Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5089:1990 Bảo quản ngũ cốc và đậu đỗ - Yêu cầu cơ bản
- Thuộc tính
- Nội dung
- Tiêu chuẩn liên quan
- Lược đồ
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5089:1990
Số hiệu: | TCVN 5089:1990 | Loại văn bản: | Tiêu chuẩn Việt Nam |
Cơ quan ban hành: | Lĩnh vực: | Thực phẩm-Dược phẩm | |
Ngày ban hành: | 01/01/1990 | Hiệu lực: | |
Người ký: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
tải Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5089:1990
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
TIÊU CHUẨN VIỆT NAM
TCVN 5089:1990
(ISO 6322/2-1981)
BẢO QUẢN NGŨ CỐC VÀ ĐẬU ĐỖ
YÊU CẦU CƠ BẢN
Storage of cereals and pulses
Essential requirements
Tiêu chuẩn này phù hợp với ISO 6322/2-1981 hướng dẫn cách chọn phương pháp bảo quản ngũ cốc và đậu đỗ và đưa ra yêu cầu cơ bản để bảo quản tốt theo phương pháp đã chọn.
1. Vận chuyển
Mọi hệ thống bảo quản đòi hỏi có phương tiện vận chuyển hàng hoá vào và ra khỏi kho. Phương tiện được chọn để làm giảm tới mức tối thiểu sự hư hỏng hoặc suy giảm giá trị của hạt và các thùng chứa, và để ngăn giữ bụi, trong chừng mực có thể thực hiện được.
2. Bảo quản dạng hở
2.1. Khái quát
Bảo quản dạng hở là rẻ nhất nhưng là phương pháp kém an toàn nhất. Có nguy cơ lớn do sự phá hoại của chim, gậm nhấm côn trùng và sâu mọt, sự phá hoại của nấm, hư hỏng do thời tiết xấu, do trộm cắp, do sự hư hỏng cơ học các bao đựng và do những rủi ro khác. Nói chung, bảo quản dạng hở chỉ nên tiến hành trong thời gian ngắn.
2.2. Bảo quản không mái che
Bảo quản không mái che được quan tâm hơn ở các nước khô ráo, tại đây cơn mưa rào đột ngột, ngắn chỉ ảnh hưởng đến bề mặt (tới độ sâu khoảng 2 cm) và ánh nắng mặt trời sau đó sẽ làm khô dần hạt trở lại. Dĩ nhiên, sự phơi nắng như thế có thể dẫn đến hư hỏng do "biến màu". Bảo quản dưới tuyết cũng thực hiện được, bởi vì nhiệt độ thấp hạn chế sâu mọt và nấm phát triển. Mặc dù vậy, một ít loài nấm mốc sinh độc tố có thể mọc ở nhiệt độ gần lạnh đông trên hạt bị tuyết làm ướt, và do vậy phải thật cẩn thận khi áp dụng phương pháp bảo quản này.
Bảo quản dạng hở có thể thực hiện:
a) Trên nền đất, trong các bao tải hoặc đánh đống lớn (bảo quản ngũ cốc thu hoạch chưa đập thành dạng bó hoặc xếp đống ngày càng ít phổ biến).
b) Trên nền cứng hoặc bề mặt khác được láng một lớp cách ẩm.
Với hạt để rời, đôi khi có thể thực hiện thông khí nhân tạo trong các đống nhưng không thể thường xuyên được.
2.3. Bảo quản có mái che
Đôi khi, một chiếc mái tạm, ví dụ như bằng tôn múi, trên sườn gỗ, có thể dựng để che đống bao hoặc đống hạt; "tường" bằng vải bao đay có thể dùng để bảo vệ thêm chống lại thời tiết.
Đống hạt có thể được che phủ bằng vật liệu không thấm nước hoặc bằng rơm và đất hoặc cả hai.
Ngô bắp thông thường được bảo quản trong các nhà nhỏ không vách, ví dụ như được quây bằng các tấm lưới sắt để có thể làm khô khi điều kiện môi trường thuận lợi. Có thể bảo quản ngô bắp tương đối an toàn và dễ dàng, vì không bị hư hỏng cơ học do tách hạt. Cần đặc biệt chú ý ngăn ngừa chim và loài gậm nhấm phá hoại ngô.
