Nghị quyết 04/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25/12/1998 và ngày 5/4/2006
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết 04/2006/NQ-HĐTP
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân tối cao | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 04/2006/NQ-HĐTP | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Nguyễn Văn Hiện |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 04/08/2006 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày hết hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Tư pháp-Hộ tịch |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Nghị quyết 04/2006/NQ-HĐTP
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA
ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
SỐ 04/2006/NQ-HĐTP NGÀY 04 THÁNG 8 NĂM 2006
HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LỆNH THỦ TỤC GIẢI
QUYẾT
CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Đà
ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG THEO CÁC PHÁP
LỆNH SỬA ĐỔI, BỔ
SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA PHÁP LỆNH THỦ
TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH NGÀY 25
THÁNG 12 NĂM 1998 VÀ NGÀY 05 THÁNG 4 NĂM 2006
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ vào Luật tổ
chức Toà án nhân dân;
Để thi hành đúng và
thống nhất các quy định của Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã
được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp
lệnh sửa đổi, bổ sung một số
điều của Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính ngày
25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây
viết tắt là Pháp lệnh);
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ
trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT NGHỊ:
1. Về quy định tại Điều 2 của Pháp
lệnh
1.1. Về quy định "người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại lần
đầu"
"Người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần đầu" quy định
tại Điều 2 của Pháp lệnh là cơ quan hành
chính nhà nước, người có thẩm quyền trong
cơ quan hành chính nhà nước hoặc người
đứng đầu cơ quan, tổ chức thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
a) Đã ra một trong những
quyết định hành chính, quyết định kỷ
luật buộc thôi việc
hoặc có một trong những hành vi hành chính quy
định tại Điều 11 của Pháp lệnh;
b) Quản lý
trực tiếp cán bộ, công chức đã ra một trong
những quyết định hành chính hoặc có một trong những hành
vi hành chính quy định tại Điều 11 của Pháp
lệnh.
1.2. Về quy định tại điểm c khoản 1
Điều 2 của Pháp lệnh
a) Khi nhận được đơn khởi kiện
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính mà việc giải quyết
khiếu nại lần đầu thuộc thẩm
quyền của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ thì Toà án phải căn cứ vào Điều 11
của Pháp lệnh để kiểm tra xem khiếu
kiện đó có thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà án hay không.
Trường hợp khiếu kiện đó thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án, thì Toà
án tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung,
nếu người khởi kiện
đã khiếu nại đến Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và đã hết
thời hạn giải quyết khiếu nại lần
đầu, nhưng khiếu nại không được
giải quyết hoặc đã có quyết định
giải quyết khiếu nại lần đầu.
b) Khi nhận được đơn khởi kiện
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính mà việc giải quyết
khiếu nại lần đầu thuộc thẩm
quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh, thì Toà án phải căn cứ vào
Điều 25 và Điều 39 của Luật khiếu
nại, tố cáo để xem xét; cụ thể như sau:
b.1) Đối với quyết định hành chính, hành
vi hành chính có nội dung thuộc quyền quản lý nhà
nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, thì Toà án tiến hành thụ lý vụ
án theo thủ tục chung, nếu người khởi
kiện đã khiếu nại lần đầu
đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh,
nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy
định của pháp luật về khiếu nại,
tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết
hoặc đã có quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu và không tiếp tục
khiếu nại đến người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại lần hai;
b.2) Đối với quyết định hành chính, hành
vi hành chính có nội dung không thuộc quyền quản lý nhà
nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, thì Toà án tiến hành thụ lý vụ
án theo thủ tục chung, nếu người khởi kiện đã khiếu
nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh, nhưng hết thời
hạn giải quyết theo quy định của pháp
luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại
không được giải quyết hoặc đã có
quyết định giải quyết khiếu nại
lần đầu.
1.3. Việc áp dụng điểm d khoản 1
Điều 2 của Pháp lệnh
Khi nhận đơn khởi kiện đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính đã
được giải quyết khiếu nại lần hai
thì cần phân biệt như sau:
a) Đối với những vụ
việc phát sinh trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 6 năm 2006 và người khiếu nại đã
khiếu nại đến người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại lần
hai và đã hết thời hạn giải quyết
khiếu nại lần hai theo quy định của pháp luật
về khiếu nại, tố cáo trước 0 giờ 00
ngày 01 tháng 6 năm 2006 mà khiếu nại không
được giải quyết (trừ trường
hợp được hướng dẫn tại tiểu
mục 13.1 mục 13 Nghị quyết này) hoặc đã
được giải quyết trước 0 giờ 00
ngày 01 tháng 6 năm 2006, nhưng người khiếu
nại không đồng ý, nếu họ có đơn
khởi kiện vụ án hành chính, thì Toà án căn cứ vào
điểm a khoản 1 Điều 31 của Pháp lệnh
để trả lại đơn khởi kiện cho
người khởi kiện.
b) Đối với những vụ
việc phát sinh trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 6 năm 2006 và người khiếu nại đã
khiếu nại đến người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại lần hai và thời
hạn giải quyết khiếu nại lần hai theo quy
định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo kết thúc sau 0 giờ 00
ngày 01 tháng 6 năm 2006 mà khiếu nại không
được giải quyết hoặc đã
được giải quyết sau 0 giờ 00 ngày 01 tháng 6
năm 2006, nhưng người khiếu nại không
đồng ý, nếu họ có đơn khởi kiện
vụ án hành chính thì Toà án căn cứ vào quy định
của Pháp lệnh để tiến hành thụ lý vụ
án theo thủ tục chung.
1.4. Việc xử lý đơn khởi kiện vụ án
hành chính
Ngay sau khi nhận đơn khởi kiện vụ án
hành chính, Chánh án hoặc Phó Chánh án được Chánh án
uỷ nhiệm, Chánh toà hoặc Phó Chánh toà được
Chánh án uỷ quyền phân công một Thẩm phán xem xét
đơn khởi kiện.
Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể
từ ngày nhận được đơn khởi
kiện, Thẩm phán phải xem xét trường hợp này
thuộc loại khiếu kiện nào quy định tại Điều 11 của Pháp
lệnh và đối chiếu với điều kiện
khởi kiện vụ án hành chính quy định
tại Điều 2 của Pháp lệnh để:
a) Tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung,
nếu đủ điều kiện khởi kiện
vụ án hành chính;
b) Trả lại đơn khởi kiện cho
người khởi kiện và nêu rõ lý do trả lại
đơn khởi kiện, nếu không đủ
điều kiện khởi kiện vụ án hành chính.
Ví dụ 1: Ông Nguyễn Văn A có đơn khởi
kiện quyết định xử phạt vi phạm hành
chính đối với ông của Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân huyện S, tỉnh Đ và ông A đã khiếu
nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện
S, nhưng chưa hết thời hạn giải quyết
khiếu nại lần đầu và cũng chưa có
quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân huyện S, thì Toà án căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 2 và điểm
c khoản 1 Điều 31 của Pháp lệnh để
trả lại đơn khởi kiện cho ông A.
