Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Công văn 2160/VKSTC-V14 2023 giải đáp vướng mắc quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
- Báo lỗi
- Gửi liên kết tới Email
- In tài liệu
- Chia sẻ:
- Chế độ xem: Sáng | Tối
- Thay đổi cỡ chữ:17
- Chú thích màu chỉ dẫn
thuộc tính Công văn 2160/VKSTC-V14
Cơ quan ban hành: | Viện kiểm sát nhân dân tối cao | Số công báo: | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 2160/VKSTC-V14 | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Công văn | Người ký: | Hoàng Thị Quỳnh Chi |
Ngày ban hành: | 05/06/2023 | Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Hình sự, Tư pháp-Hộ tịch |
tải Công văn 2160/VKSTC-V14
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 2160/VKSTC-V14 | Hà Nội, ngày 05 tháng 6 năm 2023 |
Kính gửi: | - Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương; |
Qua thực tiễn công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết vụ án hình sự và kiểm sát thi hành án hình sự, VKSND tối cao nhận được ý kiến phản ánh đề nghị hướng dẫn, giải đáp khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) (BLHS năm 2015), Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, về thi hành tạm giữ và thi hành án hình sự (THAHS). Để nâng cao nhận thức áp dụng các quy định, tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm chất lượng, hiệu quả công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân, VKSND tối cao có ý kiến như sau:
Trả lời:
Trả lời:
Tình tiết “đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 141 BLHS năm 2015 được hiểu là trong một lần thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội đối với 02 người trở lên. Theo đó, đối với trường hợp trên, hành vi phạm tội thực hiện ở 02 địa điểm khác nhau và thời gian thực hiện hành vi tại mỗi địa điểm cách xa nhau (01 tháng 02 ngày) thì không thuộc trường hợp phạm tội “đối với 02 người trở lên” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 141 BLHS năm 2015, mà thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 141 BLHS năm 2015, nếu trong các lần đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trả lời:
Điểm đ khoản 1 Điều 4 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi quy định: “Có tính chất loạn luân quy định tại điểm e khoản 2 Điều 141 ... của Bộ luật Hình sự là một trong các trường hợp sau đây:... đ) Phạm tội đối với con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể”. Theo các khoản 1, 2, 7, 16 Điều 3, khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì pháp luật không công nhận quan hệ vợ chồng và các mối quan hệ khác khi quan hệ vợ chồng phát sinh nếu nam, nữ không đăng ký kết hôn theo quy định. Do vậy, chỉ xác định mối quan hệ con rể - mẹ vợ kể từ khi nam, nữ có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật (trừ trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 mà chưa đăng ký kết hôn quy định tại mục 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân gia đình và khoản 2 Điều 44 Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch).
Trong trường hợp nêu trên, mặc dù anh A và chị B chung sống với nhau như vợ chồng đã có con chung, được gia đình, dòng họ hai bên, hàng xóm đều xác nhận họ là vợ chồng nhưng nếu không đăng ký kết hôn thì theo quy định của pháp luật hiện hành nêu trên, giữa anh A và bà C không phát sinh mối quan hệ con rể - mẹ vợ; do vậy, không có căn cứ để xác định hành vi anh A hiếp dâm bà C là “có tính chất loạn luân” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 141 BLHS năm 2015, trừ trường hợp anh A, chị B chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987.
Trả lời:
Khoản 1 Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đủ thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Pháp luật không có quy định cụ thể về mức cấp dưỡng theo độ tuổi của người bị hại (người mẹ). Do đó, không có căn cứ pháp luật để xác định mức cấp dưỡng nuôi con theo độ tuổi của người bị hại.
Trả lời:
Hành vi làm hợp đồng và hóa đơn giá trị gia tăng khống của C là hành vi "tạo ra điều kiện vật chất" cho A vay được tiền của B, có dấu hiệu đồng phạm theo quy định tại Điều 17 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, chỉ xác định C đồng phạm với A khi chứng minh được: mặc dù C biết A sẽ sử dụng hợp đồng và hóa đơn giá trị gia tăng khống để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác nhưng C vẫn làm hợp đồng và hóa đơn giá trị gia tăng khống cho A. Nếu C chỉ nhận thức việc mình làm là tạo điều kiện cho A thực hiện thủ tục vay tiền và C không biết việc A sẽ sử dụng hợp đồng và hóa đơn giá trị gia tăng khống để gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của B thì không xác định C đồng phạm với A. Ngoài ra, cần xem xét đầy đủ các tài liệu, chứng cứ khác để xử lý hành vi của C nếu có dấu hiệu của tội phạm khác.