3. Bảo quản trong kho có cấu tạo đặc biệt khác si lo
3.1. Khái quát
Mục đích của việc đưa hạt vào kho là phòng chống thời tiết, ngăn ngừa sự xâm nhập của vật gây hại và đảm bảo an toàn. Bảo quản như thế có thể kiểm tra được nhiệt độ và độ ẩm để giữ được hạt càng mát, càng khô và càng đồng nhất về nhiệt độ càng tốt. Cấu trúc kho phải được xây dựng thích hợp để tạo điều kiện bảo quản tốt và không làm thành nơi ẩn náu của vật gây hại.
3.2. Xây dựng kho
3.2.1. Vị trí và nền móng
Hướng kho chọn sao cho bức xạ nhiệt mặt trời nhỏ nhất, nghĩa là ở vùng ôn đới thì chiều dài kho theo hướng bắc-nam, ở vùng nhiệt đới hướng đông-tây. Nền móng cần đủ vững chắc để chịu được khối lượng kho và hạt đổ đầy và được chống mối ở những nơi cần thiết. Môi trường xung quanh nên giữ quang đãng, không có cây cối, rác, không bị ngập nước v.v... Nên có đường vào trực tiếp cho các loại phương tiện vận chuyển thích hợp.
3.2.2. Sàn
Sàn phải được nguyên vẹn, nhẵn, rắn chắc và chống ngấm hơi nước. Không dùng đất "đầm nện" làm sàn. Sàn gỗ có vết nứt, nẻ và kẽ hở là nơi chứa rác và sâu mọt. Thông thường mặt sàn rắn và nhẵn làm bằng bê tông chất lượng tốt được xử lý bằng chất phụ gia đông cứng để ngăn bụi. Tường có cấu trúc hình vòm làm cho việc quét sạch được dễ dàng. Cần đổ một lớp chống thấm dọc theo tường để ngăn không cho tường bị ẩm, thông thường là "tầng kẹp" trong bê tông.
3.2.3. Tường
Tường phải nguyên vẹn và nhẵn và nếu luật lệ địa phương cho phép, có màu nhạt (hoặc có bề mặt phản xạ cao) ở mặt ngoài. Tại các nước vùng nhiệt đới, có thể có cách nhiệt. Khi xây dựng cần tránh "những vị trí chết" và lớp trát mặt trong tường không được có vết nứt, rạn. Tường của kho thông thường bằng gỗ (không khuyến khích), gạch nung, hoặc đá khối, xi măng amiăng, sắt tây, nhôm, gạch hoặc xây nề, bê tông đổ tại chỗ hoặc bê tông tăng cường.
3.2.4. Mái
Mái phải nguyên vẹn và nếu luật lệ địa phương cho phép có màu nhạt (hoặc có bề mặt phản xạ cao) ở mặt trên. Mái không được có rầm cái (cấu trúc "vỏ sò" là lý tưởng) và cố gắng tránh không có trụ đỡ. Nếu là mái phẳng phải có độ dốc nhỏ (khoảng 3%) để nước mưa thoát được. ở vùng nhiệt đới mái quét hắc ín có mài chìa rộng làm tăng cách nhiệt. Mái phải làm bằng chất cách nhiệt tốt, không bị đọng nước và phòng chống được phá hoại do chim, gậm nhấm, côn trùng, sinh vật nhỏ và nấm mốc; không được là nơi sinh sống cho côn trùng và sâu mọt. Lớp trần bên trong có thể làm tăng cách nhiệt nhưng cần có chỗ thông lên trên trần, có thể là nơi ẩn náu cho vật gây hại. Vật liệu làm mái gồm ngói lợp, ngói đá đen, ngói xi măng amiăng, vải quét bitum, sắt tây hoặc nhôm tấm, tấm lợp xi măng amiăng lượn sóng và bê tông trát vữa.
Toàn bộ ống dẫn nước từ máng mái phải đặt bên ngoài, không được lắp ống dẫn bên trong kho, vì đó vừa là nơi sinh sống của sâu mọt và sinh vật nhỏ và vừa là đường đi lại cho loài gậm nhấm và nếu có những chỗ hỏng thì nước mưa có thể làm hỏng hạt.