Ví dụ 2: Ông Trần B là cán bộ của Thi hành án
huyện Đ, tỉnh Q có đơn khởi kiện
đối với quyết định kỷ luật
buộc thôi việc đối với ông của Giám đốc
Sở Tư pháp tỉnh Q và ông B đã khiếu nại
đến Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Q,
nhưng chưa có quyết định giải quyết
khiếu nại của Giám đốc Sở Tư pháp
tỉnh Q hoặc đã có quyết định giải
quyết khiếu nại của Giám đốc Sở
Tư pháp tỉnh Q, nhưng ông B không đồng ý và đã
khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ
Tư pháp và đã có quyết định giải quyết
khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp, thì Toà án căn cứ vào khoản 4 Điều 2 và
điểm c khoản 1 Điều 31 của Pháp lệnh
để trả lại đơn khởi kiện cho ông
B.
2. Quyết định hành chính là
đối tượng khiếu kiện để yêu
cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính
Quyết định hành chính là đối tượng
khiếu kiện để yêu cầu Toà án giải
quyết vụ án hành chính phải là quyết định
hành chính lần đầu. Ngoài những quyết
định hành chính được cơ quan hành chính nhà
nước hoặc người có thẩm quyền trong
cơ quan hành chính nhà nước ban hành lần đầu
trong khi giải quyết, xử lý những việc cụ
thể thuộc thẩm quyền của mình, thì những quyết định hành chính sau
đây cũng được coi là quyết định hành
chính lần đầu:
a) Sau khi ban hành quyết định hành chính
nhưng chưa có khiếu nại, cơ quan hành chính nhà
nước hoặc người có thẩm quyền trong
cơ quan hành chính nhà nước
đã ban hành quyết định hành chính đó ban hành
một quyết định hành
chính khác thay thế quyết định hành chính
trước, thì quyết định mới được
ban hành này là quyết định hành chính lần
đầu;
b) Sau khi ban hành quyết định hành chính
nhưng chưa có khiếu nại,
cơ quan hành chính nhà nước
hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nước đã ban hành quyết định hành chính
đó ban hành một quyết định hành chính khác sửa đổi, bổ sung một
số điểm của quyết định hành chính trước,
thì phần của quyết
định hành chính trước không bị sửa
đổi, huỷ bỏ và quyết định sửa đổi, bổ sung một
số điểm của quyết định hành chính
trước đều là quyết định hành
chính lần đầu;
Cần lưu ý là đối với
hai trường hợp a và b trên đây nếu các quyết
định sau được
ban hành sau khi cơ quan hành chính nhà nước hoặc
người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước đã nhận
được đơn khiếu nại và các quyết định
đó là kết quả giải quyết khiếu nại,
thì các quyết định sau là quyết định
giải quyết khiếu nại lần đầu mà không
phải là quyết định hành chính lần đầu;
c) Sau khi Toà án nhân dân có thẩm quyền giải
quyết vụ án hành chính ra quyết định huỷ
một phần hoặc toàn bộ quyết định hành
chính bị khởi kiện; giao
cho cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước giải quyết lại vụ
việc đối với phần hoặc toàn bộ
quyết định hành chính đã bị huỷ và
kết quả giải quyết lại là cơ quan hành chính
nhà nước hoặc
người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước đã ra quyết định hành chính
mới, thì quyết định mới này là quyết
định hành chính lần đầu;
d) Sau khi người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần hai ra quyết định
giải quyết khiếu nại và người có quyết
định hành chính đã ra quyết định hành chính
sửa đổi một phần hoặc toàn bộ
quyết định hành chính đó, thì quyết định
hành chính sửa đổi một phần hoặc toàn
bộ quyết định hành chính trước và phần
của quyết định hành chính trước không
bị sửa đổi đều là quyết định
hành chính lần đầu.
Ví dụ: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường
T, quận H, thành phố H ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính đối
với ông A với hình thức xử phạt chính là phạt tiền 400.000
đồng và hình thức xử phạt bổ sung là
buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu
bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra. Ông A
khiếu nại đối với quyết định
xử phạt vi phạm hành chính này và Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân phường T
đã ra quyết định giải quyết khiếu
nại kết luận giữ nguyên quyết định
xử phạt vi phạm hành chính của mình.
Ông A khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân quận H, thành phố H. Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân quận H ra quyết định giải quyết
khiếu nại kết luận nội dung khiếu nại
là đúng một phần đối với quyết
định về hình thức xử phạt bổ sung và yêu cầu Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân phường T sửa đổi
quyết định đó.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường T ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới sửa đổi hình
thức xử phạt bổ sung thay buộc khôi phục
lại tình trạng ban
đầu bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra
bằng buộc thực hiện biện pháp khắc
phục tình trạng ô nhiễm môi trường do vi
phạm hành chính gây ra.
Trong trường hợp này quyết định xử
phạt vi phạm hành chính trước với hình thức xử phạt chính là
phạt tiền 400.000 đồng và quyết định
xử phạt vi phạm hành chính sau với hình
thức xử phạt bổ sung là buộc thực
hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm
môi trường do vi phạm hành chính gây ra của Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân phường T đều là
quyết định hành chính lần đầu.
3. Hành vi hành chính là đối
tượng khiếu kiện để yêu cầu Toà án
giải quyết vụ án hành chính
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 và
Điều 11 của Pháp lệnh thì hành vi hành chính là đối
tượng khiếu kiện để yêu cầu Toà án
giải quyết vụ án hành chính bao gồm các hành vi
của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của
người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước thực hiện hoặc không thực hiện
nhiệm vụ, công vụ trong các việc hoặc các lĩnh
vực được quy định tại các khoản
từ khoản 3 đến khoản 17 Điều 11
của Pháp lệnh và trong các việc hoặc các lĩnh
vực khác mà pháp luật có quy định.
4. Việc xác định
người bị kiện trong vụ án hành chính
Theo quy định tại khoản 6 Điều 4
của Pháp lệnh thì người bị kiện là cá nhân,
cơ quan, tổ chức có quyết định hành chính,
hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc
thôi việc bị khiếu kiện; do đó, để xác
định đúng người bị kiện khi nào là cá
nhân, khi nào là cơ quan, tổ hức thì phải căn
cứ vào quy định của pháp luật về thẩm
quyền giải quyết vụ việc đó.
Ví dụ: Có hai quyết định hành chính bị
khiếu kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ án
hành chính và đều do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp huyện ký (một quyết định về
xử phạt vi phạm hành chính và một quyết
định thu hồi đất của hộ gia đình).
Căn cứ vào quy định của pháp luật về
thẩm quyền giải quyết các vụ việc này thì
người bị kiện trong vụ án hành chính về
khiếu kiện quyết định
xử phạt vi phạm hành chính là cá nhân Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân cấp huyện (Điều 29
của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính), còn
người bị kiện trong
vụ án hành chính về khiếu
kiện quyết định thu hồi đất của
hộ gia đình là Uỷ ban nhân dân cấp huyện
(Điều 37 và Điều 38 của Luật đất
đai).
Cần chú ý là người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước quy
định tại Điều 4 của Pháp lệnh là
người có chức vụ, chức danh cụ thể và theo quy định của pháp
luật thì người có chức vụ, chức danh đó
mới có thẩm quyền ra quyết định hành chính
hoặc có hành vi hành chính. Mặc dù một quyết
định hành chính hoặc một hành vi hành chính do một
người cụ thể (ông Nguyễn Văn A, bà Trần Thị X...) ký hoặc thực
hiện, nhưng việc người đó ký quyết
định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành
chính đó phải dưới danh nghĩa một chức
vụ, chức danh có thẩm quyền (ví dụ: Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân huyện..., Trưởng Công an
phường...); do đó, chỉ có thể gọi quyết
định hành chính đó, hành vi hành chính đó của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện..., của
Trưởng Công an phường... mà không thể gọi
quyết định hành chính đó, hành vi hành chính đó
của một người cụ thể (ông Nguyễn
Văn A, bà Trần Thị X...). Vì vậy, trong
trường hợp người ra quyết định
hành chính hoặc có hành vi hành chính đã chuyển công tác
đi nơi khác hoặc về hưu... mà quyết
định hành chính hoặc hành
vi hành chính đó bị khiếu kiện, thì người
được bầu, được cử,
được bổ nhiệm... thay chức vụ, chức danh của người
đó phải kế thừa quyền và nghĩa vụ, có nghĩa
họ chính là người bị kiện.
