý do chính đáng thì không bị coi là trốn đóng BHXH bắt buộc, BHTN.
3.3. (Điều 40, 41) Quy định cụ thể biện pháp xử lý đối với hành vi chậm đóng BHXH và trốn đóng BHXH
Bắt buộc đóng đủ số tiền BHXH chậm đóng, trốn đóng; nộp số tiền bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền BHXH, BHTN chậm đóng, trốn đóng và số ngày chậm đóng, trốn đóng; xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; không xem xét trao tặng các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng. Riêng đối với hành vi trốn đóng còn có biện pháp mạnh là truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, để đảm bảo quyền lợi của NLĐ, Luật đã bổ sung trách nhiệm của người sử dụng lao động phải bồi thường cho NLĐ theo quy định của pháp luật nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm đóng BHXH bắt buộc mà gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ (Khoản 8 Điều 13).
Các quy định này nhằm bảo đảm hơn nữa quyền lợi chính đáng, hợp pháp của NLĐ, góp phần giảm tình trạng chậm đóng, trốn đóng BHXH.
Chuyên đề 3
NHỮNG QUY ĐỊNH MỚI CỦA LUẬT BHXH NĂM 2024
LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
So với Luật BHXH năm 2014, Luật BHXH năm 2024 có một số thay đổi liên quan đến quyền, trách nhiệm của người sử dụng lao động, như:
- Bổ sung một số quyền của người sử dụng lao động trên cơ sở Luật hóa những nội dung đang thực hiện tại các văn bản dưới luật, như: 1) Được tạm dừng đóng BHXH bắt buộc theo quy định; 2) Được cơ quan BHXH hướng dẫn trình tự, thủ tục thực hiện BHXH; 3) Được tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH.
- Bổ sung một số trách nhiệm của người sử dụng lao động: 1) Bồi thường cho NLĐ theo quy định của pháp luật nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm đóng BHXH bắt buộc theo quy định của Luật này mà gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ; 2) Phối hợp, tạo điều kiện để cơ quan BHXH thực hiện thu hồi số tiền BHXH hưởng không đúng quy định của NLĐ khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Chuyên đề 4
NHỮNG QUY ĐỊNH MỚI CỦA LUẬT BHXH NĂM 2024
LIÊN QUAN ĐẾN VAI TRÒ CỦA UBND CÁC CẤP
1. Về trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp
Luật BHXH năm 2024 đã sửa đổi, bổ sung trách nhiệm của Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp, theo đó kế thừa quy định Luật BHXH năm 2014 thành Khoản 2 và bổ sung một khoản trên cơ sở Luật hóa trách nhiệm của UBND các cấp trong tổ chức thực hiện chính sách BHXH, phát triển đối tượng tham gia, giảm tình trạng chậm đóng, trốn đóng BHXH bắt buộc trong phạm vi địa phương.
Cụ thể như sau: “UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính sách BHXH, phát triển đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và chậm đóng BHXH bắt buộc, trốn đóng BHXH bắt buộc trong phạm vi địa phương”.
2. Về chính sách của Nhà nước đối với BHXH
Luật BHXH năm 2024 bổ sung quy định khuyến khích các địa phương tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng cân đối ngân sách, kết hợp huy động các nguồn lực xã hội hỗ trợ thêm tiền đóng BHXH cho người tham gia BHXH tự nguyện và hỗ trợ thêm cho người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội (Khoản 6 Điều 6).
Nội dung này cũng được nhấn mạnh tại chương về Trợ cấp hưu trí xã hội (Điều 22), theo đó quy định: “Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng cân đối ngân sách, huy động các nguồn lực xã hội, UBND cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định hỗ trợ thêm cho người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội “.
3. Trách nhiệm phối hợp với cơ quan BHXH để tổ chức thực hiện nhiệm vụ xác định đối tượng tham gia BHXH (Khoản 1 Điều 30)
Xác định đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và phát triển đối tượng BHXH tự nguyện là một trong những nhiệm vụ quan trọng, Luật BHXH năm 2024 đã quy định cụ thể trách nhiệm của UBND các cấp phối hợp với cơ quan BHXH để tổ chức việc xác định đối tượng tham gia BHXH.
4. Quy định rõ thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong giải quyết khiếu nại, tố cáo về BHXH
Luật BHXH năm 2024 đã quy định rõ thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo về BHXH đối với các nội dung trước ngày 01/01/1995 (trước khi thành lập cơ quan BHXH), với các nội dung như sau:
4.1. Về giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi có liên quan đến việc thụ hưởng các chế độ BHXH hoặc tính thời gian công tác trong khu vực nhà nước để hưởng BHXH trước ngày 01/01/1995 mà không đủ hồ sơ gốc, không còn hồ sơ gốc hoặc không còn cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý NLĐ được thực hiện như sau:
a) Thủ trưởng cơ quan BHXH cấp tỉnh giải quyết khiếu nại lần đầu.
b) Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại lần đầu của Thủ trưởng cơ quan BHXH cấp tỉnh hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật.
c) Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại lần hai của Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật.
4.2. Đối với giải quyết tố cáo về BHXH
Chủ tịch UBND cấp tỉnh có trách nhiệm giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành quy định của pháp luật về BHXH trước năm 1995./.
_____________________________________________
1 Hệ thống BHXH đa tầng bao gồm: trợ cấp hưu trí xã hội; BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện; bảo hiểm hưu trí bổ sung để hướng tới bao phủ toàn dân.
2 Do tác động của sự phát triển khoa học, công nghệ, trên thế giới và cả Việt Nam đã, đang và sẽ xuất hiện các mô hình kinh tế mới. Điển hình nhất tại Việt Nam là mô hình kinh tế tự do (Gig); ngoài ra còn có thương mại điện tử, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn,... Từ những mô hình mới này sẽ xuất hiện những nhóm NLĐ mới trong xã hội, không nằm trong khuôn mẫu NLĐ truyền thống.