3.2.5. Cửa và cửa sổ
Phải điều khiển được sự thông khí. Trong kho gần đầy, khối hạt tự nó ảnh hưởng phần lớn đến các điều kiện trong kho. Không nên luôn luôn thông gió "tự nhiên" vì có thể đưa không khí ẩm vào. Để làm mát tối đa, một số biện pháp thông khí có thể áp dụng vào thời điểm thích hợp trong ngày. Có thể tăng cường bằng bóng mát của cây, che chắn cửa sổ bằng màn che, làm mái chìa rộng.v.v...
Phải tránh các khe hở ở mái chìa, đặc biệt tại những nơi độ ẩm tương đối của không khí luôn luôn cao.
Cửa và cửa sổ nên giữ ở mức tối thiểu và mở càng ít càng tốt. Nếu có cửa chiếu sáng trên mái thì phải với số lượng ít, kích thước nhỏ.
3.2.6. Bảo vệ
Cần bảo vệ kho càng kỹ càng tốt chống xâm nhập của sâu mọt, gậm nhấm, chim và dơi và kho phải đóng kín được khi xông khói.
3.3. Bảo quản sản phẩm đóng bao trong kho
3.3.1. Làm sạch
Kho cần phải gọn gàng và vệ sinh và phải dọn sạch hàng ngày.
3.3.2. Dự phòng các tấm kê
Cần phải có các tấm kê thích hợp. Các tấm kê chủ yếu là để đảm bảo sự thông khí, tránh lạnh cục bộ và di chuyển ấm dần tới ngưng tụ cũng như để ngăn ngừa "hơi ẩm bốc lên" từ sàn xấu. Tấm kê phải là những giá kê tiêu chuẩn kích thước dễ sử dụng và do vậy dễ bốc dỡ, xử lý bằng thuốc trừ dịch hại và xếp gọn gàng khi chưa dùng.
3.3.3. Xếp khối
Xếp khối cần thực hiện bằng hệ thống lưu kho tốt tạo nên các khối gọn sạch, cấu trúc đẹp và chắc chắn về cơ học và có thể xử lý bằng thuốc trừ dịch hại. Không nên xếp khối quanh các trụ hoặc dựa vào tường vì gây khó khăn cho việc kiểm tra và xử lý bằng xông khói. Cần để lối đi đủ rộng để việc kiểm tra và phun thuốc được thuận tiện. Sau khi xông khói việc giữ lại các tấm không thấm nước ngăn ngừa được sự phá hoại trở lại của sâu bọ nhưng lại không tốt cho các khối đã bị nóng vì ngưng tụ lại xảy ra do di chuyển ẩm khi khối nguội đi.
3.4. Bảo quản hạt rời trong kho.
3.4.1. Có thể bảo quản bên trong các vách ngăn bằng bao hoặc bên trong các tường giữ hạt có cấu tạo đặc biệt. Cần chừa khoảng cách đủ cho việc kiểm tra và xử lý.
3.4.2. Tại một số kho, hạt đổ đầy sát tường kho, giống như các vách ngăn, phải đủ vững để chịu được lực ép bên của hạt.
3.4.3. Có nguy cơ tăng chênh lệch nhiệt độ trong toàn khối hạt dẫn tới di chuyển ẩm và khả năng nấm mốc sinh trưởng, đặc biệt tại lớp hạt bề mặt dày từ 5 đến 20 cm, và lớp sát tường và sàn. Có thể khắc phục bằng hệ thống thông khí nhân tạo qua khối hạt (xem 5.2).
3.4.4. Bảo quản nằm ngang hạt rời. Tuy nhiên, có khó khăn về vận chuyển và kiểm tra sâu hại, mặc dù sự phát triển và vận chuyển cơ khí và máy đã khắc phục được nhiều vấn đề gặp phải trước đây.
4. Bảo quản bằng xilô
Các đơn vị bảo quản có thể có kích thước khác nhau, từ thùng nhỏ dung lượng vài kilôgam tới những trang bị lớn gồm nhiều thùng xilô chứa được hàng trăm tấn mỗi xilô. Bảo quản trong xilô lớn thuận tiện nhưng lắp đặt tốn kém. Cảng lớn và xilô cuối thực sự là những trang bị vận chuyển, không kinh tế cho bảo quản thời gian dài. Yêu cầu chủ yếu của bảo quản là đơn giản, ít máy móc nhất và các hệ thống đơn vị sản xuất hàng loạt là tốt nhất.