5. Việc giải quyết yêu
cầu đòi bồi thường thiệt hại trong
vụ án hành chính
Theo quy định tại Điều
3 (đoạn 1) của Pháp lệnh thì người khởi
kiện vụ án hành chính có thể
đồng thời yêu cầu đòi bồi thường
thiệt hại. Thiệt hại trong trường hợp
này là thiệt hại thực tế do có quyết định
hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi
việc hoặc hành vi hành chính gây ra. Nếu người
khởi kiện vụ án hành chính có yêu cầu đòi
bồi thường thiệt hại thì có nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ.
Trường hợp cần thiết Toà án có thể thu
thập thêm chứng cứ để bảo đảm
cho việc giải quyết vụ án được chính
xác. Việc thu thập chứng cứ trong trường
hợp này được thực hiện theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trường hợp người
khởi kiện vụ án hành chính có yêu cầu đòi
bồi thường thiệt hại chưa có thể
cung cấp chứng cứ
được, thì tách phần giải quyết yêu cầu
đòi bồi thường thiệt hại để
giải quyết sau trong một vụ án dân sự khác theo
thủ tục chung khi đương sự có yêu cầu.
Ví dụ: Một người khởi kiện yêu cầu
Toà án giải quyết huỷ bỏ quyết định
hành chính tịch thu phương tiện được
sử dụng để vi phạm hành chính, đồng
thời yêu cầu đòi bồi thường thiệt
hại do một số bộ phận của phương
tiện đó bị mất, bị hư hỏng hoặc
thu nhập thực tế bị mất do phương
tiện đang bị giữ. Nếu Toà án xét thấy
quyết định tịch thu phương tiện
được sử dụng để vi phạm hành chính
là trái pháp luật và xét thấy yêu cầu đòi bồi
thường thiệt hại của người khởi
kiện là có căn cứ (do người khởi kiện
cung cấp đầy đủ chứng cứ, có
người làm chứng...), thì Toà án quyết định huỷ
quyết định hành chính đó, đồng thời
quyết định về việc bồi thường
thiệt hại; nếu người khởi kiện
chưa chứng minh
được phương tiện đó bị mất,
bị hư hỏng những bộ phận nào, thu nhập
thực tế bị mất là những khoản nào, thì Toà
án chỉ quyết định huỷ quyết định
hành chính đó và dành phần giải quyết yêu cầu
đòi bồi thường thiệt hại để
giải quyết trong một
vụ án dân sự khác theo thủ tục chung khi
đương sự có yêu cầu.
6. Việc giải
quyết trong trường hợp người bị
kiện sửa đổi hoặc huỷ bỏ
quyết định hành chính, quyết định kỷ
luật buộc thôi việc bị khiếu kiện
Theo quy định tại
Điều 3 (đoạn 4) và Điều 20 của Pháp
lệnh thì trong quá trình
giải quyết vụ án hành chính người bị
kiện có quyền sửa đổi hoặc huỷ
bỏ quyết định hành chính, quyết định
kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện;
do đó, trong quá trình giải
quyết vụ án hành chính mà người bị kiện có
quyết định sửa đổi hoặc
huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết
định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện thì Toà án
cần thông báo cho người khởi kiện biết và
cần phân biệt:
a) Nếu người khởi
kiện đồng ý với quyết định sửa
đổi hoặc huỷ bỏ đó và rút đơn khởi kiện, thì Toà án căn cứ
vào điểm b khoản 1 Điều 41 của Pháp lệnh ra quyết định
đình chỉ việc giải quyết vụ án;
b) Nếu
người khởi kiện không đồng ý với
quyết định sửa đổi hoặc huỷ
bỏ đó và không rút đơn khởi kiện,
thì Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo
thủ tục chung. Trong trường hợp này Toà án
phải xem xét tính hợp pháp của quyết định
bị khiếu kiện và quyết định sửa
đổi hoặc huỷ bỏ quyết định
bị khiếu kiện để tuỳ vào từng
trường hợp cụ thể mà có quyết
định đúng pháp luật.
7. Về quy định tại Điều 11 của Pháp
lệnh
7.1. Về khái niệm "công trình, vật kiến trúc kiên
cố khác" quy định tại khoản 5 Điều 11
của Pháp lệnh
a) "Công trình" phải là vật
chắc chắn, bền vững mà việc xây dựng nó công phu, phải có khoa học, kỹ
thuật hoặc nghệ thuật. Ví dụ: một bức
tượng đài; một hệ thống phục
vụ nuôi trồng thuỷ sản...
b) "Vật kiến
trúc kiên cố khác" là ngoài nhà ở, công trình thì vật
kiến trúc kiên cố khác phải là vật
được xây dựng chắc chắn và bền
vững có giá trị sử dụng lâu dài. Ví dụ:
giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ,
tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, nhà
xưởng, kho tàng...
c) Không phân biệt giá trị nhà
ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác từ bao
nhiêu trở lên, nếu có khiếu kiện quyết
định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng
biện pháp buộc tháo dỡ Toà án mới thụ lý
giải quyết, mà chỉ cần xác định đúng
đó là nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố
khác thì Toà án phải thụ lý giải quyết theo thủ
tục chung.
7.2. Về quy định tại
khoản 9 Điều 11 của Pháp lệnh
Khi thi hành quy định tại khoản 9 Điều 11
của Pháp lệnh cần chú ý là Toà án chỉ có thẩm
quyền giải quyết vụ án hành chính đối
với khiếu kiện quyết định hành chính, hành
vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản được
ban hành hoặc thực hiện sau ngày 02-10-1991 (ngày Chủ tịch
Hội đồng Bộ
trưởng nay là Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định số 297/CT).
7.3. Về quyết định hành
chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý
đất đai quy định tại khoản 17
Điều 11 của Pháp lệnh
Quyết định hành chính, hành vi
hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai mà các đương sự có
quyền khởi kiện để Toà án giải quyết
vụ án hành chính bao gồm các quyết định hành
chính, hành vi hành chính quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều 4 của Pháp lệnh trong
trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng
dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất; bồi thường, hỗ
trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư;
cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn
sử dụng đất.
Cần lưu ý là đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong việc giải
quyết tranh chấp đất đai thì trong mọi
trường hợp đều không phải là đối
tượng khởi kiện vụ án hành chính.
