Báo cáo 223/BC-UBTVQH12 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật quy hoạch đô thị

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • Tiếng Anh
  • Hiệu lực
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Nội dung MIX

    - Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…

    - Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.

  • Tải về
Mục lục
Tìm từ trong trang
Lưu
Theo dõi văn bản

Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.

Báo lỗi
Ghi chú

thuộc tính Báo cáo 223/BC-UBTVQH12

Báo cáo 223/BC-UBTVQH12 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật quy hoạch đô thị
Cơ quan ban hành: Ủy ban Thường vụ Quốc hộiSố công báo:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Số hiệu:223/BC-UBTVQH12Ngày đăng công báo:Đang cập nhật
Loại văn bản:Báo cáoNgười ký:Nguyễn Đức Kiên
Ngày ban hành:14/05/2009Ngày hết hiệu lực:Đang cập nhật
Áp dụng:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản để xem Ngày áp dụng. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Lĩnh vực: Đất đai-Nhà ở, Xây dựng
Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Ghi chú
Ghi chú: Thêm ghi chú cá nhân cho văn bản bạn đang xem.
Hiệu lực: Đã biết
Tình trạng: Đã biết

UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

--------------------

Số: 223/BC-UBTVQH12

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

-----------------------

Hà Nội, ngày 14 tháng 5 năm 2009

 

 

BÁO CÁO

GIẢI TRÌNH, TIẾP THU, CHỈNH LÝ DỰ THẢO LUẬT QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
----------------------------

 

Kính thưa: Các vị đại biểu Quốc hội,

 

Dự thảo Luật quy hoạch đô thị đã được Quốc hội thảo luận cho ý kiến tại kỳ họp thứ 4. Ngay sau kỳ họp, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra, Cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan nghiên cứu nghiêm túc, đầy đủ ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội để chỉnh lý dự thảo Luật, chuẩn bị Báo cáo giải trình tiếp thu và gửi xin ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội, đồng thời tiếp tục lấy ý kiến các nhà khoa học, các hiệp hội và tổ chức có liên quan.

Qua báo cáo của các Đoàn đại biểu Quốc hội cho thấy, đa số ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với sự cần thiết ban hành, tên gọi, phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng và nội dung chủ yếu của dự thảo Luật. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đóng góp vào các nội dung cụ thể cũng như câu chữ, kỹ thuật lập pháp.

Trên cơ sở ý kiến của các Đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan, Ủy ban thường vụ Quốc hội tiếp tục chỉ đạo chỉnh lý dự thảo Luật để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 5. So với dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 4, Dự thảo mới gồm 77 điều, giảm 4 điều, trong đó bỏ 5 điều, nhập 8 điều, bổ sung 5 điều, sửa đổi nội dung và chỉnh lý kỹ thuật, văn phong 71 điều.

Ủy ban thường vụ Quốc hội xin báo cáo về việc giải trình, tiếp thu chỉnh lý dự thảo Luật này như sau:

1. Về sự cần thiết ban hành Luật quy hoạch đô thị

Có ý kiến đề nghị không ban hành Luật quy hoạch đô thị mà chỉ cần sửa những nội dung liên quan đến quy hoạch đô thị trong Luật xây dựng; có ý kiến đề nghị cần có Luật chung về quy hoạch.

Ủy ban thường vụ Quốc hội xin giải trình như sau:

Luật xây dựng hiện hành có 1 Chương quy định về quy hoạch xây dựng, trong đó có quy hoạch xây dựng đô thị. Tuy nhiên, quy định của Luật mới chỉ mang tính nguyên tắc, thiếu các quy định cụ thể về quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch cũng như các quy định về quy hoạch hệ thống hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ đô thị. Quy trình, thủ tục về lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch còn phức tạp, tốn nhiều thời gian. Các quy định về lấy ý kiến cộng đồng khi lập quy hoạch cũng như việc công khai, cung cấp thông tin quy hoạch chưa đầy đủ và chưa phù hợp với điều kiện thực tế. Sự phân công, phân cấp trong quản lý quy hoạch đô thị còn bất cập. Trách nhiệm của chính quyền đô thị trong quản lý các vấn đề đặc thù của đô thị, nhất là quản lý kiến trúc, cảnh quan đô thị chưa được thiết lập đầy đủ, rõ ràng dẫn đến lúng túng, trùng lắp và kém hiệu quả trong quá trình thực hiện. Một số vấn đề quan trọng khác như quy hoạch và quản lý không gian ngầm, kinh phí, nhân lực cho công tác lập và triển khai quy hoạch cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch... còn thiếu quy định cụ thể, chưa tạo ra được một hệ thống cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị. Mặt khác, do tính chất phức tạp và đặc thù của các loại quy hoạch nên cần điều chỉnh trong các luật chuyên ngành. Hơn nữa, thực tế cho thấy việc ban hành Luật chuyên ngành càng cụ thể, chi tiết, càng dễ thực thi trong cuộc sống, do đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng việc ban hành Luật này là cần thiết.

2. Về tên gọi của Luật

Nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội nhất trí với tên gọi của Luật là Luật quy hoạch đô thị. Tuy nhiên cũng có ý kiến đề nghị lấy tên của Luật là “Luật quản lý đô thị”, “Luật quy hoạch và xây dựng đô thị”, “Luật xây dựng và phát triển đô thị”, “Luật quy hoạch và quản lý đô thị”, “Luật quy hoạch xây dựng”, “Luật quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị” .

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, quản lý đô thị bao gồm quản lý mọi mặt của đời sống đô thị như quản lý về kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, vệ sinh môi trường, an toàn giao thông.... trong đó có công tác quy hoạch đô thị và quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch. Hiện nay, ở hầu hết các đô thị của cả nước đều có tình trạng là công tác quy hoạch phát triển đô thị và quản lý thực hiện quy hoạch còn nhiều mặt yếu kém. Các hoạt động trong đô thị hiện đang được điều chỉnh ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật về kinh tế, văn hóa, giao thông, xây dựng... Luật này chỉ điều chỉnh về quy hoạch đô thị và quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch đô thị được duyệt. Vì vậy, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ tên gọi của Luật như đã trình Quốc hội.

3. Về phạm vi điều chỉnh của Luật quy hoạch đô thị (Điều 1)

- Nhiều ý kiến tán thành với phạm vi điều chỉnh của Luật. Một số ý kiến đề nghị mở rộng phạm vi để điều chỉnh cả khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu, khu công nghiệp, khu dân cư nông thôn; bổ sung các quy định về khai thác và sử dụng đô thị; quy hoạch xây dựng vùng đô thị và chiến lược phát triển đô thị Việt Nam, cũng như quy định về quy hoạch hạ tầng xã hội; bổ sung quy định về định hướng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị quốc gia để làm căn cứ cho việc lập, thẩm định, phê duyệt và điều chỉnh quy hoạch đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, Luật quy hoạch đô thị điều chỉnh hoạt động quy hoạch đô thị (đô thị hiện có và đô thị mới), phạm vi đô thị bao gồm nội thành, nội thị và ngoại thành, ngoại thị. Đối với các khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu, khu công nghiệp, thị tứ, khu dân cư nông thôn không phải là đô thị thì việc lập và thực hiện quy hoạch xây dựng được áp dụng theo quy định của Luật xây dựng, Luật đầu tư và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Đối với ý kiến đề nghị bổ sung quy định về khai thác và sử dụng đô thị, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, vấn đề này liên quan đến nhiều lĩnh vực như khai thác sử dụng các công trình giao thông, điện lực, viễn thông, văn hóa... và đang được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật chuyên ngành có liên quan. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, dự án Luật đã bổ sung Điều 18 quy định về Định hướng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị quốc gia. Theo đó, chiến lược phát triển đô thị Việt Nam và quy hoạch xây dựng vùng đô thị được thể hiện trong Định hướng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị quốc gia.

- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hoạt động quy hoạch đô thị, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất trong khu vực quy hoạch.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, dự thảo Luật này đã có quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình lập, thẩm định, phê duyệt và tổ chức thực hiện quy hoạch đô thị; quyền của tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến và giám sát các hoạt động quy hoạch đô thị. Các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đã được quy định tại Luật đất đai và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.

Với những lý do trên, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị xin được giữ phạm vi điều chỉnh và chỉnh lý về kỹ thuật của Điều 1 như trong dự thảo Luật.

4. Về áp dụng pháp luật (Điều 3)

Có ý kiến đề nghị bỏ Điều này vì nguyên tắc áp dụng pháp luật đã được quy định cụ thể tại Điều 83 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.

Ủy ban thường vụ Quốc hội tán thành ý kiến này và bỏ Điều quy định về áp dụng pháp luật.

5. Về mối quan hệ giữa Luật quy hoạch đô thị với các luật khác có liên quan, giữa quy hoạch đô thị với các quy hoạch khác

- Có ý kiến đề nghị, cần bảo đảm sự thống nhất giữa Luật này với Luật xây dựng, Luật đất đai, Luật đê điều và các luật khác có liên quan.