Trả lời:
Căn cứ Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 3, Điều 21, khoản 2 Điều 25 và khoản 2 Điều 28 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP thì họ, hụi, biêu, phường là hình thức giao dịch vay tài sản được pháp luật dân sự điều chỉnh1 và bảo đảm hoạt động. Trường hợp lãi suất trong quan hệ hụi, họ có lãi suất vượt quá lãi suất giới hạn theo quy định của pháp luật dân sự mà đủ yếu tố cấu thành tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự quy định tại Điều 201 BLHS thì người thực hiện hành vi có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Trả lời:
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 quy định việc thi hành BLHS số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của BLTTHS số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 (Nghị quyết số 41/2017/QH14) thì những quy định của BLHS năm 2015 không có lợi cho người phạm tội so với quy định của BLHS năm 1999 thì không áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0h00’ ngày 01/01/2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích; trong trường hợp này, vẫn áp dụng quy định tương ứng cửa BLHS năm 1999 và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành BLHS năm 1999 để giải quyết.
Qua đối chiếu cho thấy, quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015 đã định lượng, nhằm cụ thể hóa các tình tiết định tính (đất có diện tích lớn hoặc giá trị lớn, rất lớn, đặc biệt lớn; hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) tại các điểm, khoản của Điều 174 BLHS năm 1999. Do vậy, việc xác định quy định của Điều 229 BLHS năm 2015 là không có lợi hay có lợi cho người phạm tội so với Điều 174 BLHS năm 1999 thì tùy từng trường hợp cụ thể, trong quá trình phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử đối với hành vi phạm tội xảy ra trước 0h00’ ngày 01/01/2018, các cơ quan tố tụng ở địa phương căn cứ vào tình tiết, hậu quả xảy ra trong từng vụ việc cụ thể để trao đổi, xem xét, thống nhất xử lý; cần theo các trường hợp như sau:
- Nếu áp dụng quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015 mà đủ điều kiện xử lý hình sự, còn áp dụng quy định tương ứng tại Điều 174 BLHS năm 1999 thì không đủ điều kiện xử lý hình sự đối với người có hành vi vi phạm thì quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015 là không có lợi và không được áp dụng để xử lý.
- Nếu quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015 và Điều 174 BLHS năm 1999 đều có thể xem xét, áp dụng, đủ điều kiện để xử lý hình sự đối với người có hành vi phạm tội thì tùy từng trường hợp mà xem xét, giải quyết, cụ thể như sau:
+ Trường hợp hành vi phạm tội diễn ra liên tục trong các năm 2016, 2017 và 2018, đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì có thể tham khảo, vận dụng quy định tại mục 2 Phần III Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999 để xử lý; theo đó, người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo quy định của BLHS năm 2015 nhưng cần xem xét quy định tương ứng của BLHS năm 1999, nếu có quy định có lợi hơn cho người phạm tội thì áp dụng tinh thần quy định đó để quyết định hình phạt đối với họ.
+ Trường hợp hành vi vi phạm pháp luật diễn ra không liên tục thi hành vi thực hiện ở thời điểm nào đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì áp dụng quy định của BLHS và văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn áp dụng BLHS tại thời điểm đó để xử lý (các hành vi xảy ra trong năm 2016 và năm 2017 thì áp dụng BLHS năm 1999 và các văn bản hướng dẫn BLHS năm 1999; hành vi xảy ra trong năm 2018 thì áp dụng dụng BLHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn BLHS năm 2015 để xử lý).