7.4. Về quy định tại
khoản 22 Điều 11 của Pháp lệnh
a) Quy định tại khoản
22 Điều 11 của Pháp lệnh cần được
hiểu là ngoài các khiếu kiện quy định tại
các khoản từ khoản 1 đến khoản 21
Điều 11 của Pháp lệnh, nếu trong một
văn bản quy phạm pháp luật hoặc điều
ước quốc tế mà
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
nào đó có quy định việc khởi kiện để Toà án giải quyết theo
quy định của pháp luật về thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính đối
với loại khiếu kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính nào đó, thì khiếu kiện
đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính đó là thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà án theo thủ tục chung.
b) Khi có khiếu kiện quyết
định hành chính, hành vi hành chính mà không thuộc một
trong các trường hợp quy định tại các
khoản từ khoản 1 đến khoản 21
Điều 11 của Pháp lệnh, thì Toà án cần kiểm
tra xem đã có văn bản quy phạm pháp luật hoặc
điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên nào về lĩnh vực đó quy định
quyền khởi kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính đó theo quy định của pháp
luật về thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính hay không. Trường hợp có văn bản quy phạm
pháp luật hoặc điều ước quốc tế mà
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
quy định, thì Toà án căn cứ vào khoản 22
Điều 11 của Pháp lệnh và quy định
tương ứng của văn bản quy phạm pháp
luật hoặc điều ước quốc tế
đó để thụ lý giải quyết vụ án hành
chính theo thủ tục chung; nếu chưa có văn bản
quy phạm pháp luật hoặc điều ước
quốc tế nào quy định thì Toà án căn cứ vào
khoản 1 Điều 31 của Pháp lệnh trả lại
đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
8. Về quy định tại
điểm g khoản 2 Điều 12 của Pháp lệnh
Những trường hợp sau
đây Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để
giải quyết khiếu kiện thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án cấp huyện:
a) Khiếu kiện quyết
định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban nhân dân
cấp huyện, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
huyện liên quan đến nhiều đối
tượng, phức tạp;
b) Khiếu kiện quyết
định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban nhân dân
cấp huyện, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
huyện trong trường hợp các Thẩm phán của Toà
án cấp huyện đó đều thuộc trường
hợp phải từ chối tiến hành tố tụng
hoặc bị thay đổi.
9. Về quy định tại
Điều 13 của Pháp lệnh
9.1. Việc xác
định thẩm quyền của Toà án và của
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
lần hai
Để thi hành đúng quy định tại khoản
1 Điều 13 của Pháp lệnh về thẩm quyền,
trước hết cần xem xét quyết định hành
chính, hành vi hành chính đó liên quan đến một
người hay nhiều người (từ hai
người trở lên). Tuỳ từng trường
hợp cụ thể mà việc xác định thẩm
quyền giải quyết của Toà án hay của
người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại lần hai được thực hiện như
sau:
a) Nếu quyết định hành chính, hành vi hành chính
đó chỉ có liên quan đến một người mà
người đó vừa khởi kiện vụ án hành chính
tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại
đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần hai và người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần
hai chưa có quyết định giải quyết khiếu
nại, thì việc giải quyết thuộc thẩm
quyền của Toà án. Toà án thụ lý giải quyết
vụ án theo thủ tục chung, đồng thời thông
báo cho người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại lần hai biết và yêu cầu chuyển
toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho
Toà án (nếu có). Nếu đến trước thời
điểm Toà án thụ lý vụ án đã có quyết
định giải quyết khiếu nại của
người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại lần hai, thì Toà án căn cứ vào điểm c
khoản 1 Điều 31 của Pháp lệnh trả lại
đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
Nếu sau khi Toà án đã thụ lý vụ án mới có
quyết định giải quyết khiếu nại
lần hai của người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần hai, thì Toà án căn cứ
vào khoản 3 Điều 41 của Pháp lệnh ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án hành
chính, xoá tên vụ án đó trong sổ thụ lý và trả
lại đơn khởi kiện cùng tài liệu, chứng
cứ kèm theo cho người khởi kiện. Trong
trường hợp Toà án trả lại đơn khởi
kiện hoặc đình chỉ giải
quyết vụ án theo hướng dẫn tại
điểm a này, nếu người đã khởi kiện
không đồng ý với quyết định giải
quyết khiếu nại lần hai và có đơn khởi
kiện vụ án hành chính, thì Toà án xem xét để tiến
hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung.
b) Nếu quyết định hành chính, hành vi hành chính
đó có liên quan đến nhiều người, thì phân
biệt như sau:
b.1) Trường hợp chỉ có một người
vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có
thẩm quyền, vừa khiếu nại đến
người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại lần hai, những người khác còn lại không
khởi kiện vụ án hành chính và cũng không khiếu
nại đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần hai thì việc giải
quyết thuộc thẩm quyền của Toà án và
được thực hiện như trường hợp
được hướng dẫn tại điểm a
tiểu mục này.
b.2) Trường hợp có nhiều người vừa
khởi kiện vụ án hành chính tại
Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại
đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần hai thì việc giải
quyết thuộc thẩm quyền của người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần
hai. Nếu Toà án chưa thụ lý vụ án thì Toà án căn
cứ vào điểm c khoản 1 Điều 31 của Pháp
lệnh trả lại đơn khởi kiện cho
người khởi kiện; nếu Toà án đã thụ lý
vụ án thì Toà án xoá sổ thụ lý và chuyển hồ
sơ vụ án cho người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần hai và thông báo cho
người khởi kiện biết. Trong trường
hợp này nếu hết thời hạn giải quyết
khiếu nại lần hai theo quy định của pháp
luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu
nại không được giải quyết hoặc đã
có quyết định giải quyết khiếu nại
lần hai, nhưng người khiếu nại không
đồng ý và họ có đơn khởi kiện vụ
án hành chính thì Toà án căn cứ vào quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 13 của Pháp lệnh
để tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục
chung, nếu pháp luật không có quy định khác về
trường hợp đó.
b.3) Trường hợp chỉ có
một hoặc một số người khởi kiện
vụ án hành chính tại Toà án có
thẩm quyền, một hoặc một số
người khác chỉ khiếu nại đến
người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại lần hai thì việc giải quyết thuộc
thẩm quyền của người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại lần hai và
được thực hiện như trường hợp
được hướng dẫn tại điểm b.2
tiểu mục này.
9.2. Việc giải quyết
trường hợp Toà án đã thụ lý giải quyết
vụ án hành chính sai (do đây là vụ án khác hoặc
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
khác)
Trong trường hợp Toà án đã thụ lý giải
quyết vụ án hành chính sai
(do đây là vụ án khác hoặc thuộc thẩm quyền
giải quyết của Toà án khác)
thì tuỳ trường hợp mà giải quyết như
sau:
a) Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo trình
tự sơ thẩm mà phát hiện việc giải
quyết vụ án này là thuộc thẩm quyền của
mình, nhưng đây không phải là vụ án hành chính mà là
vụ án khác (dân sự, kinh tế, lao động) thì Toà án giải quyết lại
vụ án theo thủ tục chung do pháp luật tố
tụng quy định đối với việc
giải quyết vụ án đó, đồng thời thông
báo cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng
cấp biết;
b) Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo trình
tự sơ thẩm mà phát hiện việc giải
quyết vụ án này là thuộc thẩm quyền của Toà
án khác, thì Toà án đã thụ lý
vụ án căn cứ vào khoản 2 Điều 13 của
Pháp lệnh xoá sổ thụ lý, chuyển hồ sơ
vụ án cho Toà án có thẩm quyền, đồng thời
thông báo cho các đương sự và Viện kiểm sát
cùng cấp biết;
c) Khi xét xử phúc thẩm vụ án hành chính mà phát
hiện vụ án thuộc trường hợp
được hướng dẫn tại các điểm a
và b tiểu mục này, thì Toà án cấp phúc thẩm căn
cứ vào điểm c khoản 2 Điều 64 của Pháp
lệnh huỷ bản án, quyết định sơ
thẩm do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục
tố tụng và giao hồ sơ vụ
án cho Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm
để giải quyết sơ thẩm lại vụ án
theo thủ tục chung do pháp
luật tố tụng quy định đối với
việc giải quyết vụ án đó;
d) Khi xét xử giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm vụ án hành chính mà phát hiện vụ án thuộc
trường hợp được hướng dẫn
tại các điểm a và b tiểu mục này, thì Toà án
cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm căn
cứ vào khoản 3 Điều 72 của Pháp lệnh
huỷ bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật do vi phạm nghiêm trọng về
thủ tục tố tụng và giao hồ sơ vụ án
cho Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm để giải quyết sơ
thẩm lại vụ án theo thủ tục chung do pháp
luật tố tụng quy định đối
với việc giải quyết vụ án đó.