Ủy ban thường vụ Quốc hội đã yêu cầu rà soát các văn bản pháp luật có liên quan và chỉnh lý dự thảo Luật này để bảo đảm sự thống nhất giữa Luật quy hoạch đô thị với các luật khác có liên quan. Đồng thời, để áp dụng thống nhất về cùng một nội dung “quy hoạch xây dựng đô thị” trong Luật xây dựng và “quy hoạch đô thị” trong Luật này đối với các đô thị và các khu vực trong đô thị, xin được bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 75 như sau:

“2. Kể từ ngày Luật này có hiệu lực, các quy định trong Luật xây dựng về quy hoạch xây dựng ở các đô thị và các khu vực trong đô thị được thay thế bằng các quy định của Luật này.”

- Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể về thứ tự ưu tiên giữa quy hoạch đô thị với các quy hoạch khác, ví dụ như quy hoạch phát triển giao thông đô thị, quy hoạch ngành giáo dục, y tế... để bảo đảm sự thống nhất của các loại quy hoạch trong đô thị; quy định rõ quy hoạch nào làm chuẩn để các quy hoạch khác phải theo.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, theo Luật quy hoạch đô thị thì các quy hoạch ngành trong đô thị phải dựa trên quy hoạch chung đô thị. Trong trường hợp đã có quy hoạch ngành được phê duyệt thì khi lập quy hoạch chung đô thị hoặc điều chỉnh quy hoạch chung, cơ quan có trách nhiệm tổ chức lập, thẩm định và phê duyệt phải bảo đảm các quy hoạch trong đô thị không có sự chồng chéo, mâu thuẫn với nhau.

Đối với quy hoạch sử dụng đất trong đô thị và quy hoạch đô thị, về bản chất, hai loại quy hoạch này đều có nội dung liên quan tới việc xác định mục đích, chức năng sử dụng đất cho các khu vực trong đô thị. Mục tiêu và nhiệm vụ của quy hoạch đô thị là căn cứ vào tiềm năng, yêu cầu phát triển trước mắt và lâu dài của từng đô thị, từng khu vực cụ thể để xác định quy mô, ranh giới, tính chất, chức năng của từng khu đất trong đô thị, đồng thời quy định về nguyên tắc việc kiểm soát phát triển cho từng khu vực đó về mặt không gian, kiến trúc, cảnh quan, hạ tầng kỹ thuật... Do đó, nội hàm của quy hoạch đô thị đã bao gồm cả quy hoạch sử dụng đất trong đô thị. Vì vậy, trong đô thị chỉ lập quy hoạch đô thị, không lập quy hoạch sử dụng đất riêng theo quy định của Luật đất đai.

6. Về giải thích từ ngữ (Điều 3)

- Có ý kiến đề nghị làm rõ khái niệm đô thị, đô thị mới, đô thị hiện có và một số tiêu chí của các khái niệm này.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, khái niệm “đô thị”, “đô thị mới”... tại Điều giải thích từ ngữ là quy định chung mang tính định tính, còn các tiêu chí cụ thể của từng loại đô thị được quy định tại khoản 1 Điều 4 của dự thảo Luật. Do đó, xin được giữ những nội dung chính của các khái niệm trên và chỉnh lý về mặt kỹ thuật như trong dự thảo Luật.

- Có ý kiến đề nghị quy định rõ quy hoạch đô thị phải phản ánh đầy đủ các nội dung về hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật, quy hoạch giao thông, dân số v.v...

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, khái niệm quy hoạch đô thị được giải thích ở khoản 4 Điều 3 là việc tổ chức không gian đô thị, hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội để tạo lập môi trường sống thích hợp cho người dân sống trong đô thị. Như vậy, khái niệm này đã phản ánh các nội dung về hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật, quy hoạch giao thông, dân số... như ý kiến của đại biểu Quốc hội.

- Có ý kiến đề nghị bỏ quy định giải thích từ ngữ, đưa các nội dung này vào các điều luật cụ thể; không cần thiết giải thích khái niệm đô thị hiện có; làm rõ các khái niệm chứng chỉ quy hoạch, giấy phép quy hoạch; bổ sung giải thích các khái niệm thiết kế đô thị, công trình ngầm, môi trường đô thị, hạ tầng kỳ thuật, hạ tầng xã hội... Một số ý kiến góp ý về nội dung cụ thể của các khái niệm các chỉ tiêu sử dụng đất, hạ tầng kỹ thuật khung, không gian ngầm.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, để tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có thể hiểu và áp dụng pháp luật thì trong kỹ thuật lập pháp hiện nay, những thuật ngữ mang tính chuyên môn, chuyên ngành được giải thích tại điều quy định về giải thích từ ngữ trong Chương những quy định chung; các từ ngữ khác được giải thích tại các điều cụ thể. Do đó, xin Quốc hội cho giữ điều về giải thích từ ngữ trong dự thảo Luật.

Về một số ý kiến đề nghị bỏ, sửa đổi hoặc bổ sung giải thích một số từ ngữ được sử dụng trong dự thảo Luật, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo nghiên cứu, rà soát cụ thể và tiếp thu theo hướng bỏ các quy định về giải thích các từ ngữ đã thông dụng, dễ hiểu và sửa đổi, bổ sung giải thích một số từ ngữ mang tính chuyên ngành cho dễ hiểu hơn và thể hiện như trong dự thảo Luật.

7. Về phân loại đô thị (Điều 4)

Về vấn đề này có ba loại ý kiến:

- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị không phân loại đô thị trong dự thảo Luật mà giao Chính phủ quy định cho phù hợp với từng thời kỳ.

- Loại ý kiến thứ hai đề nghị quy định rõ tiêu chí phân loại đô thị ngay trong Luật.

- Loại ý kiến thứ ba cho rằng việc phân loại đô thị theo dự thảo Luật chưa phù hợp và đề nghị Chính phủ báo cáo thêm về tác dụng của phân loại đô thị, quan hệ giữa phân loại đô thị với phân cấp hành chính, giữa phân loại đô thị với quy hoạch đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, trên thực tế việc xây dựng và phát triển các đô thị ở nước ta còn nhiều mặt bất cập. Quy mô đô thị rất đa dạng, nhiều đô thị có phạm vi hành chính khá rộng nên dẫn đến những bất cập trong công tác quản lý do liên quan tới nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, thuỷ lợi, thủy sản, công nghiệp... trong khi tổ chức bộ máy quản lý của chính quyền đô thị còn hạn chế; việc đầu tư xây dựng đô thị bị dàn trải...

Để khắc phục những tồn tại trên, việc phân loại đô thị là cần thiết nhằm nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong việc quản lý và đầu tư phát triển đô thị, bảo đảm cho các đô thị phát triển đồng bộ theo chiều sâu, cân đối, hài hoà và bền vững, đồng thời, làm cơ sở để xây dựng các cơ chế, chính sách và giải pháp cụ thể để bảo đảm sự phù hợp giữa năng lực quản lý, đầu tư và phạm vi, quy mô đô thị. Mỗi loại đô thị có mức độ khác nhau về vai trò, ý nghĩa, quy mô, chất lượng đòi hỏi yêu cầu về tổ chức và biện pháp quản lý cũng khác nhau. Việc phân loại đô thị là cơ sở để xác định trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc tổ chức lập quy hoạch và phê duyệt quy hoạch đô thị, đồng thời xác định cấp quản lý hành chính cho phù hợp đối với từng đô thị.

Trên cơ sở đó, dự thảo Luật quy định về phân loại đô thị có tính nguyên tắc, làm cơ sở để Chính phủ quy định cụ thể nhằm bảo đảm tính linh hoạt trong quản lý điều hành, vì các tiêu chí về phân loại đô thị có thể thay đổi theo tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Điều 4 được chỉnh lý và thể hiện như trong dự thảo Luật.

8. Về nguyên tắc tuân thủ quy hoạch đô thị (Điều 5)

Có ý kiến đề nghị bổ sung nguyên tắc “công khai” trong cả lập và điều chỉnh quy hoạch đô thị. Có ý kiến đề nghị chỉ quy định các nguyên tắc và yêu cầu chung đối với hoạt động quy hoạch. Có ý kiến cho rằng tên điều chưa phù hợp với nội dung của điều. Có ý kiến đề nghị gộp Điều 5 với Điều 6 và sửa tên điều thành "Nguyên tắc quy hoạch đô thị”.

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, nguyên tắc công khai trong lập, điều chỉnh quy hoạch đô thị đã được quy định tại Điều 54 của dự thảo Luật. Nội dung của Điều 5 quy định về tính pháp lý của quy hoạch đã được phê duyệt, còn nội dung Điều 6 quy định về các yêu cầu đối với quy hoạch đô thị, do vậy xin không gộp chung hai điều này.

- Có ý kiến đề nghị bổ sung nguyên tắc tuân thủ Quy định quản lý đô thị, Quy chế quản lý đô thị đã được phê duyệt.

Tiếp thu ý kiến này, Điều 5 đã bổ sung nguyên tắc tuân thủ Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị. Còn Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị đã được ban hành kèm theo đồ án quy hoạch đô thị nên nguyên tắc tuân thủ quy hoạch đô thị đã bao gồm việc tuân thủ Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch đô thị được duyệt.