Vật liệu dùng cho xây dựng cần thích hợp với kích thước thùng, ví dụ:
a) Có thể dùng đất sét v.v... làm thùng "đựng" kích thước nhỏ, dễ kiếm tại địa phương; có thể dùng phuy dầu cũ;
b) Có thể làm thùng lớn hơn (hơn 10 tấn) bằng gỗ (gỗ tấm hoặc gỗ dán), gạch hoặc bê tông (tấm hoặc đổ khuôn), kim loại tấm (thép, tôn múi, nhôm) hoặc lưới kim loại (được bọc lót bằng bao gai, giấy dầu, pôliêtilen, polivinylclorua, cao su butyl v.v...).
Như các công trình xây dựng khác, cần thiết kế xilô đủ vững chắc và xây dựng không có vết nứt, kẽ hở.
Khi xây dựng xilô, phải có hệ thống xông khói và phun thuốc cũng như những phương tiện thuận lợi để làm sạch và kiểm tra, như là một phần của thiết bị ban đầu.
Đối với xilô của nông trại nhỏ không cần thiết bị vận chuyển cơ khí tự động nhưng lại cần với hệ thống trang bị lớn.
5. Hệ thống bảo quản đặc biệt
5.1. Bảo quản kín
Bảo quản trong khu kín để có thể kiểm tra và ngăn ngừa sự phá hoại của sâu mọt đối với hạt khô và ngăn chặn sự sinh trưởng của nấm mốc đối với hạt đủ ẩm mà chúng phát triển được trong bảo quản hở. Nguyên tắc của phương pháp là như nhau trong cả hai, cụ thể là loại trừ ôxy cần cho sự sinh trưởng của sâu mọt hoặc nấm mốc. Điều này do sự hô hấp của sinh vật nhưng cũng do hô hấp của hạt.
Cácbon dioxyt sinh ra có thể giúp tiêu diệt sâu mọt. Quá trình đó có thể được đẩy nhanh khi thổi khí nitơ, cacbon dioxyt hoặc khí trơ vào những nơi cần thiết. Với kho cần máy móc tương đối đơn giản để đổ đầy và tháo hạt thì bảo quản kín rất thích hợp. Với loại bảo quản này, có thể cần có những phương tiện lấy mẫu để kiểm tra chất lượng, ví dụ như phân loại.
5.1.1. Bảo quản kín để khống chế sâu mọt
Bảo quản kín rất thích hợp để khống chế sự phá hoại của sâu mọt đối với hạt khô, mà không cần dùng đến thuốc trừ dịch hại. Cách bảo quản này đặc biệt có thể áp dụng cho những dự trữ lâu dài phòng đói kém ở các nước ấm áp mà giới hạn trên về hàm lượng ẩm của hạt nên là 13,5% (khối lượng). Trong những điều kiện đó có ít thay đổi về tính chất của hạt, có thể dùng cho hầu hết các mục đích, bao gồm cả làm lương thực cho người. Tuy vậy, không nên bảo quản hạt giống trong thùng kín lâu quá một vụ thu hoạch.
Trong thực tế, sự phá hoại bình thường ban đầu làm giảm nồng độ oxy trong thùng đựng kín xuống khoảng 2% trong 2 đến 3 tuần lễ, do đó tiêu diệt được sâu mọt. Nếu qua các kẽ hở, lượng oxy lọt vào lại mỗi ngày ít hơn khoảng 0,5% khoảng không bên trên hạt và không khí giữa các hạt, thì thế hệ sâu mọt tiếp sau không có khả năng sống sót và sự phá hoại sẽ bị ngăn chặn.
Nhưng nếu kẽ hở lớn hơn, sâu mọt có thể sinh trưởng và làm nhiễm sâu mọt nhẹ.
5.1.2. Bảo quản kín để ngăn ngừa sự sinh trưởng của nấm.
Đối với các nước ôn đới, bảo quản kín để ngăn ngừa sự sinh trưởng của nấm trong hạt ẩm thích hợp hơn.