10. Về quy định tại khoản 1 Điều 15
của Pháp lệnh
Những trường hợp sau đây Hội
đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai
Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân:
a) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi
hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh liên quan đến
nhiều đối tượng, phức tạp;
b) Khiếu kiện quyết
định giải quyết khiếu nại về
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
11. Về quy định tại Điều 16 của
Pháp lệnh
11.1. Về
quy định tại khoản 1 Điều 16 của Pháp
lệnh
a) Theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 16 của Pháp lệnh thì người
tiến hành tố tụng phải từ chối tiến
hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu
họ là người thân thích của đương sự
(bao gồm người khởi kiện, người
bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan) trong vụ án hành chính.
b) Người thân thích của
đương sự là người có quan hệ sau đây
với đương sự:
b.1) Là vợ, chồng, cha đẻ,
mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi
của đương sự;
b.2) Là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của
đương sự;
b.3) Là bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột của đương
sự;
b.4) Là cháu ruột của
đương sự, mà đương sự là ông
nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô
ruột, dì ruột.
c) Có căn cứ rõ ràng cho rằng
họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ là
ngoài các trường hợp được quy định
tại các điểm từ điểm a đến
điểm h khoản 1 Điều 16 của Pháp lệnh
thì trong các trường hợp khác (như trong quan hệ
tình cảm, quan hệ thông gia, quan hệ công tác, quan hệ
kinh tế...) có căn cứ rõ ràng để có thể
khẳng định là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Kiểm sát viên, Thư ký Toà án không vô tư trong khi làm
nhiệm vụ. Ví dụ: Hội thẩm nhân dân là anh em
kết nghĩa của người khởi kiện;
Thẩm phán là con rể của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan...
Cũng
được coi là có căn cứ rõ ràng để cho
rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm
vụ nếu trong cùng một phiên toà xét xử vụ án hành
chính Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và
Thư ký Toà án là người thân thích với nhau hoặc
nếu Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên
được phân công xét xử phúc thẩm vụ án hành
chính có người thân thích là Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân, Kiểm sát viên đã tham gia xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm vụ án đó.
11.2. Về quy định tại khoản 2 Điều
16 của Pháp lệnh
a) Theo quy định tại điểm b khoản 2
Điều 16 của Pháp lệnh thì
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ chối
tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi
nếu họ cùng trong một Hội đồng xét xử
và là người thân thích với nhau. Tuy nhiên, khi có hai người trong Hội đồng
xét xử thân thích với nhau thì chỉ có một
người phải từ chối hoặc bị thay
đổi. Việc thay đổi ai trước khi mở
phiên toà do Chánh án Toà án quyết định, tại
phiên toà do Hội đồng xét xử quyết
định. Việc xác
định Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong cùng
một Hội đồng xét xử là người thân thích với nhau được
thực hiện tương tự theo hướng dẫn
tại điểm b tiểu mục 11.1 mục này.
b) Theo quy định tại điểm c khoản 2
Điều 16 của Pháp lệnh, Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố
tụng hoặc bị thay đổi nếu họ đã
tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm... vụ án
đó. "Đã tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm... vụ án đó" là đã
tham gia giải quyết vụ án và đã ra bản án sơ thẩm,
bản án phúc thẩm, quyết định đình chỉ
vụ án.
12. Về quy định tại khoản 2 Điều 17
của Pháp lệnh
12.1.
Tại phiên toà người yêu cầu thay đổi
người tiến hành tố tụng phải trình bày rõ lý
do và căn cứ của việc yêu cầu thay đổi
người tiến hành tố tụng.
Hội
đồng xét xử nghe người bị yêu cầu thay
đổi trình bày ý kiến của họ về yêu cầu
thay đổi người tiến hành tố tụng.
Yêu cầu
thay đổi người tiến hành tố tụng và
lời trình bày của người có yêu cầu, của
người bị yêu cầu thay đổi phải
được ghi đầy đủ vào biên bản phiên
toà. Hội đồng xét xử thảo luận tại
phòng nghị án và căn cứ vào quy định tại
Điều 16 của Pháp lệnh và hướng dẫn
tại mục 11 của Nghị quyết này quyết định
theo đa số thay đổi hoặc không thay đổi
người tiến hành tố tụng.
Trường hợp quyết định thay đổi
người tiến hành tố tụng thì trong quyết
định phải ghi rõ việc hoãn phiên toà và đề
nghị người có thẩm quyền cử người
khác thay thế người tiến hành tố tụng
đã bị thay đổi trong thời hạn ba ngày,
kể từ ngày nhận được quyết
định và thời hạn hoãn phiên toà.
12.2. Quyết định thay đổi hoặc không thay
đổi người tiến hành tố tụng phải được Hội
đồng xét xử công bố công khai tại phiên toà.
Quyết định thay đổi người
tiến hành tố tụng phải được gửi
ngay cho người có thẩm quyền để cử
người thay thế; cụ thể như sau:
a) Quyết định thay đổi người
tiến hành tố tụng là Kiểm sát viên phải
được gửi ngay cho Viện trưởng Viện
kiểm sát cùng cấp; nếu Kiểm sát viên bị thay
đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì
phải gửi ngay quyết định cho Viện
trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp;
b) Quyết định thay đổi người
tiến hành tố tụng khác phải được
gửi ngay cho Chánh án Toà án; nếu người tiến hành
tố tụng bị thay đổi là Chánh án Toà án thì
phải gửi ngay quyết định cho Chánh án Toà án
cấp trên trực tiếp.
13. Về
quy định tại khoản 2 Điều 30 của Pháp
lệnh
13.1. Khi thi hành khoản 2 Điều 30 của Pháp
lệnh cần chú ý là trong trường hợp
người khởi kiện vụ án hành chính do không
đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu hoặc lần hai thì
chỉ cần người khởi kiện làm đơn
yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính trong
thời hạn quy định tại các khoản 2, 3 và 4
Điều 30 của Pháp lệnh, kể từ ngày nhận
được quyết định
giải quyết khiếu nại lần đầu
hoặc lần hai mà không phụ thuộc vào quyết
định giải quyết khiếu nại đó
được ban hành vào thời điểm nào.
