Công văn 2658/LĐTBXH-TL của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về việc tiền lương trong doanh nghiệp FDI

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • Tiếng Anh
  • Hiệu lực
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Nội dung MIX

    - Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…

    - Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.

  • Tải về
Mục lục
Tìm từ trong trang
Tải văn bản
Lưu
Theo dõi văn bản

Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.

Báo lỗi
Ghi chú

thuộc tính Công văn 2658/LĐTBXH-TL

Công văn 2658/LĐTBXH-TL của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về việc tiền lương trong doanh nghiệp FDI
Cơ quan ban hành: Bộ Lao động Thương binh và Xã hộiSố công báo:Đang cập nhật
Số hiệu:2658/LĐTBXH-TLNgày đăng công báo:Đang cập nhật
Loại văn bản:Công vănNgười ký:Phạm Minh Huân
Ngày ban hành:06/08/2004Ngày hết hiệu lực:Đang cập nhật
Áp dụng:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản để xem Ngày áp dụng. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Lĩnh vực: Lao động-Tiền lương

tải Công văn 2658/LĐTBXH-TL

Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Ghi chú
Ghi chú: Thêm ghi chú cá nhân cho văn bản bạn đang xem.
Hiệu lực: Đã biết
Tình trạng: Đã biết

BỘ LAO ĐỘNG, THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 2658/LĐTBXH-TL
V/v Tiền lương trong DN FDI

Hà Nội, ngày 06 tháng 8 năm 2004

 

Kính gửi:

Công ty Ajinomoto Việt Nam
Khu Công nghiệp Biên Hoà I, tỉnh Đồng Nai

 

Trả lời công văn số 394/VPNN, ngày 10/5/2004 của Công ty Ajinomoto về việc ghi tại trích yếu, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có ý kiến như sau:

1/ Theo quy định tại Tiết a, Khoản 1, Điều 7 của Nghị định số 114/202/NĐ-CP ngày 31/12/2002 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Bộ Luật lao động về tiền lương, thì tiền lương tháng được trả cho một tháng làm việc xác định trên cơ sở hợp đồng lao động, bao gồm: mức lương do hai bên thoả thuận theo thang lương, bảng lương quy định đối với doanh nghiệp nhà nước, các mức phụ cấp có tính chất lương do doanh nghiệp quy định. Trường hợp cụ thể của Công ty thì tiền lương tháng bao gồm mức lương chính theo thang lương, bảng lương của Công ty nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định và phụ cấp trách nhiệm, còn các Khoản phụ cấp nhà ở và phụ cấp gia đình là các khoản trợ cấp.

2/ Theo quy định tại Điều 37 của Điều lệ Bảo hiểm xã hội (ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 23/01/1995 của Chính phủ) thì tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội gồm lương theo ngạch bậc, chức vụ, hợp đồng và các khoản phụ  cấp khu vực, đắt đỏ, chức vụ, thâm niên, hệ số chênh lệch bảo lưu (nếu có). Các khoản phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp nhà ở, phụ cấp gia đình (theo cách gọi của Công ty) không làm căn cứ để đóng bảo hiểm xã hội;

3/ Theo quy định tại Điểm 2, Mục V của Thông tư số 14/2003/TT-BLĐTBXH ngày 30/5/2003 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số Điều của Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 của Chính phủ về tiền lương đối với lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc quốc tế tại Việt Nam, thì tiền lương làm căn cứ tính tiền lương làm thêm giờ cho người lao động là tiền lương thực trả của Công ty (bao gồm mức lương chính và phu cấp trách nhiệm).

4/ Do tính chất sản xuất, nên một số công việc không thể ngừng, nhưng theo quy định của pháp luật lao động thì người lao động vẫn được nghỉ hàng năm. Do vậy, Công ty phải có kế hoạch và thông báo để người lao động nghỉ hàng năm. Trường hợp đến kỳ nghỉ hàng năm theo kế hoạch, nhưng do yêu cầu công việc, Công ty có nhu cầu sử dụng ngày nghỉ hàng năm theo quy định tại Điều 74 của Bộ Luật lao động, thì phải thoả thuận và được người lao động đồng ý. Trong thời gian này, người sử dụng lao động phải trả lương cho người lao động ít nhất bằng 300% tiền lương giờ thực trả của công việc đang làm.

Trường hợp người lao động được trả lương tháng (người lao động đã được trả lương của ngày nghỉ hàng năm) thì Công ty phải trả thêm cho người lao động ít nhất bằng 200% tiền lương giờ thực trả của công việc đang làm cho thời gian người lao động được nghỉ hàng năm.

Tiền lương làm căn cứ để tính tiền lương trả cho thời gian nghỉ hàng năm bao gồm tiền lương cấp bậc, chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp chức vụ (nếu có).

5/ Tại Khoản 2, Điều 114 của Bộ Luật Lao động chỉ quy định người lao động nữ được quyền đề nghị đi làm trước khi hết thời gian nghỉ thai sản, nếu đã nghỉ thai sản ít nhất được hai tháng sau khi sinh và có giấy của thầy thuốc chứng nhận việc trở lại làm việc sớm không có hại cho sức khoẻ. Thời gian đi làm trước khi hết thời gian nghỉ thai sản được tính là thời gian làm việc bình thường. Trường hợp người sử dụng lao động yêu cầu người lao động đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ thai sản là trái quy định của pháp luật lao động.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trả lời để Công ty được biết. Đề nghị Công ty thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước./.

 

TL. BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
VỤ TRƯỞNG VỤ TIỀN LƯƠNG - TIỀN CÔNG




Phạm Minh Huân

 

Ghi chú
LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Nội dung văn bản đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

văn bản cùng lĩnh vực

văn bản mới nhất

×
×
×
Vui lòng đợi