9. Về yêu cầu đối với quy hoạch đô thị (Điều 6)

- Có ý kiến đề nghị thể hiện lại Điều này cho gọn hơn và theo nhóm yêu cầu để tránh trùng lặp. Có ý kiến đề nghị các yêu cầu quy định tại Điều này chỉ áp dụng đối với các đô thị mới còn đô thị đã ổn định thì không lập quy hoạch.

- Có ý kiến đề nghị bổ sung một số yêu cầu như thói quen của người dân, tính bền vững của quy hoạch, mật độ dân cư, dân trí, mặt bằng văn hóa, tính hiện đại, tính kế thừa, tính dân tộc, môi trường, các ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, tiết kiệm tối đa quỹ đất, bảo đảm quốc phòng, an ninh, an toàn, phòng thủ dân sự như phòng chống động đất, ngập lụt, hỏa hoạn, khủng bố... khoảng cách giữa khu công nghiệp với khu đô thị, tính công khai, minh bạch, tính đồng bộ, hiện đại và các yêu cầu khác về hạ tầng kỹ thuật.

- Có ý kiến đề nghị quy định về bảo vệ quyền lợi của người dân bị tác động bởi quy hoạch đô thị và “quy hoạch treo”; bảo vệ lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong quá trình cải tạo, mở rộng đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, nội dung của Điều này là các quy định chung về yêu cầu đối với quy hoạch đô thị, trong đó có cả việc lập mới quy hoạch đô thị và điều chỉnh quy hoạch đối với các đô thị đã có quy hoạch. Theo đó, quy hoạch đô thị phải đáp ứng các yêu cầu như bảo đảm khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đất đai đô thị, các nguồn lực phát triển phù hợp với điều kiện tự nhiên, đặc điểm văn hoá, lịch sử, kinh tế – xã hội của đô thị nhằm tạo thuận lợi cho việc phát triển và tăng trưởng kinh tế; bảo đảm quốc phòng an ninh, kết hợp hài hoà giữa lợi ích quốc gia, cộng đồng và cá nhân... Việc bảo vệ tài sản và quyền sử dụng đất hợp pháp của người dân bị ảnh hưởng bởi quy hoạch đã được quy định tại Điều 63. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, để bảo đảm tính chính xác và khái quát, Điều 6 đã được chỉnh lý từ 11 khoản xuống còn 7 khoản theo các nhóm vấn đề như trong dự thảo Luật.

10. Về trình tự lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch đô thị (Điều 7)

- Đa số ý kiến cho rằng, quy định trình tự lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch đô thị như dự thảo Luật là đầy đủ. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng việc thực hiện trong thực tế rất khó, vì vậy, cần quy định chế tài cụ thể ngay trong Luật.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, để bảo đảm chất lượng của quy hoạch đô thị thì hoạt động quy hoạch đô thị phải tuân thủ theo trình tự quy định tại Điều này. Các chế tài để xử lý các vi phạm của tổ chức, cá nhân trong hoạt động quy hoạch được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về hành chính, dân sự, hình sự.

- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về điều tra, khảo sát, thu thập tài liệu, số liệu về điều kiện tự nhiên, hiện trạng kinh tế- xã hội, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội và phát triển quy hoạch phát triển ngành có liên quan để lập đồ án quy hoạch đô thị; bổ sung quy định về triển khai quy hoạch đô thị và quản lý xây dựng theo quy hoạch.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, việc điều tra, khảo sát, thu thập tài liệu, số liệu về điều kiện tự nhiên, hiện trạng kinh tế- xã hội... là những công việc cụ thể được tiến hành trong quá trình lập quy hoạch đô thị nên sẽ được quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật; việc triển khai quy hoạch đô thị và quản lý xây dựng theo quy hoạch đã được quy định tại Chương V, vì vậy xin không bổ sung quy định các vấn đề nêu trên tại Điều này.

11. Về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong việc tham gia ý kiến và giám sát các hoạt động quy hoạch đô thị (Điều 8)

Có ý kiến cho rằng, quy định tại khoản 1 Điều này khó thực hiện, cần quy định phạm vi tham gia ý kiến và tham gia giám sát.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, quy định về quyền tham gia ý kiến, giám sát về quy hoạch đô thị là quy định có tính nguyên tắc. Phạm vi tham gia ý kiến của các tổ chức, cá nhân về quy hoạch đô thị được thực hiện theo quy định tại Điều 21 và Điều 22 của dự thảo Luật. Phạm vi giám sát của các tổ chức, cá nhân đối với hoạt động quy hoạch đô thị đã được quy định trong các luật có liên quan như Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở... Vì vậy, xin không bổ sung quy định cụ thể về phạm vi tham gia ý kiến và phạm vi giám sát của các tổ chức, cá nhân tại Điều này.

12. Về lưu trữ hồ sơ đồ án quy hoạch đô thị (Điều 9)

Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về phân cấp đối với cơ quan lưu trữ hồ sơ về quy hoạch đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, dự thảo Luật đã quy định các cơ quan quản lý về quy hoạch đô thị, quản lý đất đai các cấp có trách nhiệm lưu giữ hồ sơ về quy hoạch đô thị. Việc lưu trữ hồ sơ về quy hoạch đô thị được thực hiện theo quy định của pháp luật về lưu trữ, vì vậy xin được giữ như quy định của dự thảo Luật.

13. Về điều kiện của tổ chức tư vấn, cá nhân tham gia lập quy hoạch đô thị (Điều 10)

- Có ý kiến cho rằng việc quy định tổ chức, cá nhân nước ngoài lập quy hoạch đô thị tại Việt Nam phải được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam công nhận là không cần thiết. Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể điều kiện của tổ chức, cá nhân lập quy hoạch đô thị, đặc biệt là tổ chức, cá nhân nước ngoài.

Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng, quy định các tổ chức, cá nhân nước ngoài muốn hành nghề quy hoạch đô thị tại Việt Nam phải tuân theo pháp luật Việt Nam và phải được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam công nhận để bảo đảm sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động này và bảo đảm chất lượng của quy hoạch đô thị. Đối với tổ chức hoạt động lập quy hoạch đô thị phải có đủ các điều kiện về tư cách pháp nhân, số lượng cá nhân làm công tác chuyên môn quy hoạch đô thị trong tổ chức đó, điều kiện, phương tiện kỹ thuật, kinh nghiệm hoạt động lập quy hoạch đô thị... Đối với cá nhân thì cần có các điều kiện về chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp tùy thuộc vào vị trí, chức danh của cá nhân. Do đó, các điều kiện cụ thể của tổ chức, cá nhân lập quy hoạch đô thị nên để quy định cụ thể trong văn bản hướng dẫn thi hành Luật.

- Có ý kiến đề nghị quy định rõ cơ quan có thẩm quyền xét, công nhận điều kiện, năng lực của tổ chức tư vấn, cá nhân tham gia lập quy hoạch đô thị; quy định thẩm quyền, trình tự cấp chứng chỉ hành nghề.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, đây là những vấn đề cụ thể, nên khoản 4 Điều này đã giao Chính phủ quy định.

- Có ý kiến đề nghị quy định rõ về năng lực tài chính của các tổ chức tư vấn và cá nhân tham gia lập quy hoạch nhằm nâng cao trách nhiệm và bảo đảm việc bồi thường thiệt hạị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, tổ chức tư vấn và cá nhân tham gia lập quy hoạch đô thị phải đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký hành nghề theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Trong trường hợp gây thiệt hại thì căn cứ vào hợp đồng đã được ký kết mà tổ chức, cá nhân phải bồi thường theo quy định của pháp luật về dân sự. Do đó, xin không bổ sung điều kiện này.

14. Về lựa chọn tổ chức tư vấn lập quy hoạch đô thị (Điều 11)

Có ý kiến cho rằng quy định về lựa chọn tổ chức, cá nhân thực hiện lập quy hoạch đô thị còn chung chung, chưa bảo đảm việc lựa chọn tổ chức, cá nhân có đủ năng lực; quy định về quy trình tuyển chọn không rõ ràng; chưa có quy định cụ thể về khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia công tác tư vấn quy hoạch đô thị. Có ý kiến đề nghị áp dụng quy định của Luật đấu thầu để lựa chọn tổ chức, cá nhân thực hiện công tác quy hoạch đô thị.

Tiếp thu ý kiến của đại biểu, Điều này đã được chỉnh sửa và quy định rõ việc lựa chọn tổ chức tư vấn lập quy hoạch thông qua hình thức chỉ định và thi tuyển.

15. Về kinh phí cho công tác lập và tổ chức thực hiện quy hoạch đô thị (Điều 12)

- Có ý kiến cho rằng ngân sách đầu tư cho quy hoạch còn hạn chế; ngân sách của cấp huyện không thể bảo đảm cho việc lập quy hoạch; đề nghị bổ sung quy định về nguồn vốn cho công tác quy hoạch. Có ý kiến cho rằng quy định nguồn kinh phí tại Điều này chưa phù hợp với nội dung công việc quy định tại Điều 7. Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể kinh phí cho công tác lập và tổ chức thực hiện quy hoạch đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, Điều 12 đã xác định rõ các nguồn kinh phí cho công tác lập và tổ chức thực hiện quy hoạch đô thị. Việc xác định cụ thể các khoản chi cho từng hoạt động trong công tác quy hoạch được thực hiện theo quy định của Chính phủ phù hợp với Luật ngân sách nhà nước.