13.2. Trong trường hợp sau khi đã có quyết
định giải quyết khiếu nại lần
đầu hoặc lần hai và người khiếu
nại vẫn khiếu nại tiếp và cơ quan hoặc
người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại đã ra quyết
định giải quyết khiếu nại lần
đầu hoặc lần hai đó lại ra quyết
định (hoặc văn bản) giải quyết
khiếu nại thì cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp quyết
định giải quyết khiếu nại sau có nội
dung giải quyết khiếu nại khác
một phần hoặc toàn bộ với nội dung
của quyết định giải quyết khiếu
nại trước, thì thời hạn khởi kiện
được tính từ ngày người khiếu nại
nhận được quyết định giải
quyết khiếu nại sau;
b) Trường hợp quyết
định giải quyết khiếu nại sau có nội
dung giải quyết khiếu nại không khác
với nội dung của quyết định giải
quyết khiếu nại trước hoặc chỉ là
trả lời về việc giải quyết khiếu nại
trước, thì thời hạn khởi kiện
được tính từ ngày nhận được
quyết định giải quyết khiếu nại
trước.
14. Về quy định tại khoản 5 Điều 33
của Pháp lệnh
Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời quy định tại khoản 5 Điều 33
của Pháp lệnh
được thực hiện theo các quy định
tương ứng của Bộ luật tố tụng dân
sự; do đó, khi áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong trường hợp này Toà án cần
thực hiện theo quy định tại khoản 2
Điều 99, các điều 100, 101, 117, 120, 123, 124, 125 và
126 của Bộ luật tố tụng dân sự và
hướng dẫn tại Nghị quyết số
02/2005/NQ-HĐTP ngày 27 tháng 4 năm 2005 của Hội
đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng
dẫn thi hành một số quy định tại
Chương VIII "Các biện pháp khẩn cấp tạm
thời" của Bộ luật tố tụng dân sự.
15. Về quy định tại
khoản 5 và khoản 6 Điều 37 của Pháp
lệnh
15.1. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hành chính là hai tháng, kể từ ngày
thụ lý vụ án. Chỉ trong trường hợp vụ
án phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì thời hạn chuẩn
bị xét xử tối đa là ba tháng, kể từ ngày
thụ lý vụ án.
a) "Vụ án phức tạp" là vụ án có nhiều
đương sự, có liên quan đến nhiều
lĩnh vực; vụ án có nhiều tài liệu, có các
chứng cứ mâu thuẫn với nhau cần có thêm
thời gian để nghiên cứu tổng hợp các tài
liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc tham khảo ý
kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc cần
phải giám định kỹ
thuật phức tạp; những vụ án mà
đương sự là người nước ngoài
đang ở nước ngoài hoặc người Việt
Nam đang cư trú, học tập, làm việc ở
nước ngoài...
b) "Trở ngại khách quan" là những trở ngại do
hoàn cảnh khách quan tác động như: thiên tai,
địch hoạ, nhu cầu chiến đấu, phục
vụ chiến đấu... làm cho Toà án không thể
giải quyết được vụ án trong thời hạn
quy định.
Ví dụ: Toà án nhân dân huyện B,
tỉnh L ở miền núi đã có quyết định
đưa vụ án ra xét xử trong đó đã ấn
định ngày mở phiên toà. Tuy nhiên, còn hai ngày nữa là
tiến hành mở phiên toà, thì xảy ra lũ quét. Trụ
sở của Toà án nhân dân huyện B bị hư hỏng.
Do phải khắc phục hậu quả của lũ quét,
sửa chữa lại trụ
sở, nên Toà án nhân dân huyện B không thể tiến hành
phiên toà trong thời hạn quy định.
15.2. Trong thời hạn quy
định tại khoản 5 Điều 37 của Pháp
lệnh và được hướng dẫn tại
tiểu mục 15.1 mục này, Thẩm phán được
phân công làm chủ toạ phiên toà phải ra một trong các
quyết định sau đây:
a)
Đưa vụ án ra xét xử;
b)
Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án;
c)
Đình chỉ việc giải quyết vụ án.
15.3. Trường hợp có
quyết định đưa vụ án ra xét xử mà phiên
toà không được mở trong thời hạn hai
mươi ngày, kể từ ngày có quyết định
đưa vụ án ra xét xử vì có lý do chính đáng thì
thời hạn này được cộng thêm tối đa
là mười ngày nữa.
"Lý do chính đáng" là các sự
kiện xảy ra một cách khách quan, không lường
trước được như: cần phải có
sự thay đổi, phân công lại người tiến
hành tố tụng có tên trong quyết định đưa
vụ án ra xét xử mà người có thẩm quyền
chưa cử được người khác thay thế;
vụ án phức tạp đã được xét xử
nhiều lần ở nhiều
cấp Toà án khác nhau, nên không còn đủ Thẩm phán
để tiến hành xét xử vụ án đó mà phải chuyển vụ án cho Toà án
cấp trên xét xử hoặc phải chờ biệt phái Thẩm phán từ Toà án
khác đến... nên cản trở Toà án tiến hành phiên toà
trong thời hạn quy định.
15.4. Trường hợp có
quyết định tạm đình chỉ việc giải
quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét
xử kết thúc vào ngày ra quyết định tạm
đình chỉ. Thời hạn
chuẩn bị xét xử được bắt đầu
tính lại kể từ ngày Toà án tiếp tục giải
quyết vụ án khi lý do tạm đình chỉ không
còn nữa.
16. Về quy định tại
khoản 9 Điều 43 của Pháp lệnh
Trường
hợp trong vụ án có đương sự là
người không sử dụng được tiếng Việt và Toà án đã cử
người phiên dịch, nếu người phiên dịch
vắng mặt tại phiên toà và không có người thay
thế ngay thì Hội đồng xét xử vẫn tiến
hành xét xử, nếu đương sự không sử
dụng được tiếng Việt đó vẫn yêu
cầu tiến hành xét xử (không phụ thuộc vào
việc các đương sự khác có đồng ý hay
không đồng ý việc Hội đồng xét xử
vẫn tiến hành xét xử).
17. Về quy định tại
tại khoản 2 Điều 49 của Pháp lệnh
17.1. Bản án hành chính sơ thẩm cần
phải có các nội dung chính quy định tại khoản 2 Điều 49 của Pháp
lệnh và phải được trình bày tương
tự theo mẫu bản án sơ
thẩm được ban hành kèm theo Nghị quyết
số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 của Hội
đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Trong trường hợp Viện kiểm sát khởi
tố vụ án hành chính thì việc ghi các đương
sự như sau:
a) Thay mục "Nguyên đơn" (Người khởi
kiện) bằng "Viện kiểm sát khởi tố vụ
án hành chính". Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh khởi tố vụ án hành chính thì ghi tên
Viện kiểm sát đó (ví dụ: Viện kiểm sát
khởi tố vụ án hành chính: Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh H.T). Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện khởi tố vụ án hành chính thì ghi tên
Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện đó thuộc tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương nào (ví
dụ: Viện kiểm sát khởi tố vụ án hành chính:
Viện kiểm sát nhân dân huyện G, thành phố H).
b) Thay mục "Bị đơn" (Người bị
kiện) bằng "Người có quyết định hành
chính (hành vi hành chính) bị khởi tố vụ án hành chính
(ví dụ: Người có quyết định hành chính
bị khởi tố vụ án hành chính: Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân phường B, quận H, thành phố H).