Trong bảo quản kín, hạt có hàm lượng ẩm hơn 16% (khối lượng), những thay đổi trong hạt có thể xảy ra do hoạt động của các men xuất hiện tự nhiên. Cũng có thể có hoạt động của các vi sinh vật yếm khí. Hạt bị biến đổi ảnh hưởng tới tính trương nở và xay mịn bị suy giảm khả năng nảy mầm. Bảo quản hạt như thế chỉ thích hợp cho mục đích công nghiệp hoặc làm thức ăn gia súc.
Để bảo quản tốt hạt như vậy, hạt cần có hàm lượng ẩm trong khoảng từ 18 đến 22% (khối lượng). Nếu hạt có hàm lượng ẩm cao hơn mức trên, có thể xảy ra vấn đề "cầu nối" và độ chịu nén của hạt yếu hơn. ở các xilô cao, với hàm lượng ẩm hơn 25% (khối lượng) cần có hệ thống dỡ hạt đặc biệt.
Nếu kho không giữ được kín theo yêu cầu, vi sinh vật có hại có thể phát triển, đặc biệt nếu không có phương tiện thích hợp làm giảm đến mức tối thiểu oxy lọt vào.
Nguy cơ kể trên có thể giảm đi nếu quản lý cẩn thận và đặc biệt vào mùa xuân khi nhiệt độ tăng ở các nước ôn đới thì xilô phải rỗng. Tại các nước nhiệt đới, nhiệt độ quanh năm luôn luôn tối ưu cho sự sinh trưởng của nấm mốc, thì không nên bảo quản kín với hạt có hàm lượng ẩm hơn 14% (khối lượng).
5.1.3. Các loại kho kín
Bảo quản kín có thể hoặc ngầm hoặc nổi trên mặt đất.
5.1.3.1. Kho ngầm
Hầm có ưu điểm là có nhiệt độ đồng đều hơn và nói chung làm giảm rủi ro di chuyển ẩm.
Phải chọn một vị trí thích hợp, có mực nước quanh năm thấp hơn đáy hầm. Phải ngăn chặn nước ngầm và nước mưa xâm nhập. Tường hầm không được ngấm nước; bêtông phải có lớp bitum, nhưng với hầm nhỏ hơn có thể lót bằng hỗn hợp bùn, bitum và rơm kết hợp với pôlyetylen hoặc vật liệu tương tự. Cũng cần phải chống thấm hơi nước cho mái, có thể dễ cuốn hoặc không (ví dụ tấm lợp mái là vải lợp và lưới giây thép). Không được quá nhấn mạnh tầm quan trọng của một kho tốt, vững chắc.
5.1.3.2. Kho nổi trên mặt đất
ở các nước ôn đới, các thùng nổi trên mặt đất đang được dùng ngày càng nhiều, đặc biệt để bảo quản hạt có hàm lượng ẩm cao, dùng làm thức ăn chăn nuôi. Có thể xây thùng bằng thép tấm, có thể sơn, tráng kẽm hoặc tráng men; trừ ở Pháp thùng hàn rất thông dụng, các tấm thường được gắn bằng matit đặc biệt. Cần sắp xếp để giảm áp lực và để không khí lọt vào ít nhất khi tháo hạt. Nếu dùng các thiết bị dỡ hàng trên đỉnh, khi tháo hạt cần được tiến hành với một tốc độ định trước, để hạn chế mức thấp nhất sự phát triển của vi sinh vật độc ở lớp hạt trên bề mặt.
Có thể chế tạo thùng đựng kín di động, dung lượng tới 2500t bằng cách dỡ một bao dẻo trong một lồng lưới kim loại. Bao thường được sản xuất từ cao su butyl, nhưng có thể dùng poliêtylen và polivinylclorua có độ dầy thích hợp hoặc vật liệu tương tự.
Nên có cách nhiệt.
5.2. Bảo quản lạnh
Trong hệ thống bảo quản kín, hạt và sâu mọt ảnh hưởng nhiều đến môi trường không khí trong kho nhưng trong các hệ bảo quản thông khí các điều kiện được điều khiển nhân tạo.
Có thể thông khí để giữ hạt ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ mà ở đó số lượng sâu mọt và nấm mốc có thể tăng.