- Có ý kiến đề nghị quy định bổ sung kinh phí dành cho việc lập Quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc đô thị; bổ sung quy định giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn sử dụng kinh phí cho công tác quy hoạch đô thị

Tiếp thu ý kiến này, dự thảo Luật đã được bổ sung điểm e khoản 3 và khoản 4 Điều 12.

Ngoài ra, tiếp thu ý kiến của đại biểu, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cho rà soát quy định về việc sử dụng kinh phí tại Điều này cho phù hợp với trình tự lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch đô thị tại Điều 7.

16. Về nội dung quản lý nhà nước về quy hoạch đô thị (Điều 13)

- Có ý kiến đề nghị quy định Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các đô thị lớn phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quy hoạch và quản lý đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý, kiến thức chuyên môn nói chung và kiến thức về quy hoạch đô thị cho cán bộ lãnh đạo là cần thiết. Đây là một trong những nội dung của quản lý nhà nước đã được xác định tại khoản 6 Điều 13 của dự thảo Luật và cũng đã được quy định cụ thể tại các văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức.

- Có ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp trong hoạt động quy hoạch đô thị; quy định trường hợp tổ chức, cá nhân được quyền khiếu kiện đến tòa án.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động quy hoạch đô thị tuân theo các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Việc giải quyết tranh chấp giữa các bên trong hoạt động quy hoạch đô thị được thực hiện theo các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và pháp luật về giải quyết các tranh chấp kinh tế. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân đã được quy định trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân. Do đó, xin không bổ sung quy định về vấn đề trên trong Luật này.

- Có ý kiến đề nghị bổ sung một số nội dung quản lý nhà nước như: Quản lý công tác cấp giấy phép, cấp chứng chỉ trong hoạt động quy hoạch đô thị; công tác lập, phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch đô thị; lập, thẩm định, phê duyệt đồ án quy hoạch đô thị; công tác thông tin, lưu trữ hồ sơ về quy hoạch đô thị; tổ chức bộ máy quản lý hoạt động quy hoạch đô thị...

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, các nội dung nêu trên đều thuộc hoạt động quy hoạch đô thị. Do đó, tiếp thu ý kiến đại biểu, Điều 13 đã bổ sung khoản 4 quy định về quản lý các hoạt động quy hoạch đô thị.

17. Về trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động quy hoạch đô thị (Điều 14)

- Có ý kiến đề nghị việc phân cấp quản lý nhà nước về quy hoạch đô thị chỉ nên dừng lại ở cấp tỉnh để tránh tình trạng quy hoạch manh mún, không gắn kết với quy hoạch tổng thể.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, quy hoạch đô thị có nhiều loại khác nhau từ quy hoạch chung đến quy hoạch chi tiết; đồng thời đô thị cũng nhiều loại khác nhau. Để đề cao tính chủ động, tính tự chịu trách nhiệm của các cấp và phù hợp với chủ trương phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, khoản 4 Điều 14 quy định Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý nhà nước về quy hoạch đô thị. Đồng thời, để bảo đảm tính thống nhất, tránh tình trạng manh mún trong quá trình lập và triển khai thực hiện quy hoạch đô thị thì dự thảo Luật đã có các quy định về nguyên tắc tuân thủ quy hoạch đô thị (Điều 5), yêu cầu đối với quy hoạch đô thị (Điều 6), căn cứ lập quy hoạch đô thị (Điều 25) và nội dung thẩm định nhiệm vụ và đồ án quy hoạch đô thị (Điều 44).

- Có ý kiến đề nghị quy định rõ vai trò của Sở Xây dựng hoặc Sở Quy hoạch kiến trúc về quản lý nhà nước về quy hoạch đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, Sở Quy hoạch kiến trúc ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là cơ quan giúp Ủy ban nhân dân thành phố về công tác quản lý quy hoạch đô thị. Ở các địa phương không có Sở Quy hoạch kiến trúc thì Sở Xây dựng giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về công tác quản lý quy hoạch đô thị. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này do Chính phủ quy định[1], vì vậy, xin không bổ sung vấn đề này.

18. Về thanh tra quy hoạch đô thị (Điều 15)

Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể về nội dung thanh tra, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra chuyên ngành về quy hoạch đô thị. Có ý kiến cho rằng dự thảo Luật quy định về thanh tra quy hoạch đô thị là không thống nhất với Luật thanh tra.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, Luật quy hoạch đô thị chỉ quy định mang tính nguyên tắc về thanh tra quy hoạch đô thị. Công tác thanh tra về quy hoạch đô thị do Thanh tra xây dựng thực hiện chứ không tổ chức thành bộ máy riêng. Do đó, vấn đề thanh tra quy hoạch đô thị không quy định thành chương riêng mà quy định thành một điều mang tính nguyên tắc (Điều 15). Các vấn đề cụ thể về thanh tra quy hoạch đô thị sẽ do Chính phủ quy định phù hợp với Luật thanh tra.

19. Về Hội đồng kiến trúc quy hoạch và Kiến trúc sư trưởng (Điều 16)

Về Hội đồng Kiến trúc quy hoạch:

Nhiều ý kiến tán thành quy định cụ thể trong Luật về Hội đồng Kiến trúc quy hoạch; có ý kiến đề nghị không quy định mang tính bắt buộc tất cả các địa phương phải có Hội đồng Kiến trúc quy hoạch; có ý kiến đề nghị thành lập Hội đồng Kiến trúc quy hoạch cấp trung ương để tham mưu, tư vấn cho Chính phủ về quy hoạch đô thị.

Về Kiến trúc sư trưởng có hai loại ý kiến khác nhau:

- Loại ý kiến thứ nhất, đề nghị trên cơ sở kết quả tổng kết kinh nghiệm về mô hình Kiến trúc sư trưởng của Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1992 - 2001, cần có thiết chế Kiến trúc sư trưởng nhằm bảo đảm sự thống nhất về không gian, kiến trúc, cảnh quan trong quá trình phát triển và giữ gìn bản sắc của đô thị; đề nghị quy định về Kiến trúc sư trưởng theo hướng việc lập chức danh này căn cứ vào yêu cầu quản lý về quy hoạch, kiến trúc đối với các loại đô thị và theo quy định của Chính phủ.

Thiết chế Kiến trúc sư trưởng bao gồm Kiến trúc sư trưởng là chức danh cá nhân, bộ máy giúp việc và hệ thống các quy định để bảo đảm cho Kiến trúc sư trưởng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Kiến trúc sư trưởng đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Kiến trúc quy hoạch ở đô thị có Kiến trúc sư trưởng.

- Loại ý kiến thứ hai, đề nghị không nên quy định có chức danh Kiến trúc sư trưởng vì cơ chế quản lý đầu tư, xây dựng hiện nay rất khó cho việc thực hiện vai trò của Kiến trúc sư trưởng. Việc tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc Trung ương vẫn nên giao cho cơ quan chuyên môn (Sở Xây dựng hoặc Sở Quy hoạch kiến trúc); có ý kiến đề nghị không nên quy định cứng trong Luật mà trước mắt nên để Chính phủ thực hiện thí điểm lại mô hình Kiến trúc sư trưởng.

Sau khi cân nhắc các ý kiến trên, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, xét về mặt tổ chức, Hội đồng Kiến trúc quy hoạch và Kiến trúc sư trưởng có chức năng tư vấn, tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thành phố thuộc tỉnh, thị xã về những vấn đề có liên quan đến quy hoạch đô thị không phải là những thiết chế thuộc hệ thống bộ máy hành chính nhà nước. Do đó, chỉ nên quy định trong Luật theo hướng Hội đồng Kiến trúc quy hoạch và Kiến trúc sư trưởng được thành lập theo quy định của Chính phủ phù hợp với yêu cầu quản lý, phát triển đô thị của các địa phương.

20. Về các hành vi bị cấm (Điều 17)

- Có ý kiến cho rằng những hành vi bị cấm quy định tại Điều này không bao quát hết những hành vi phát sinh trên thực tế. Có ý kiến đề nghị chỉ nên quy định cấm những hành vi của người dân, không quy định cấm đối với cơ quan nhà nước.

- Có ý kiến đề nghị bổ sung hành vi can thiệp trái pháp luật trong phê duyệt, thẩm định; hành vi vi phạm đến di tích lịch sử và đặc trưng văn hóa của địa phương; hành vi gây hiểm họa đến đời sống của cộng đồng dân cư.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, quy định hành vi bị cấm trong hoạt động đô thị là nhằm nhấn mạnh việc tuân thủ các quy định của Luật này, thể hiện tính giáo dục, răn đe, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về quy hoạch đô thị. Trên thực tế, các hành vi vi phạm pháp luật đều là các hành vi bị cấm. Quy định về các hành vi bị cấm là quy định chung cho các chủ thể không phân biệt cơ quan nhà nước hay người dân để bảo đảm sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật.