17.2. Khi xét xử vụ án hành chính tuỳ vào từng
trường hợp cụ thể mà Toà án có thể có
một hoặc một số quyết định sau
đây:
a) Bác yêu cầu của người khởi kiện,
nếu yêu cầu đó không có căn cứ pháp luật;
b) Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu
cầu của người khởi kiện tuyên huỷ
một phần hoặc toàn bộ quyết định hành
chính trái pháp luật; buộc cơ quan hành chính nhà
nước hoặc người có thẩm quyền trong
cơ quan hành chính nhà nước thực hiện trách
nhiệm công vụ theo quy định của pháp luật;
c) Chấp nhận một phần
hoặc toàn bộ yêu cầu của người khởi
kiện tuyên bố một số hoặc toàn
bộ các hành vi hành chính trái pháp luật; buộc cơ quan
hành chính nhà nước hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước chấm
dứt hành vi hành chính trái pháp luật;
d) Buộc cơ quan hành chính nhà nước bồi
thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức
bị xâm phạm do quyết định hành chính, hành vi hành
chính trái pháp luật gây ra;
đ) Chấp nhận yêu cầu của người
khởi kiện tuyên huỷ quyết định kỷ
luật buộc thôi việc trái pháp luật; buộc
người đứng đầu cơ quan, tổ
chức thực hiện trách nhiệm công vụ theo quy
định của pháp luật; buộc bồi
thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân do quyết định kỷ
luật buộc thôi việc trái pháp luật gây ra.
18. Việc đình
chỉ giải quyết vụ án hành chính ở giai
đoạn phúc thẩm
Theo quy định tại Điều
62 của Pháp lệnh thì trước khi xét xử phúc thẩm, Toà án có quyền đình chỉ
việc giải quyết vụ án theo quy định
của Pháp lệnh. Đồng thời theo quy định
tại điểm đ khoản 2 Điều 64 của
Pháp lệnh thì Toà án cấp phúc thẩm có quyền: "Huỷ
bản án, quyết định sơ thẩm và đình
chỉ việc giải quyết vụ án khi có một trong
các trường hợp quy định tại Điều
41 của Pháp lệnh này"; do đó, để bảo
đảm thống nhất thì trước khi mở phiên
toà phúc thẩm nếu có một
trong các trường hợp quy định tại
Điều 41 của Pháp lệnh, thì Toà án cấp phúc thẩm cũng phải thành
lập Hội đồng xét xử, nếu kết quả
xét xử cho thấy đúng
có một trong các trường hợp quy định
tại Điều 41 của Pháp lệnh thì Toà án
cấp phúc thẩm huỷ bản án hoặc quyết
định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án. Cần chú
ý là nếu huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ
việc giải quyết vụ
án, thì Toà án cấp phúc thẩm ra bản án phúc thẩm;
nếu huỷ quyết định sơ thẩm và
đình chỉ việc giải quyết vụ án, thì Toà án
cấp phúc thẩm ra quyết định phúc thẩm.
19. Về quy định tại Điều 69 của
Pháp lệnh
19.1. Đối với những bản án, quyết
định của Toà án về vụ án hành chính có hiệu
lực pháp luật trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 6
năm 2006 thì thời hạn kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm là sáu tháng, kể từ ngày
bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật; thời hạn kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm là một năm, kể
từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật.
19.2. Đối với những bản án, quyết
định của Toà án về vụ án hành chính có hiệu
lực pháp luật sau 0 giờ 00 ngày 01 tháng 6 năm 2006 thì
thời hạn kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm là một năm,
kể từ ngày bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật; thời hạn kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm là một năm, kể
từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị
biết được căn cứ để kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm quy định
tại khoản 2 Điều 67 của Pháp lệnh.
20. Việc giải quyết khiếu kiện về danh
sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc
hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân quy định tại khoản 18
Điều 11 của Pháp lệnh
Toà án
chỉ thụ lý giải quyết vụ án đối
với khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội
hoặc danh sách cử tri bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân,
nếu nhận được đơn khởi kiện
chậm nhất là năm ngày trước ngày bầu
cử. Khi giải quyết đối với loại
khiếu kiện này Toà án cần thực hiện như sau:
20.1. Ngay sau khi nhận được đơn khởi
kiện đối với khiếu kiện về
danh sách cử tri bầu cử
đại biểu Quốc hội hoặc danh sách cử
tri bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân, Chánh án Toà án (hoặc Phó Chánh án
được Chánh án Toà án
uỷ nhiệm) phân công một Thẩm phán thụ lý ngay
vụ án. Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày
thụ lý vụ án Thẩm phán được phân công
thụ lý vụ án phải ra một trong các quyết
định sau đây:
a) Quyết định
đưa vụ án ra xét xử;
b) Đình chỉ
vụ án và trả lại đơn khởi kiện.
20.2. Ngay sau khi ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án
phải gửi ngay quyết định đó cho các
đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
20.3.
Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải
mở phiên toà xét xử. Bản án hành chính của Toà án
giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri
bầu cử đại biểu Quốc hội hoặc
danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân có hiệu lực thi hành ngay. Các
đương sự không có quyền kháng cáo, Viện
kiểm sát không có quyền kháng nghị. Toà án phải
gửi ngay bản án hành chính cho các đương sự và
Viện kiểm sát cùng cấp.
21. Về việc khởi tố vụ án hành chính
của Viện kiểm sát quy định tại
Điều 18 và khoản 6 Điều 30 của Pháp
lệnh
21.1. Viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ
án hành chính đối với quyết định hành chính,
hành vi hành chính liên quan đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, nếu không có ai khởi kiện. Quyết
định khởi tố vụ án hành chính do Viện
trưởng Viện kiểm sát hoặc Phó Viện
trưởng được Viện trưởng Viện
kiểm sát uỷ nhiệm ký tên và đóng dấu.
21.2. Trường hợp Viện kiểm sát khởi
tố vụ án hành chính thì khi nhận quyết định khởi tố, Toà án yêu cầu
Viện kiểm sát phải có các tài liệu, chứng cứ
kèm theo chứng minh cho việc khởi tố của
Viện kiểm sát là có căn cứ và hợp pháp. Tại
phiên toà Kiểm sát viên phải trình bày quyết định
khởi tố vụ án hành chính, căn cứ của
việc khởi tố và tham gia phiên toà theo thủ tục
chung đối với Kiểm sát viên.
21.3. Trường hợp Viện
kiểm sát đã ra quyết định khởi tố
vụ án hành chính rút quyết định
khởi tố, thì Toà án căn cứ vào Điều 41
của Pháp lệnh ra quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án hành chính, xoá tên vụ án đó
trong sổ thụ lý.
22. Về việc thông báo thụ lý vụ án cho Viện
kiểm sát
22.1. Trong thời hạn năm ngày
làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án theo trình
tự sơ thẩm, Toà án thông báo bằng văn bản cho
Viện kiểm sát cùng cấp về
việc Toà án đã thụ lý vụ án hành chính. Trong
trường hợp thụ lý nhiều vụ án hành chính, Toà án có thể thông báo trong
một văn bản về các vụ án mà Toà án đã
thụ lý. Văn bản thông báo phải có đầy
đủ các nội dung chính quy định tại các
điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 37 của
Pháp lệnh.
22.2. Trong thời hạn năm ngày
làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án theo trình tự phúc thẩm, Toà án thông báo
bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp
về việc Toà án đã thụ
lý vụ án hành chính. Trong trường hợp thụ lý
nhiều vụ án hành chính,
Toà án có thể thông báo trong một văn bản về các
vụ án mà Toà án đã thụ lý. Văn bản thông báo
phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm văn
bản thông báo;
b) Tên, địa chỉ Toà án
đã thông báo;
c) Tên, địa chỉ của
người kháng cáo;
d) Số, ngày, tháng, năm của
bản án hành chính sơ thẩm bị kháng cáo;
đ) Những vấn đề
cụ thể người kháng cáo yêu cầu Toà án cấp
phúc thẩm giải quyết.