5.2.1. Thông khí bằng không khí xung quanh
Khi hạ nhiệt độ xuống dưới 150C, sự phát triển của hầu hết sâu mọt, trừ sinh vật nhỏ, trở nên chậm đến mức sự xâm nhiễm coi như được ngăn chặn. Ví dụ, tại các nước ôn đới, việc thông khí bằng không khí xung quanh với luồng khí từ 1,66 đến 2,5 1/s (0,1 đến 0,15 m/phút) cho 1m3 hạt trong tổng thời gian thông khí từ 120 đến 170 giờ, có thể kéo dài vài tuần lễ là đủ. Cần phải hạn chế thông khí trong những thời kỳ khi điều kiện của không khí làm cho hàm lượng ẩm của hạt, không vượt quá mức an toàn của bảo quản và được giữ càng thấp càng tốt.
Hiện nay các nước ôn đới, làm lạnh hạt bằng thông khí với không khí xung quanh là một thực tế có cơ sở vững vàng, ở đó từng khối hạt hơn 20.000t được xử lý như vậy.
ở một vài trang bị ở trang trại, hạt có hàm lượng ẩm cao hơn mức an toàn thì sự sinh trưởng cực nhanh của nấm bị ngăn chặn bằng thông khí, làm giảm nhiệt độ của hạt đến khoảng 5 tới 100C trong 2 đến 3 tháng. Khi hạt có hàm lượng ẩm quá 18% (khối lượng) thì mùi mốc có thể xuất hiện sau 5 đến 6 tháng và sự sinh trưởng của nấm nhìn thấy được xảy ra ở khoảng 2% khối hạt khi hàm lượng ẩm quá 20 đến 21% (khối lượng) nếu nhiệt độ bên ngoài thuận lợi. Nếu hàm lượng ẩm quá mức an toàn, thì sự thông khí liên tục với tốc độ cao hơn có thể làm khô hạt từ từ trong khi bảo quản.
Nếu hạt có hàm lượng ẩm vượt quá 17% (khối lượng), thì độ nảy mầm sẽ bị ảnh hưởng. Đối với bảo quản bình thường nếu hàm lượng ẩm vượt quá mức an toàn thì chỉ có thể ngăn chặn sự nhiễm sâu một khi nhiệt độ gần độ lạnh đông.
5.2.2. Làm lạnh bằng không khí đã được làm lạnh
Đây là một qui trình khắc nghiệt hơn. Nếu phải đề phòng hư hỏng do nấm thì hạt phải được hạ đến nhiệt độ mong muốn trong vài ngày. Nhiệt độ này phụ thuộc vào hàm lượng ẩm và không được cao hơn 50C đối với hàm lượng ẩm của hạt là 20% (khối lượng), mức tối đa cho phép trong bảo quản lạnh. Trong điều kiện như trên, sự nhiễm sâu mọt có thể phát triển chậm, dù rằng sự sinh trưởng của nấm đã bị ức chế nhiều.
Trong khí hậu ôn đới, những lợi ích làm lạnh bằng không khí đã được làm lạnh bị hạn chế so với thông khí bằng không khí xung quanh. Tại các nước nhiệt đới, bảo quản lạnh hạt có độ ẩm cao là không thiết thực, mặc dù có thể dùng một số biện pháp làm lạnh để hạ nhiệt độ của khối hạt khô đến mức (150C) cần để khống chế hầu hết các loài sâu mọt.
6. Bảo quản trong khi vận chuyển
6.1. Vận chuyển ngắn hạn
Vận chuyển ngắn hạn thường là đường bộ, đường sắt hoặc trong sà lan. Có thể chứa hạt trong chính phương tiện vận chuyển hoặc trong thùng chứa đựng di động. Lượng đơn vị đựng hạt được vận chuyển tương đối nhỏ. Phương tiện vận chuyển và thùng chứa cần phải sạch sẽ, khô và không có mùi lạ và không bị nhiễm sâu mọt. Cần phòng ướt dưới bất kỳ hình thức nào.
Nếu sản phẩm bị bất ngờ giữ lại thời gian dài trong phương tiện vận chuyển và thùng chứa thì sự nhiễm sâu mọt có thể trở thành vấn đề, và nếu hàm lượng ẩm quá mức cho phép thì hoạt động của vi sinh vật cũng đáng lưu ý.