21. Các loại quy hoạch đô thị (Điều 19)

Có ý kiến đề nghị nên phân thành 2 loại quy hoạch đô thị: quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết, không nên có quy hoạch phân khu. Có ý kiến đề nghị quy định về hồ sơ, tỷ lệ bản đồ ngay trong Luật.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, trong quy hoạch chung đô thị có phân các khu chức năng, có khu chức năng nằm trên địa bàn nhiều quận, phường... Mặt khác, quy hoạch chung mang tính định hướng xác định các mô hình, cấu trúc phát triển không gian đô thị nên chưa đủ cơ sở để lập quy hoạch chi tiết vì vậy cần có quy hoạch phân khu nhằm cụ thể hóa một bước quy hoạch chung làm cơ sở cho việc lập quy hoạch chi tiết.

Về hồ sơ, tỷ lệ bản đồ quy hoạch mang tính chuyên môn, kỹ thuật, do đó không quy định cụ thể trong dự thảo Luật.

22. Về trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch (Điều 20)

Về trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch đô thị còn có 2 loại ý kiến:

- Loại ý kiến thứ nhất, đề nghị quy định giao Bộ xây dựng giúp Chính phủ tổ chức lập quy hoạch chung cho đô thị loại đặc biệt, hiện nay là Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, vì đây là các đô thị có quy mô lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quốc gia, có sự ảnh hưởng lan tỏa với khu vực xung quanh. Qua thực tế tổ chức lập quy hoạch xây dựng vùng Thủ đô Hà Nội và vùng Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, việc tổ chức lập quy hoạch chung hai đô thị này phải được đặt trong mối quan hệ với các vùng xung quanh, bảo đảm khai thác và sử dụng hợp lý tiềm năng, lợi thế, tài nguyên thiên nhiên, đất đai đô thị và các nguồn lực khác cho phát triển chung của cả vùng. Mặc khác, cần có sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương liên quan nhằm bảo đảm chất lượng và tính khả thi của các quy hoạch. Quy định thẩm quyền tổ chức lập quy hoạch chung đô thị loại đặc biệt cho Bộ Xây dựng là nhằm đáp ứng các yêu cầu trên. Tuy nhiên, để làm rõ trách nhiệm chủ trì, phối hợp của Bộ Xây dựng với địa phương trong việc tổ chức lập quy hoạch đô thị, đề nghị chỉnh lý quy định tại khoản 1 Điều 20 như sau: “Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức lập quy hoạch chung thành phố trực thuộc Trung ương là đô thị loại đặc biệt”.

- Loại ý kiến thứ hai, đề nghị giao thẩm quyền tổ chức lập quy hoạch đô thị loại đặc biệt cho Ủy ban nhân dân các đô thị này vì các lý do sau đây:

- Một là, chính quyền đô thị là người nắm vững, đầy đủ, sâu sắc, toàn diện cả về thực trạng, triển vọng, yêu cầu phát triển đô thị. Do đó, Ủy ban nhân dân các đô thị này tổ chức lập quy hoạch đô thị của mình sẽ bảo đảm gắn liền quy hoạch đô thị với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, bảo đảm cho việc giải quyết các vấn đề bức xúc của thực tiễn trên địa bàn để phát triển đô thị sát thực hơn. Đồng thời, khi Ủy ban nhân dân các đô thị loại đặc biệt tổ chức lập quy hoạch chung đô thị thì Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm thẩm định từ nhiệm vụ quy hoạch đến nội dung đồ án quy hoạch. Do đó, sẽ bảo đảm sự thống nhất giữa quy hoạch chung các đô thị này với Định hướng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị quốc gia, quy hoạch xây dựng vùng, quy hoạch các ngành cũng như yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc thẩm định sẽ mang tính khách quan và là cơ sở quan trọng giúp Thủ tướng Chính phủ khi phê duyệt quy hoạch các đô thị này.

- Hai là, việc chính quyền các đô thị này tổ chức lập quy hoạch đô thị của mình sẽ bảo đảm cho bộ máy chính quyền từ thành phố đến quận, huyện, xã, phường được tham gia trực tiếp vào việc đề ra nhiệm vụ quy hoạch, các ý tưởng, giải pháp quy hoạch... từ đó, nâng cao trách nhiệm của các cấp chính quyền đối với công tác quy hoạch đô thị. Việc tổ chức lập quy hoạch đô thị sẽ giúp chính quyền địa phương nắm chắc, làm chủ được quy hoạch, từ đó tạo thuận lợi và tăng cường tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền trong đô thị đối với việc thực hiện quy hoạch đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội cho thiết kế 2 phương án quy định tại Điều 20 của dự thảo Luật trình Quốc hội xem xét, quyết định.

- Đối với thẩm quyền tổ chức lập quy hoạch đô thị của Ủy ban nhân dân, có ý kiến đề nghị không giao cho UBND cấp huyện tổ chức lập quy hoạch đô thị đối với các đô thị thuộc quyền quản lý của cấp này. Ngược lại, có ý kiến tán thành quy định giao cho UBND cấp huyện tổ chức lập quy hoạch đô thị vì đây chỉ là cơ quan tổ chức lập quy hoạch, còn việc lập quy hoạch sẽ do các tổ chức có đủ điều kiện thực hiện theo hợp đồng với Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng, việc giao Ủy ban nhân dân cấp huyện tổ chức lập quy hoạch đô thị là phù hợp với xu hướng cải cách hành chính hiện nay, tăng tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong quy hoạch đô thị. Mặt khác, việc lập quy hoạch đô thị sẽ do các tổ chức tư vấn có đủ điều kiện lập quy hoạch đô thị, kể cả các tổ chức tư vấn nước ngoài, thực hiện theo hợp đồng với Ủy ban nhân dân cấp huyện chứ không phải Ủy ban nhân dân cấp này trực tiếp lập quy hoạch đô thị. Tuy nhiên, để làm rõ thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện, dự thảo Luật đã chỉnh lý theo hướng quy định rõ thẩm quyền tổ chức lập quy hoạch đô thị của Ủy ban nhân dân quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện thuộc thành phố trực thuộc Trung ương và Ủy ban nhân dân huyện thuộc tỉnh như trong dự thảo Luật.

- Có ý kiến đề nghị quy định Bộ Xây dựng chỉ tổ chức lập quy hoạch chung đô thị mới có quy mô dân số dự báo tương đương với đô thị loại I hoặc loại II hoặc loại III trở lên.

Tiếp thu ý kiến này, dự thảo Luật đã chỉnh sửa và quy định Bộ Xây dựng tổ chức lập quy hoạch chung đô thị mới có quy mô dân số dự báo tương đương với đô thị loại III trở lên.

23. Về lấy ý kiến về quy hoạch đô thị (Điều 21 và Điều 22)

- Có ý kiến đề nghị quy định chi tiết về cấp có thẩm quyền lấy ý kiến, đối tượng lấy ý kiến, tập trung lấy ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học, tổ chức có  liên quan, đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp, Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận tổ quốc cấp xã, các tổ chức đoàn thể và các tổ chức cơ sở như: thôn, làng, buôn, bản, ấp, các hộ dân trong khu giải phóng mặt bằng thì mới hiệu quả, thực chất.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, việc lấy ý kiến về quy hoạch đô thị là thể hiện tính dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác quy hoạch, do đó ngoài việc lấy ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học, cơ quan, tổ chức có có liên quan nhằm bảo đảm chất lượng quy hoạch thì việc lấy ý kiến của người dân trong khu vực bị tác động bởi quy hoạch là rất cần thiết để bảo vệ quyền lợi của họ. Việc lấy ý kiến của cộng đồng dân cư đã được quy định tại khoản 3 Điều 22. Đối với việc xin ý kiến đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp, tiếp thu ý kiến này dự thảo Luật đã được bổ sung quy định tại khoản 6 Điều 45 như sau:

“6. Ủy ban nhân dân thành phố, thị xã, thị trấn có trách nhiệm báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp về quy hoạch chung đô thị trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

Cơ quan có trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch đô thị phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố, thị xã, thị trấn trong việc báo cáo Hội đồng nhân dân về quy hoạch chung đô thị của thành phố, thị xã, thị trấn”.

- Có ý kiến đề nghị quy định thời gian lấy ý kiến dài hơn.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, trong dự thảo Luật chỉ quy định thời gian tối thiểu dành cho việc lấy ý kiến là 30 ngày, còn tùy theo loại đồ án quy hoạch và tính phức tạp của đồ án quy hoạch mà cơ quan có trách nhiệm quyết định thời gian cụ thể của việc lấy ý kiến.

- Có ý kiến cho rằng việc lấy ý kiến cộng đồng dân cư về đồ án quy hoạch đô thị qua đại diện của cộng đồng dân cư là không hợp lý dễ phát sinh khiếu kiện; việc lấy ý kiến đối với đồ án quy hoạch đô thị cần phù hợp với Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, hình thức lấy ý kiến của đại diện cộng đồng dân cư chỉ áp dụng đối với đồ án quy hoạch chung, còn đối với các quy hoạch còn lại đều lấy ý kiến của cả cộng đồng dân cư như quy định tại Điều 22.