Trả lời:
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 58, Điều 59, điểm b khoản 2 Điều 62 Luật Giao thông đường bộ năm 2008, Thông tư quy định về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ (văn bản hợp nhất số 20/VBHN-BGTVT ngày 12/11/2019 của Bộ Giao thông vận tải) và Thông tư số 06/2011/TT-BGTVT ngày 07/3/2011 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định về bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ cho người điều khiển xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ thì cơ quan có thẩm quyền cấp cho người tham gia giao thông giấy tờ sau để xác định người tham gia giao thông đủ khả năng vận hành, lưu thông phương tiện giao thông và người điều khiển phương tiện phải mang theo khi tham gia giao thông: (i) Giấy phép lái xe cơ giới đường bộ đối với người điều khiển xe cơ giới; (ii) Chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ và bằng hoặc chứng chỉ nghề điều khiển xe máy chuyên dùng do cơ sở đào tạo nghề cấp đối với người điều khiển xe máy chuyên dùng. Luật Giao thông đường bộ năm 2008 và các văn bản hướng dẫn không quy định cụ thể “giấy phép lái xe” gồm những loại giấy tờ nào.
Theo quy định của Luật Giao thông đường bộ năm 2008 thi hành vi “điều khiển xe cơ giới không có giấy phép lái xe theo quy định” và hành vi “điều khiển xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ không có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ, bằng hoặc chứng chỉ nghề điều khiển xe máy chuyên dùng” đều là các hành vi bị nghiêm cấm, cùng được quy định tại khoản 9 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ năm 2008. Do vậy, 02 hành vi này cùng có tính chất, mức độ nguy hiểm như nhau khi xem xét xử lý vi phạm.
Điều 260 BLHS năm 2015 quy định hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ của các chủ thể tham gia giao thông đường bộ gồm: người điều khiển xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ. Đối với tình tiết định khung tăng nặng “Không có giấy phép lái xe theo quy định” tại điểm a khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 cần được hiểu là các loại giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền cấp (Giấy phép lái xe cơ giới đường bộ, Chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ và bằng/chứng chỉ nghề điều khiển xe máy chuyên dùng...) để cho phép một người được điều khiển loại phương tiện tương ứng tham gia giao thông theo quy định của Nhà nước; và tình tiết này cần xem xét, áp dụng để xử lý không chỉ đối với hành vi của người điều khiển xe cơ giới mà áp dụng cả đối với các chủ thể khác thuộc đối tượng được cấp các loại “giấy phép lái xe theo quy định” (như người điều khiển xe máy chuyên dùng).
Do đó, trường hợp khi: (i) người điều khiển xe cơ giới tham gia giao thông không có Giấy phép lái xe cơ giới đường bộ" hoặc (ii) người điều khiển xe máy chuyên dùng tham gia giao thông không có Chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường hộ và bằng hoặc chứng chỉ nghề điều khiển xe máy chuyên dùng thì đều có thể bị xem xét, xử lý trách nhiệm hình sự nếu vi phạm theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015.
Trả lời:
Điểm b khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 quy định tình tiết định khung tăng nặng: “trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định”. Việc xác định mức nồng độ cồn được thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
Theo quy định tại khoản 8 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 thì một trong những hành vi bị nghiêm cấm là “8. Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn.
Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lit khí thở”.
Tuy nhiên, khoản 8 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 1 Điều 35 Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia năm 2019 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2020) như sau: “8. Điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn”. Do vậy, kể từ ngày 01/01/2020, người điều khiển phương tiện gây tai nạn có nồng độ cồn trong máu hoặc hơi thở thì áp dụng quy định được sửa đổi, bổ sung theo khoản 1 Điều 35 Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia năm 2019 để làm căn cứ xử lý.
10. Có cần thiết phải xác định cụ thể số lô, số đề đã ghi trong vụ án về tội Đánh bạc quy định tại Điều 321 BLHS năm 2015 không?
Trả lời:
Việc xác định cụ thể sổ lô, số đề đã ghi là cơ sở để xác định tổng số tiền dùng để đánh bạc của người chơi đề, chủ đề; có ý nghĩa nhằm làm rõ ý thức, mục đích, hành vi của người chơi đề cũng như tình tiết của vụ án; là cơ sở để đánh giá chứng cứ. Do đó, cần thiết phải xác định cụ thể số lô, số đề đã ghi trong vụ án về tội Đánh bạc quy định tại Điều 321 BLHS năm 20152.