23. Về việc chuyển hồ sơ vụ án hành
chính cho Viện kiểm sát
23.1. Trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên
toà sơ thẩm theo
quy định tại khoản 1 Điều 43 của Pháp
lệnh, thì Toà án cấp sơ thẩm gửi hồ sơ
vụ án hành chính cùng với quyết định đưa
vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát nghiên cứu ngay
sau khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử theo quy định tại khoản 7 Điều 37
của Pháp lệnh. Hết thời hạn mười
lăm ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát nhận
được hồ sơ vụ án, Toà án cấp sơ
thẩm yêu cầu Viện kiểm sát phải trả
lại hồ sơ cho Toà án để tiến hành mở
phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án.
23.2. Trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên
toà phúc thẩm theo quy định tại khoản 1
Điều 63 của Pháp lệnh, thì Toà án cấp phúc
thẩm gửi hồ sơ vụ án hành chính cho Viện
kiểm sát nghiên cứu. Hết thời hạn mười
ngày, kể từ ngày Viện
kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án,
Toà án cấp phúc thẩm yêu cầu Viện kiểm sát
phải trả lại hồ sơ vụ án cho Toà án
để tiến hành mở phiên toà xét xử phúc thẩm
vụ án.
23.3. Trường hợp Chánh án Toà án nhân dân tối cao
hoặc Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh kháng nghị giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm, thì Toà án sẽ xét xử giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm phải gửi hồ sơ
vụ án hành chính cùng với quyết định kháng
nghị cho Viện kiểm sát nghiên cứu ngay sau khi Chánh án
ra quyết định kháng
nghị. Hết thời hạn mười lăm ngày,
kể từ ngày Viện kiểm sát nhận
được hồ sơ vụ án, Toà án sẽ xét xử
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm yêu cầu
Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ
vụ án để tiến hành mở phiên toà xét xử giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án.
23.4. Trường hợp Viện kiểm sát có yêu
cầu chuyển hồ sơ vụ án hành chính để xem xét kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, thì
việc chuyển hồ sơ vụ án hành chính
được thực hiện theo hướng dẫn
tại tiểu mục 2.3 mục 2 Phần I Thông tư liên
tịch số 03/2005/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 01-9-2005 của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao
hướng dẫn thi hành một số quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự về
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
dân sự và tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong
việc giải quyết các vụ việc dân sự.
23.5. Trường hợp Viện kiểm sát cần
nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính để xem xét
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, thì Toà án tạo
điều kiện để Viện kiểm sát nghiên
cứu hồ sơ vụ án tại Toà án.
24. Về việc Kiểm sát viên
Viện kiểm sát tham gia phiên toà, phiên họp
24.1. Khoản 1 Điều 43, khoản
1 Điều 63 và khoản 1 Điều 71 của Pháp lệnh quy định Kiểm sát viên Viện kiểm
sát cùng cấp phải tham gia phiên toà; do đó, sau khi thụ lý vụ án hành chính, Toà án
phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp
biết theo hướng dẫn tại mục 22 Nghị
quyết này và yêu cầu Viện kiểm sát cùng cấp phân
công Kiểm sát viên tham gia phiên toà. Trường hợp
vụ án phức tạp, phiên toà có thể kéo dài nhiều
ngày và xét thấy cần thiết thì yêu cầu Viện
kiểm sát phân công Kiểm sát viên dự khuyết. Viện
kiểm sát gửi thông báo bằng văn bản về
việc phân công Kiểm sát viên, Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có) cho Toà án.
Trong văn bản thông báo phải nêu rõ họ, tên của
Kiểm sát viên và Kiểm sát viên
dự khuyết (nếu có) được Viện
trưởng phân công tham gia
phiên toà. Nếu vắng mặt Kiểm sát viên, thì Toà án
phải hoãn phiên toà.
24.2. Pháp lệnh không quy định Kiểm sát viên
Viện kiểm sát cùng cấp phải
tham gia phiên họp trong các trường hợp quy
định tại Điều 61 của Pháp lệnh.
Tuy nhiên, đối với trường hợp xét kháng
nghị của Viện kiểm sát, thì Toà án thông báo cho Viện kiểm sát cùng
cấp biết và yêu cầu Viện kiểm sát phân công
Kiểm sát viên tham gia phiên họp. Trường hợp
Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên họp
vắng mặt có lý do chính đáng và được
Viện kiểm sát thông báo về sự vắng mặt
đó thì Toà án hoãn phiên họp. Ngoài trường hợp này nếu Kiểm sát viên vắng mặt
thì Toà án vẫn tiến hành phiên họp theo thủ tục chung.
25. Về thẩm quyền kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm
Theo quy định tại khoản
1 Điều 55 của Pháp lệnh thì Viện trưởng
Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực
tiếp có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm đối với bản án, quyết định
tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc
giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên,
đối với các vụ án hành chính do Toà án nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, thì
Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng
Viện thực hành công tố và kiểm sát xét xử phúc
thẩm được Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án,
quyết định giải quyết vụ án hành chính
của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật.
26. Về việc Viện kiểm sát thay đổi,
bổ sung kháng nghị quy định tại Điều 58
của Pháp lệnh
26.1. Toà án chấp
nhận việc Viện kiểm sát đã kháng nghị thay
đổi, bổ sung kháng
nghị như sau:
a) Trường hợp chưa
hết thời hạn kháng nghị theo quy định
tại khoản 2 Điều 56 của Pháp lệnh, thì
Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay
đổi, bổ sung kháng nghị mà không bị giới
hạn bởi phạm vi kháng nghị ban đầu.
b) Trường hợp đã
hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại
khoản 2 Điều 56 của Pháp lệnh, thì
trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại
phiên toà người đã kháng nghị có quyền thay
đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không
được vượt quá phạm vi đã kháng nghị
trong thời hạn kháng nghị.
26.2. Việc thay
đổi, bổ sung kháng nghị trước khi mở
phiên toà phải được làm
thành văn bản và gửi cho Toà án cấp phúc thẩm theo
quy định tại khoản 3 Điều 58 của Pháp
lệnh. Việc thay đổi, bổ sung kháng nghị
tại phiên toà phải được ghi vào biên bản
phiên toà.
27. Hiệu lực thi hành của Nghị quyết
27.1. Nghị quyết này
được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao thông
qua ngày 04 tháng 8 năm 2006 và có hiệu lực thi hành sau
mười lăm ngày, kể từ ngày đăng
Công báo.
Nghị quyết này thay thế Nghị quyết số
03/2003/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 4
năm 2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
27.2. Đối với những vụ án hành chính mà Toà án
đã thụ lý nhưng chưa xét xử sơ thẩm, xét
xử phúc thẩm hoặc xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm thì áp dụng hướng dẫn
tại Nghị quyết này để giải quyết.
27.3. Đối với các bản án,
quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật trước ngày Nghị
quyết này có hiệu lực thi hành thì không áp dụng
hướng dẫn tại Nghị quyết này để
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm, trừ trường hợp có những
căn cứ kháng nghị khác.
TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
CHÁNH ÁN
Nguyễn Văn Hiện