- Có ý kiến đề nghị quy hoạch của Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh phải trình Quốc hội hoặc xin ý kiến Quốc hội trước khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, theo quy định tại Điều 45 của dự thảo Luật thì Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch đô thị loại đặc biệt. Trước khi phê duyệt, quy hoạch chung đô thị này phải được báo cáo Hội đồng nhân dân theo quy định tại khoản 6 Điều 45. Do đó, xin giữ như quy định của dự thảo Luật.

24. Nội dung nhiệm vụ quy hoạch đô thị (Điều 24)

- Có ý kiến đề nghị quy định chỉ quy hoạch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị, văn hóa, lịch sử, kinh tế xã hội của quốc gia mới phải có nhiệm vụ quy hoạch.

Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng, nhiệm vụ quy hoạch là yêu cầu để làm cơ sở cho việc nghiên cứu lập đồ án quy hoạch đô thị vì vậy tất cả các quy hoạch đô thị đều phải lập nhiệm vụ quy hoạch.

- Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung bảo tồn di sản thiên nhiên và văn hóa lịch sử; phòng và giảm nhẹ thiên tai; bảo vệ môi trường; khu vực cấm hoặc hạn chế xây dựng.

Các vấn đề trên thuộc nội dung đánh giá môi trường chiến lược trong quy hoạch đô thị. Tiếp thu ý kiến này, Dự thảo Luật đã được bổ sung Mục 6 Chương II quy định về đánh giá môi trường chiến lược trong quy hoạch đô thị.

25. Về đồ án quy hoạch đô thị và thời hạn quy hoạch (từ Điều 26 đến 31)

- Về đồ án quy hoạch đô thị, có ý kiến đề nghị quy định cụ thể về tiêu chí cây xanh, sông hồ... và kết cấu hạ tầng xã hội trong quy hoạch chung; không nên lập thành đồ án riêng về quy hoạch hạ tầng kỹ thuật mà nên lồng ghép vào đồ án chung.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, đồ án quy hoạch chung đô thị bao gồm nội dung xác định chỉ tiêu cơ bản về hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật của đô thị, trong đó có nội dung xác định chỉ tiêu cây xanh, mặt nước trong đồ án quy hoạch đô thị. Tuy nhiên, để bảo đảm quản lý các khu vực cây xanh, mặt nước theo quy hoạch đô thị được duyệt, dự thảo Luật đã bổ sung Điều 69 quy định về quản lý cây xanh, công viên, cảnh quan tự nhiên và mặt nước.

Đối với đồ án quy hoạch hạ tầng kỹ thuật thì nội dung quy hoạch này đã được lồng ghép trong các đồ án quy hoạch đô thị. Riêng đối với thành phố trực thuộc Trung ương, quy hoạch hạ tầng kỹ thuật trong đồ án quy hoạch chung chỉ mang tính định hướng, do đó, cần phải lập đồ án quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật để bảo đảm yêu cầu về thông số và giải pháp kỹ thuật làm cơ sở triển khai các dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật khung và lập quy hoạch phân khu.

- Về thời hạn quy hoạch đô thị: Có ý kiến đề nghị quy hoạch đô thị phải có tầm nhìn dài hạn; có ý kiến đề nghị thời hạn quy hoạch của các đô thị là như nhau để tránh tình trạng quy hoạch nhỏ phá vỡ quy hoạch lớn; có ý kiến đề nghị thời hạn của các loại quy hoạch, như: từ 3 đến 5 năm đối với quy hoạch chi tiết; từ 10 - 20 năm, 20 năm, 30 đến 50 năm, 100 năm, 150 năm hoặc xa hơn đối với quy hoạch chung.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, khi lập quy hoạch đô thị phải xác định thời hạn quy hoạch để làm cơ sở dự báo, tính toán các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật cho việc phát triển. Quy hoạch đô thị phải dự báo một cách khoa học để đáp ứng yêu cầu thực tế và xu thế phát triển lâu dài. Do vậy, quy định về thời hạn quy hoạch đô thị từ 20 đến 25 năm, tầm nhìn đến 50 năm là căn cứ vào tình hình thực tế của Việt Nam và yêu cầu ổn định, bền vững của quy hoạch. Thời hạn quy hoạch cần mang tính định hướng, chiến lược có tầm nhìn dài hạn và không bị lệ thuộc vào nhiệm kỳ của chính quyền các cấp sẽ tránh được tư duy nhiệm kỳ trong công tác quy hoạch. Thời gian trên cũng không quá dài, phù hợp với sự thay đổi, vận động của các quan hệ kinh tế, xã hội, khi cần thiết có thể thay đổi quy hoạch.

Quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết là cụ thể hóa quy hoạch chung, vì vậy, về nguyên tắc, thời hạn của các quy hoạch này phải phù hợp với thời hạn quy hoạch chung. Tuy nhiên, việc tổ chức lập quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết còn phụ thuộc vào kế hoạch thực hiện quy hoạch chung, theo yêu cầu quản lý, phát triển đô thị và nhu cầu đầu tư. Do vậy, xin được quy định như dự thảo Luật.

- Có ý kiến đề nghị sửa quy định về tỷ lệ bản đồ như: bản đồ quy hoạch thị trấn là 1/2.000 hoặc 1/5.000; bản đồ quy hoạch đô thị loại IV trở lên tỷ lệ 1/5.000 hoặc 1/10.000 hoặc 1/25.000; bản đồ đô thị từ loại III đến loại V tỉ lệ 1/2.000 hoặc 1/5.000 hoặc 1/1.000...

Việc quy định tỷ lệ các loại bản đồ quy hoạch trong dự thảo Luật đã được tính toán dựa trên yêu cầu quản lý và nội dung của từng loại đồ án quy hoạch, vì vậy đề nghị không quy định bổ sung bản đồ tỷ lệ khác.

26. Về cải tạo, chỉnh trang đô thị; phát triển khu đô thị mới và trục đường mới trong đô thị (Điều 32)

Có ý kiến đề nghị quy định về cải tạo, chỉnh trang đô thị thành một mục riêng hoặc thành 2 điều; đồng thời cân nhắc lợi ích của đất nước và người dân khi cải tạo, chỉnh trang đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, vấn đề cải tạo và chỉnh trang đô thị luôn gắn liền với nhau nên không quy định riêng. Trong hoạt động quy hoạch đô thị nói chung và quy hoạch để cải tạo chỉnh trang đô thị nói riêng, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng bởi quy hoạch đều được bảo vệ theo quy định tại Điều 74 của dự thảo Luật và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

- Có ý kiến đề nghị phạm vi lập quy hoạch chi tiết các trục đường mới tối thiểu là 100m; đề nghị quy định tại khoản 3 Điều này cũng được áp dụng đối với các trục đường hiện có trong đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, phạm vi lập quy hoạch tối thiểu quy định tại khoản 3 Điều này là phù hợp với yêu cầu quản lý về cảnh quan, kiến trúc đô thị và khả năng thực hiện quy hoạch. Đối với các trục đường hiện có trong đô thị thì việc chỉnh trang được thực hiện thông qua thiết kế đô thị để không ảnh hưởng đến quyền sở hữu và sử dụng các công trình của các tổ chức, cá nhân trên trục đường hiện có.

27. Về thiết kế đô thị (Điều 33)

- Có ý kiến đề nghị bỏ quy định các đường phố cũ trong đô thị phải được lập đồ án thiết kế đô thị. Có ý kiến đề nghị quy định rõ về nội dung, tiêu chí thẩm định như cảnh quan, tầng cao, điểm lùi.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, đối với các đường phố cũ trong đô thị đã nằm trong phạm vi các khu vực đô thị đã cơ bản ổn định chức năng sử dụng của các lô đất thì việc thiết kế đô thị để quản lý kiến trúc, cảnh quan đô thị là cần thiết. Do đó, nội dung này đã được lồng ghép vào khoản 2 Điều này.

Việc thẩm định thiết kế đô thị dựa trên nội dung thiết kế đô thị cho từng loại đồ án quy định tại Điều 34, trong đó đã bao hàm các tiêu chí trên.

28. Về nội dung thiết kế đô thị (Điều 34)

Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về không gian ngầm của đô thị trong nội dung thiết kế đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng, thiết kế đô thị nhằm bảo đảm cảnh quan, kiến trúc đô thị. Không gian ngầm là không gian dưới mặt đất để sử dụng cho mục đích xây dựng công trình ngầm đô thị nên không ảnh hưởng đến không gian, cảnh quan đô thị, do đó không phải là đối tượng của thiết kế đô thị.

29. Về Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị (Điều 35)

- Có ý kiến đề nghị không nên quy định ủy quyền ban hành Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch đô thị và thiết kế đô thị cho Ủy ban nhân dân trực tiếp quản lý đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, quy định cơ quan phê duyệt quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị có trách nhiệm ban hành Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị là phù hợp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp thẩm quyền phê duyệt quy hoạch đô thị thuộc Thủ tướng Chính phủ thì việc ban hành Quy định quản lý do Ủy ban nhân dân các đô thị thực hiện. Để bảo đảm sự thống nhất với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị chỉnh lý Điều này theo hướng không quy định về ủy quyền ban hành văn bản mà quy định cụ thể về thẩm quyền ban hành Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị.