11. Q có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Ngày 04/10/2021, Q trộm cắp 01 chiếc tivi, sau đó, Q bán chiếc tivi cho T, T mua lại chiếc tivi đó. Định giá tài sản chiếc tivi có trị giá 1.000.000 đồng. Vậy, hành vi của T có cấu thành tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có không?
Trả lời:
Khoản 1 Điều 323 BLHS năm 2015 quy định: “Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Như vậy, mặc dù trị giá của chiếc tivi là 1.000.000 đồng, tuy nhiên, Q đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích nên hành vi của Q phạm tội Trộm cắp tài sản. Do đó, chiếc tivi là tài sản có được từ hành vi phạm tội và trong trường hợp T biết rõ tivi là tài sản do Q phạm tội mà có mà T cố ý mua lại thì hành vi này của T cấu thành tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có3.
Trả lời:
Khi xử lý hành vi phạm tội quy định tại Điều 329 BLHS năm 2015, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không cần căn cứ vào việc bị can, bị cáo có nhận thức được hành vi mua dâm của mình là đối với người dưới 18 tuổi hay không, bởi cấu thành tội phạm không quy định người phạm tội phải biết hoặc biết rõ tuổi của bị hại.
Trả lời:
Theo quy định Điều 62 BLTTHS năm 2015 thì “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”.
Theo quy định tại Điều 65 BLTTHS năm 2015 thì “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự”.
Trong vụ án “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ” nêu trên, hành vi phạm tội của các bị can, bị cáo đã gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức được pháp luật bảo vệ, bởi vậy cần xác định Nhà nước là bị hại. Đối với người dân, mặc dù họ có bị thiệt hại về tài sản nhưng trước đó họ đã lấn chiếm diện tích đất này để sử dụng, không phải là người có quyền sử dụng đất hợp pháp nên thiệt hại này chỉ là thiệt hại gián tiếp, liên quan đến hành vi phạm tội nên cần xác định họ là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là phù hợp.
Trả lời:
Theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 4, Điều 35 và Điều 39 BLTTHS năm 2015, Điều 34 Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 thì cơ quan Kiểm lâm, Hạt trưởng, Phó Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm là cơ quan, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, có thẩm quyền tiến hành tố tụng, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm trong việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự thuộc thẩm quyền theo quy định của BLTTHS, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự. Việc pháp luật khác có quy định cụ thể Hạt trưởng, Phó Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm là công chức hay không cũng không làm ảnh hưởng đến việc họ là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong hoạt động khởi tố, điều tra theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, pháp luật về tổ chức Cơ quan điều tra hình sự.
Trả lời:
Mặc dù điểm b khoản 1 Điều 90 BLTTHS năm 2015 có quy định về giám định, nhưng đây chỉ là quy định về thời điểm giám định: “ngay sau khi thu thập”. Để xác định các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định thì phải áp dụng những quy định cụ thể tại Chương XV BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Cụ thể, theo khoản 5 Điều 206 BLTTHS năm 2015, khi cần xác định tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ thì cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành trưng cầu giám định. Như vậy, trường hợp vật chứng là tiền trong các vụ án đối tượng phạm tội là tiền giả hoặc khi có căn cứ nghi ngờ tiền thu giữ là tiền giả thì cơ quan tiến hành tố tụng mới phải (bắt buộc) trưng cầu giám định, không phải mọi trường hợp vật chứng là tiền thì đều bắt buộc trưng cầu giám định.
Trả lời:
Theo quy định tại các điều 236, 240, 243 BLTTHS năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 3, Điều 16 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố theo khoản khác với khoản mà Cơ quan điều tra đã đề nghị truy tố nêu trong bản kết luận điều tra nếu có đủ căn cứ, thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát đó.
Theo khoản 3 Điều 3 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, khi xét thấy bị can phạm tội theo khoản nặng hơn trong giai đoạn truy tố, ngoài việc dựa vào kết quả điều tra và hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra thu thập, chứng minh trong giai đoạn điều tra, thì trường hợp xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để yêu cầu điều tra bổ sung, Viện kiểm sát có quyền tiến hành một số hoạt động điều tra trong giai đoạn truy tố để củng cố, bổ sung chứng cứ, bảo đảm quyết định việc truy tố được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội.