6.2. Vận chuyển dài hạn: vấn đề chung
Vận chuyển dài hạn thường được thực hiện bằng đường biển. Những chuyến đi bình thường có thể kéo dài khoảng từ 4 đến 6 tuần lễ, nhưng có thể bị kéo dài do hư hỏng động cơ tàu v.v... Ngoài ra, sau khi đã kết thúc chuyến đi thì có thể lại bị kéo dài trong bốc dỡ hàng hoá do ứ đọng tại cảng. Tại một số cảng, kéo dài vài tuần lễ là bình thường và kéo dài tới 6 tháng đã xảy ra. ở các nước ấm áp, những sự kéo dài tại cảng như thế là đặc biệt nguy hiểm.
Có thể vận chuyển ngũ cốc và đậu đỗ trong bao hoặc hạt rời, hiện nay dạng hạt rời là phương pháp chủ yếu để vận chuyển ngũ cốc. Đậu đỗ chủ yếu vẫn được vận chuyển trong bao. Nhiều hàng hoá đóng bao và một số ngũ cốc hạt rời được vận chuyển trong thùng chứa hàng khô.
Nói chung, có thể xem các hầm chứa hàng của tàu biển như những kho hàng hoặc xilô. Cần phải áp dụng những nguyên tắc như nhau về bảo quản như đã được vạch ra trong các điều trên. Do đó cần phải đảm bảo khoang chứa hàng sạch khô và không bị ô nhiễm trước khi chất hàng. Mọi bao dùng, ví dụ như để ổn định hàng chở cũng cần phải sạch và không nhiễm sâu mọt. Bản thân hàng chở phải có mức thấp về nhiễm sâu mọt. Các nước xuất khẩu khác nhau sử dụng những chuẩn cứ phân biệt về mức chấp nhận về nhiễm sâu mọt đối với hàng hoá xuất khẩu. Nơi nào đã có thể lệ thì hàng ngũ cốc và đậu đỗ phải tuân theo các thể lệ ấy. Nơi nào chưa có những thể lệ đó, thì mức nhiễm sâu mọt tối đa chỉ được là 2 sâu mọt trưởng thành sống trên 1 kg hạt bảo quản. Cũng nên phát hiện và xác định nhiễm ẩm trong khối hạt.
ở nhiệt độ khi xếp, hàng hoá phải có hàm lượng ẩm đủ thấp để ngăn ngừa sự xuất hiện của hoạt động vi sinh vật trước khi bốc dỡ hàng. Tuy nhiên, đối với những chuyến đi ngắn, có thể chất xếp xuống tàu ngũ cốc và đậu đỗ có hàm lượng ẩm cao hơn một chút so với mức tối đa cho phép của sản phẩm để bảo quản dài hạn. Dung sai được chấp nhận tuỳ thuộc vào điều kiện của chuyến đi, lượng hàng bốc chuyên chở trong từng khoang chứa hàng v.v... Hàm lượng ẩm của hàng vận chuyển phải phù hợp với các thể lệ của nước nhập khẩu hoặc theo các điều khoản trong hợp đồng thương mại.
6.3. Vấn đề liên quan đến vận chuyển biển
Những yếu tố khác xảy ra với vận chuyển biển, nhưng với hàng hoá bảo quản trên đất liền thì không gặp hoặc ít ý nghĩa hơn.
6.3.1. Xếp hàng dưới tàu biển
Khi chất xếp hàng hoá vào tàu biển, không những phải cân nhắc phương pháp tốt nhất để bảo vệ hàng hoá khỏi hư hỏng mà còn cần phải đảm bảo an toàn cho tàu trong suốt chuyến đi. Yêu cầu an toàn là tối cao vì vậy có thể xếp hàng trên tàu theo một cách mà trong một số hoàn cảnh nhất định có thể xẩy ra hư hỏng hàng hoá, có thể tránh được nếu xếp hàng theo cách khác; lấy một ví dụ, thể lệ vận chuyển biển của các nước tham gia Hội nghị quốc tế về an toàn sinh mạng trên biển yêu cầu phải xếp hàng ngũ cốc rời dưới hầm tàu trong các vách ngăn. Biện pháp này ngăn ngừa việc di chuyển hàng hoá trong các khoang chứa. Tuy nhiên, chất xếp hàng như thế có thể làm cho hạt tiếp giáp với vách hầm bị ẩm do hậu quả của di chuyển ẩm và ngưng tụ hơi nước trên vách.