- Có ý kiến cho rằng quy định lấy ý kiến của đại diện nhân dân trong khu vực quy hoạch trước khi ban hành Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch chi tiết và đồ án thiết kế đô thị là khó có tính khả thi.

Tiếp thu ý kiến này, dự thảo Luật đã bỏ quy định tại khoản 4 Điều này.

30. Về đối tượng của quy hoạch hạ tầng kỹ thuật đô thị (Điều 37)

- Có ý kiến đề nghị bổ sung đối tượng của quy hoạch hạ tầng kỹ thuật đô thị như: công trình văn hóa, công viên, cây xanh, hồ nước, vệ sinh công cộng... công trình về quốc phòng và an ninh; hệ thống thoát nước, xử lý nước thải đô thị, xử lý chất thải sinh hoạt.

- Có ý kiến đề nghị xem lại cụm từ “chuẩn bị kỹ thuật đất xây dựng” vì đây không phải là đối tượng; bổ sung quy định về vấn đề cốt nền trong khoản 2 để tránh tình trạng xây dựng ở khu vực này sẽ làm ảnh hưởng đến khu vực khác, ví dụ gây ngập lụt như ở TP HCM.

Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã sử dụng cụm từ “cao độ nền và thoát nước mặt đô thị” thay cho cụm từ “chuẩn bị kỹ thuật đất xây dựng” để bảo đảm phù hợp với đối tượng quy hoạch hạ tầng kỹ thuật. Đối với các công trình văn hóa, lịch sử, trường học, bệnh viện, cây xanh ... là các công trình hạ tầng xã hội đã được thể hiện tại các điều trong dự thảo Luật quy định về đồ án quy hoạch đô thị.

31. Về cơ quan thẩm định nhiệm vụ và đồ án quy hoạch đô thị (Điều 42)

- Có ý kiến đề nghị quy định đô thị loại đặc biệt cần phải được thẩm định nhiệm vụ và đồ án quy hoạch bởi Hội đồng thẩm định nhà nước.

Ủy ban thường vụ Quốc hội tán thành với ý kiến trên, đề nghị quy định Thủ tướng Chính phủ thành lập Hội đồng thẩm định nhà nước để thẩm định các đồ án quy hoạch đô thị loại đặc biệt do Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân tổ chức lập. Thành phần Hội đồng thẩm định quy hoạch đô thị loại đặc biệt có đại diện các bộ, ngành có liên quan.

- Có ý kiến cho rằng quy định giao Bộ Xây dựng thẩm định các quy hoạch đô thị do Bộ Xây dựng tổ chức lập là chưa bảo đảm tính khách quan.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, Bộ Xây dựng không trực tiếp lập đồ án quy hoạch đô thị mà chỉ là cơ quan có trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch. Việc lập quy hoạch do các đơn vị tư vấn thực hiện. Vì vậy, quy định Bộ Xây dựng thẩm định các đồ án quy hoạch đô thị thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có các quy hoạch đô thị do Bộ Xây dựng tổ chức lập vẫn bảo đảm tính khách quan và phù hợp với quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ trong lĩnh vực quy hoạch đô thị.

32. Về thẩm quyền phê duyệt nhiệm vụ và đồ án quy hoạch đô thị (Điều 45)

- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về thẩm quyền phê duyệt quy hoạch đô thị của Quốc hội đối với các thành phố trực thuộc Trung ương và Hội đồng nhân dân các cấp đối với các đô thị ở địa phương; bổ sung quy định Chính phủ báo cáo Quốc hội cho ý kiến về quy hoạch chung của đô thị đặc biệt trước khi phê duyệt; quy hoạch đô thị trực thuộc tỉnh thì phải được Hội đồng nhân dân thông qua. Có ý kiến đề nghị quy định rõ thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng và UBND cấp tỉnh trong phê duyệt quy hoạch đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng, Quốc hội có vai trò quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước... làm cơ sở cho công tác lập quy hoạch đô thị. Quy hoạch của các thành phố trực thuộc Trung ương được báo cáo Hội đồng nhân dân trước khi phê duyệt. Vì vậy, xin không quy định thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê duyệt hoặc cho ý kiến về quy hoạch đô thị của địa phương.

Để bảo đảm quyền giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các vấn đề quy hoạch đô thị của địa phương, dự thảo Luật bổ sung quy định Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp về quy hoạch đô thị trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt tại khoản 6 Điều này.

- Có ý kiến đề nghị xem xét lại quy định về việc báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp về quy hoạch chung trước khi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền vì mâu thuẫn với việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện và phường như hiện nay; quy định rõ hình thức báo cáo Hội đồng nhân dân và giá trị pháp lý của hình thức báo cáo này.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, điểm a khoản 1 Điều 19 của dự thảo Luật quy định “Quy hoạch chung được lập cho thành phố trực thuộc trung ương, thành phố thuộc tỉnh, thị xã , thị trấn và các đô thị mới”; khoản 6 Điều 45 của dự thảo Luật quy định “Ủy ban nhân dân thành phố, thị xã, thị trấn có trách nhiệm báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp về quy hoạch chung đô thị trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt”. Như vậy, ở quận, huyện và phường không có quy hoạch chung đô thị nên không phải thực hiện việc báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp. Do đó, quy định của dự thảo Luật về vấn đề này không liên quan đến việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường ở một số địa phương.

Về hình thức báo cáo Hội đồng nhân dân và giá trị pháp lý của hình thức báo cáo này được thực hiện theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.

- Có ý kiến đề nghị không quy định thẩm quyền phê duyệt nhiệm vụ và đồ án các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết cho UBND cấp huyện vì thực tế hiện nay cấp huyện không đủ khả năng.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, dự thảo Luật chỉ giao Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt nhiệm vụ và đồ án các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết các khu vực trong ranh giới hành chính do mình quản lý như: quy hoạch chi tiết thị trấn; quy hoạch phân khu thuộc các đô thị từ loại II trở xuống, quy hoạch chi tiết đô thị không thuộc khu vực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị, văn hoá, lịch sử, kinh tế - xã hội của quốc gia, khu vực có ý nghĩa quan trọng và các khu vực trong đô thị mới. Trước khi phê duyệt phải có ý kiến thống nhất bằng văn bản của cơ quan quản lý quy hoạch đô thị cấp tỉnh. Do đó, việc phê duyệt các loại quy hoạch trên là phù hợp với năng lực của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

- Có ý kiến đề nghị quy định Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đối với đô thị mới có quy mô dân số dự báo tương đương với đô thị loại I, loại II, loại III trở lên.

Tiếp thu ý kiến này của đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật quy định về thẩm quyền phê duyệt quy hoạch đô thị của Thủ tướng Chính phủ đối với đô thị mới có quy mô dân số dự báo tương đương với đô thị loại III trở lên.

- Có ý kiến đề nghị chỉ quy định đối với đồ án quy hoạch chung các đô thị loại II trở lên phải có ý kiến bằng văn bản của Bộ xây dựng trước khi phê duyệt.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, theo quy định tại Điều 18 của dự thảo Luật, Bộ Xây dựng có trách nhiệm tổ chức lập Định hướng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị quốc gia trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Do đó, để bảo đảm định hướng phát triển của các đô thị phù hợp với Định hướng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị quốc gia thì quy hoạch chung các đô thị từ loại IV trở lên cần có ý kiến bằng văn bản của Bộ Xây dựng trước khi phê duyệt.

33. Về rà soát quy hoạch đô thị (Điều 47)

Có ý kiến cho rằng, thời hạn rà soát quy hoạch chung, quy hoạch phân khu 5 năm là quá ngắn, nên quy định 10 năm, thời hạn rà soát quy hoạch chi tiết nên quy định trên 3 năm. Ngược lại, có ý kiến cho rằng, thời hạn rà soát quy hoạch chung, quy hoạch phân khu 5 năm là quá dài, nên quy định 3 năm; thời hạn rà soát quy hoạch chi tiết là 2 năm.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, rà soát quy hoạch đô thị là việc cần được tiến hành thường xuyên nhằm kịp thời phát hiện các bất cập nếu có của quy hoạch đô thị đã được phê duyệt. Kết quả rà soát chỉ là một căn cứ để có thể điều chỉnh quy hoạch được duyệt; không phải rà soát sẽ tất yếu dẫn đến điều chỉnh quy hoạch. Quy hoạch đô thị chỉ được điều chỉnh khi hội đủ các căn cứ, điều kiện quy định tại Điều 48 của dự thảo Luật. Trên thực tế, việc rà soát quy hoạch đô thị đã được thực hiện theo thời hạn trên từ nhiều năm nay, qua tổng kết thấy không có gì vướng mắc. Do đó, xin được giữ thời hạn rà soát quy hoạch đô thị như dự thảo Luật.