Do vậy, trường hợp Cơ quan điều tra đề nghị truy tố theo khoản 1 của điều luật mà Viện kiểm sát thấy có căn cứ xác định bị can phạm tội theo khoản 2 trong cùng điều luật mà Viện kiểm sát xét thấy có thể tự mình củng cố, bổ sung chứng cứ mà không cần thiết phải trả hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra và quyết định việc truy tố bị can theo điểm, khoản phù hợp của BLHS, khác với đề nghị truy tố của Cơ quan điều tra.
Trả lời:
Điểm d khoản 4 Điều 19 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 quy định: “Việc điều chuyển giữa cơ sở giam giữ trong Công an nhân dân với cơ sở giam giữ trong Quân đội nhân dân do thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam nơi chuyển đi quyết định sau khi thống nhất với thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam nơi nhận”. Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 10 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 thì Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh thực hiện quản lý tạm giữ đối với Buồng tạm giữ của đồn Biên phòng. Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 12 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 thì cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn quyết định việc điều chuyển người bị tạm giữ, tạm giam giữa các cơ sở giam giữ trong phạm vi tinh, quân khu. Như vậy, Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định việc điều chuyển người bị tam giữ từ các buồng tạm giữ của đồn Biên phòng đến các cơ sở giam giữ trong Công an nhân dân. Nội dung này Bộ Công an cũng đã phối hợp với Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức cuộc họp lãnh đạo liên ngành tư pháp Trung ương và thống nhất về thẩm quyền như nêu trên, trong thời gian tới sẽ ban hành Hướng dẫn liên ngành để hướng dẫn các cơ quan, đơn vị địa phương thực hiện thống nhất.
Trả lời:
Quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù không đương nhiên hết hiệu lực trong trường hợp bản án bị kháng nghị giám đốc thẩm và bị hủy để điều tra, xét xử lại, vì đây là hai thủ tục độc lập với nhau, do các Hội đồng khác nhau thực hiện. Để xem xét hiệu lực quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì cần căn cứ vào kết quả điều tra, xét xử lại để xử lý, giải quyết:
Nếu kết quả điều tra lại, xét xử lại mà xác định bị cáo vô tội thì quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù không còn hiệu lực.
Nếu kết quả điều tra, xét xử lại mà bị cáo bị xử phạt tù thì phản biệt như sau:
(1) Trường hợp có mức án khác thấp hơn thì áp dụng chính sách có lợi theo hướng khấu trừ thời gian đã giảm án vào thời hạn phạt tù theo bản án mới;
(2) Trường hợp có mức án khác cao hơn thì đối với những quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà khi đó phạm nhân đủ điều kiện về thời gian chấp hành án theo mức án của bản án mới thì được khấu trừ, còn đối với những quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù trước thời điểm phạm nhân đủ điều kiện về thời gian chấp hành án theo mức án của bản án mới sẽ không được khấu trừ.
Ví dụ: A bị xử phạt 27 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. Bản án có hiệu lực pháp luật, A được đưa đi chấp hành án. Trong quá trình chấp hành án, A được giảm án. Tuy nhiên, VKSND cấp cao đã Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án. Bản án sau đó bị hủy. Kết quả điều tra, xét xử lại:
Trường hợp 1: A bị xử phạt 20 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. Trong trường hợp này, kết quả điều tra, xét xử lại. A có mức án thấp hơn, áp dụng chính sách có lợi theo hướng khấu trừ thời gian đã giảm án vào thời hạn tù theo bản án mới.
Trường hợp 2: A bị xử phạt 07 năm tù về tội Giết người. Trường hợp này, kết quả điều tra, xét xử lại, A có mức án cao hơn mà theo mức án mới này, A chưa đủ điều kiện về thời gian chấp hành án để được giảm, do vậy, A sẽ không được khấu trừ.