Thể lệ vận chuyển biển thực chất là vấn đề hàng hải và phức tạp. Có những nước xuất khẩu yêu cầu phải chất xếp hàng vào tàu theo các thể lệ riêng của họ, trong khi có những nước khác yêu cầu phải chất xếp hàng theo thể lệ của nước đăng ký tàu. Nói chung, toàn bộ các thể lệ hàng hải tương tự hoặc giống hệt các điều khoản trong báo cáo "Hội nghị quốc tế về an toàn sinh mạng trên biển 1960" do tổ chức tư vấn hàng hải liên Chính phủ, Luân Đôn xuất bản. Thông thường, các nhà chức trách tại cảng hoặc các thanh tra viên hàng hải tiến hành thanh tra hàng hoá trong khi chất xếp để đảm bảo chất lượng sản phẩm đạt như đã khai hoặc để đảm bảo tàu biển được chất xếp có thể đi biển được.
6.3.2. Thay đổi nhiệt độ và di chuyển ẩm
Khi ngũ cốc và đậu đỗ được chở trong các hầm tàu biển, thì nhiệt độ môi trường nước biển và không khí bên ngoài có thể thay đổi hết sức nhanh. Điều này lại là nguyên nhân làm tăng nhiệt độ phần bên ngoài của khối hàng hoá và từ đó xảy ra di chuyển ẩm từ vùng nóng hơn đến vùng lạnh hơn của khối hàng hoá. Tuy nhiên, những thay đổi nhiệt độ trong khối hạt rất chậm.
Di chuyển ẩm có thể rất đáng kể, nhưng trong khối hạt rời xảy ra ít hơn so với các sản phẩm khác; hàng hoá khác nhau khác biệt đáng kể về điểm này.
Hơi nóng bên ngoài từ các nguồn của tàu biển như từ vách buồng động cơ, ống dẫn hơi nước và nắp thùng nhiên liệu có thể gây di chuyển ẩm và kích thích sự nhiễm sâu mọt có thể dẫn đến bốc nóng tự phát.
Cách ly các nguồn nhiệt là việc làm bình thường, có thể dùng vỏ bào gỗ để che phủ vách buồng nhiệt và đầu thùng nhiên liệu và các loại cách nhiệt khác nhau đối với các ống hơi nóng.
6.3.3. Thông gió
Theo một số cơ quan có trách nhiệm, thông gió được coi là có lợi trong việc hạn chế đến mức tối thiểu sự thiệt hại do di chuyển ẩm. Tuy nhiên, thực tế là tất cả tàu biển chuyên chở ngũ cốc và đậu đỗ, chỉ được thông gió bề mặt không thể dùng để làm khô hoặc làm lạnh hàng hoá. Do đó thông gió chỉ có thể có hiệu quả trong việc hạn chế đến mức tối thiểu hư hỏng bề mặt. Thậm chí trong những năm gần đây, chức năng này đã bị nghi ngờ vì những lý do khác nhau và những thống kê gần đây cho thấy có thể chuyên chở tốt nhất hạt rời trong các tàu chở dầu không thông gió.
Khi thực hiện thông gió, cần tiến hành sao cho điểm sương của không khí thông gió thấp hơn điểm sương của không khí ở lớp trên đỉnh và vùng kề liền của khối hàng. Nếu không hàng hoá hấp thụ lượng ẩm của không khí thông gió. Có những tàu biển được lắp đặt thiết bị đặc biệt để làm khô không khí thông gió, nhưng phần lớn không khí sử dụng lấy từ bên ngoài. Đối với những tàu biển đó cần phải ngừng thông gió nếu điểm sương của không khí bên ngoài quá cao.
Đối với xếp hạt rời và hàng hoàn chỉnh, vì những lý do về sự ổn định cần phải xếp gọn ghẽ hàng từ sườn ngang đầu sàn tàu, hạn chế đáng kể luồng không khí trên bề mặt và do vậy hạn chế thông gió bề mặt. Mặt khác, trừ khi dùng hàng hoá đóng bao để làm trung tâm khối hàng, hàng phải xếp vào trong các vách ngăn hầm tàu tạo lối đi lại trong khoang.
Điều đó hạn chế việc thông gió bề mặt.