Trả lời:
Khoản 2 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2020/TTLT-BCA-BQP-BYT-BNG-TANDTC-VKSNDTC ngày 14/10/2020 quy định về việc việc phối hợp tổ chức thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc có quy định về “có lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan” trong trường hợp hoãn thi hành ân tử hình nêu trên được hiểu là: trường hợp gặp thiên tai, hỏa hoạn hoặc có trở ngại khách quan khác không thể tổ chức thực hiện được việc thi hành án tử hình hoặc các trường hợp như: trên đường áp giải, người bị thi hành án tử hình bị tai nạn phải đưa đến bệnh viện; trường hợp trang thiết bị, dụng cụ thi hành án tử hình bị hư hỏng; không xác định được tĩnh mạch; thuốc thi hành án tử hình không đúng chủng loại, chất lượng, số lượng hoặc các điều kiện khác bảo đảm cho việc thi hành án tử hình không đáp ứng được. Theo đó, việc viết đơn xin ân giảm hình phạt tử hình khi tiến hành thi hành án không phải điều kiện để hoàn thi hành án tử hình. Tuy nhiên, cần căn cứ tùy vào từng trường hợp cụ thể để xem xét, bảo đảm tính thận trọng trong việc thi hành án tử hình.
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 11 Điều 368 BLTTHS năm 2015 thì phạm nhân có quyền khiếu nại đối với quyết định về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện, quyết định hủy quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện. Trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết kháng nghị, khiếu nại các quyết định quy định tại khoản này được hiện theo quy định tại Chương XXII và Chương XXXIII của Bộ luật này. Tại khoản 2 Điều 469 Chương XXXIII BLTTHS năm 2015 quy định: “Đối với... quyết định của... Hội đồng xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện nếu có khiếu nại, kháng cáo, kháng nghị thì giải quyết theo quy định tại các chương XXI, XXII, XXIV, XXV, XXVI và XXXI của Bộ luật này”. Như vậy, những khiếu nại đối với quyết định của Hội đồng xét tha tù trước thời hạn có điều kiện không thuộc phạm vi giải quyết theo quy định tại Chương XXXIII BLTTHS năm 2015 mà được thực hiện theo trình tự, thủ tục phúc thẩm quy định tại Chương XXII BLTTHS năm 2015.
Trả lời:
Căn cứ quy định tại khoản 9 Điều 16, khoản 6 Điều 14, khoản 4 Điều 23 khoản 4 Điều 25, khoản 6 Điều 37, Điều 167 và Điều 169 Luật Thi hành án hình sự năm 2019; khoản 3 Điều 364 BLTTHS năm 2015; Điều 25 và Điều 26 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì Chánh án Tòa án, Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện và Viện kiểm sát có thẩm quyền đề nghị/yêu cầu Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh ra quyết định truy nã trong trường hợp người bị kết án phạt tù tại ngoại bỏ trốn; Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện và Viện kiểm sát có thẩm quyền đề nghị/yêu cầu Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh ra quyết định truy nã trong trường hợp người hoãn chấp hành án phạt tù, người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù bỏ trốn. Khi nhận được đề nghị/yêu cầu của một trong các cơ quan nêu trên (không bắt buộc phải có đề nghị/yêu cầu của tất cả các cơ quan này), thì Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh có quyền ra quyết định truy nã và tổ chức truy bắt người bị kết án phạt tù tại ngoại, người hoãn chấp hành án phạt tù, người tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù bỏ trốn.
Trên đây là giải đáp một số khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định của BLHS năm 2015, BLTTHS năm 2015; quy định về thi hành tạm giữ và THAHS. Quá trình thực hiện, nếu thấy có vấn đề cần trao đổi, đề nghị phản ánh về VKSND tối cao (qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có hướng dẫn, giải quyết./.
Nơi nhận: | TL. VIỆN TRƯỞNG |
_________
1 Thuộc Mục 4, Hợp đồng vay tài sản Chương XVI Bộ luật Dân sự năm 2015.
2 Tham khảo Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 của BLHS (điểm 5.1 khoản 5 Điều 1).
3 Tham khảo quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 24/5/2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 324 của Bộ luật Hình sự về tội Rửa tiền thì: "3. Tiền, tài sản do pham tội mà có là tiền, tài sản có được từ hành vi phạm tội.”.