34. Về điều kiện điều chỉnh quy hoạch đô thị (Điều 48)

- Có ý kiến đề nghị quy định việc điều chỉnh quy hoạch không bị phụ thuộc bởi tư duy nhiệm kỳ; những yếu tố nào không được điều chỉnh, yếu tố nào khi điều chỉnh phải đưa ra lấy ý kiến công khai, minh bạch; bổ sung quy định về sự phối hợp giữa Bộ xây dựng với các bộ chuyên ngành trong việc điều chỉnh quy hoạch đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy việc lập, tổ chức thực hiện quy hoạch phải bảo đảm tính thống nhất, lâu dài. Việc điều chỉnh quy hoạch phải tuân thủ các điều kiện, nguyên tắc chặt chẽ, không phụ thuộc vào “tư duy nhiệm kỳ” của người lãnh đạo. Việc điều chỉnh quy hoạch nói chung, quy hoạch đô thị nói riêng là cần thiết khi các căn cứ lập quy hoạch thay đổi. Khi điều chỉnh quy hoạch phải thực hiện các trình tự như việc lập quy hoạch đô thị. Việc phối hợp giữa các bộ ngành, địa phương, trong việc điều chỉnh quy hoạch đô thị là trách nhiệm của các cơ quan trong quá trình lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch đã được quy định tại Chương II của dự thảo Luật. Do đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin được giữ như quy định của dự thảo Luật.

- Có ý kiến đề nghị bổ sung trường hợp điều chỉnh quy hoạch đô thị như: trường hợp các điều kiện tự nhiên về địa lý, tự nhiên có biến động lớn như sụt lở, lũ lụt, động đất và yếu tố khác; do sự điều chỉnh tách, sáp nhập địa giới hành chính.

Tiếp thu ý kiến đại biểu, Điều 48 đã được chỉnh sửa và bổ sung các trường hợp trên.

35. Về trình tự tiến hành điều chỉnh cục bộ quy hoạch đô thị (Điều 52) và điều chỉnh đối với một lô đất trong khu vực quy hoạch (Điều 53)

Có ý kiến đề nghị việc tiến hành điều chỉnh cục bộ quy hoạch đô thị, điều chỉnh đối với một lô đất trong khu vực quy hoạch không phải trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch.

Ủy ban thường vụ thấy rằng, việc điều chỉnh cục bộ quy hoạch đô thị, điều chỉnh đối với một lô đất trong khu vực quy hoạch có ảnh hưởng đến quy hoạch đô thị được duyệt và không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị, do đó cần phải được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền phê duyệt để tránh sự tùy tiện trọng việc điều chỉnh quy hoạch.

36. Về công bố công khai quy hoạch đô thị (Điều 54)

- Có ý kiến đề nghị quy định rõ về mức độ công khai; quy định cụ thể từng điều riêng việc công bố công khai từng loại quy hoạch đô thị bao gồm thẩm quyền, nội dung, hình thức công bố công khai quy hoạch đối với quy hoạch chung, quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết để khi Luật ban hành là thực hiện được, không cần văn bản hướng dẫn.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, đối với từng loại đồ án quy hoạch có mức độ công khai khác nhau, nếu quy định trong Luật thì rất chi tiết, do đó Luật này chỉ quy định mang tính nguyên tắc về việc công khai quy hoạch đô thị và giao Bộ Xây dựng hướng dẫn cụ thể tại khoản 4 Điều 54.

- Có ý kiến đề nghị quy định không công khai các công trình ngầm và công trình quốc phòng, an ninh.

Ủy ban thường vụ Quốc hội xin tiếp thu ý kiến đại biểu và đề nghị không công bố công khai các công trình liên quan đến quốc phòng, an ninh. Đối với quy hoạch các công trình ngầm khác thì tùy theo tính chất, mức độ quan trọng sẽ có nội dung công khai phù hợp.

37. Về cung cấp thông tin về quy hoạch đô thị (Điều 56)

- Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định về thu phí khi cung cấp thông tin về quy hoạch đô thị tại khoản 5 Điều này vì không có quy định về loại phí này trong Pháp lệnh phí và lệ phí. Có ý kiến đề nghị không thu phí đối với trường hợp tổ chức, cá nhân yêu cầu cung cấp các thông tin quy hoạch để phục vụ cho mục đích an ninh, quốc phòng.

Tiếp thu ý kiến trên, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin không quy định về thu phí đối với việc cung cấp thông tin về quy hoạch đô thị tại dự thảo Luật này.

- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định cụ thể về tổ chức, cá nhân nào có quyền yêu cầu và thời hạn mà cơ quan quản lý quy hoạch đô thị các cấp phải cung cấp thông tin khi nhận được yêu cầu để bảo đảm quyền được cung cấp thông tin của các tổ chức, cá nhân.

- Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, dự thảo Luật đã có quy định tại Điều 56 về cung cấp thông tin. Theo đó, cơ quan quản lý quy hoạch đô thị các cấp có trách nhiệm cung cấp thông tin về quy hoạch đô thị đã được phê duyệt cho các tổ chức, cá nhân khi có yêu cầu. Việc cung cấp thông tin được thực hiện dưới các hình thức giải thích quy hoạch đô thị và cấp chứng chỉ quy hoạch. Còn thời hạn cung cấp thông tin sẽ được quy định cụ thể tại các văn bản hướng dẫn thi hành Luật căn cứ vào các điều kiện thực tế và khả năng đáp ứng yêu cầu của các cơ quan quản lý quy hoạch đô thị. Do đó, xin giữ các quy định về cung cấp thông tin như trong dự thảo Luật.

38. Về cấp Chứng chỉ quy hoạch (Điều 57)

Có ý kiến đề nghị không quy định về việc cấp Chứng chỉ quy hoạch vì thủ tục phức tạp, nhiều giấy tờ gây khó khăn cho các tổ chức, cá nhân trong hoạt động quy hoạch.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, Chứng chỉ quy hoạch là văn bản trích lục các số liệu và thông tin liên quan của một khu vực hoặc lô đất theo đồ án quy hoạch đô thị được duyệt và quy định về quản lý kiến trúc quy hoạch đã được ban hành. Cấp chứng chỉ quy hoạch là một trong các hình thức cung cấp thông tin về quy hoạch được thực hiện khi có yêu cầu của các tổ chức, cá nhân với thủ tục đơn giản. Do đó, xin giữ như quy định của dự thảo Luật.

39. Về Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị (Điều 61)

Có ý kiến đề nghị thị trấn không cần thiết phải ban hành Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị là công cụ quan trọng để bảo đảm việc quản lý toàn diện không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị. Do đó, thị trấn cũng cần có Quy chế để quản lý quy hoạch, kiến trúc nhằm phát triển đô thị theo hướng văn minh, hiện đại và có bản sắc theo đúng quy hoạch đã được duyệt.

40. Về chuẩn bị quỹ đất để phát triển đô thị theo quy hoạch (Điều 63)

- Có ý kiến đề nghị quy định về giải phóng mặt bằng phải đề cập đến vấn đề thu hồi đất, hạn chế quyền của người có bất động sản như quyền xây dựng, giao dịch bất động sản trong thời gian chờ đợi giải phóng mặt bằng; chính sách bồi thường phù hợp; quy định rõ Nhà nước hay chủ đầu tư phải bồi thường cho dân khi thu hồi.

- Có ý kiến đề nghị cần có quy định để xác định thời điểm của các công trình xây dựng trong khu vực quy hoạch; đề nghị quy định sau 3 năm kể từ thời điểm công bố quy hoạch chi tiết mà Nhà nước không thu hồi đất, thì người sử dụng đất có quyền xây dựng.

- Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể đối với diện tích đất nhỏ thì Nhà nước phải chủ động thoả thuận với người sử dụng đất để thu hồi.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, việc bồi thường, giải phóng mặt bằng được thực hiện theo các quy định của pháp luật về đất đai; việc hạn chế quyền của người có bất động sản trong khu vực quy hoạch được thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng. Đối với các công trình được phép xây dựng tạm khi chờ thực hiện quy hoạch đô thị thì chỉ tồn tại trong thời hạn nhất định được quy định trong Giấy phép xây dựng, hết thời hạn chủ sở hữu công trình phải tự động tháo dỡ và không được bồi thường theo quy định của Luật xây dựng.

Đối với việc thu hồi phần diện tích đất nhỏ, không bảo đảm yêu cầu xây dựng, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin tiếp thu và quy định Nhà nước chủ động thu hồi những diện tích còn lại không đáp ứng được nhu cầu xây dựng để hạn chế tình trạng nhà “siêu mỏng, siêu nhỏ”, bảo đảm mỹ quan đô thị khi thực hiện dự án đầu tư phát triển hạ tầng đô thị theo quy hoạch chứ không chỉ thu hồi khi có đề nghị của người sử dụng đất.

41. Về quản lý đất dành cho xây dựng hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật (Điều 64)

Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc không thu hồi đất của người dân để giao cho người khác sử dụng với cùng mục đích.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, việc thu hồi, bồi thường cho người có đất bị thu hồi thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đất đai, còn việc xác định mục đích sử dụng đất được thực hiện theo quy hoạch đô thị đã được phê duyệt. Do đó, xin không bổ sung nội dung này.

42. Về Giấy phép quy hoạch (Điều 72)

Có ý kiến đề nghị bỏ quy định về Giấy phép quy hoạch.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, Giấy phép quy hoạch là văn bản do cơ quan có thẩm quyền cấp cho chủ đầu tư làm căn cứ lập quy hoạch chi tiết hoặc lập dự án đầu tư xây dựng công trình. Việc cấp Giấy phép quy hoạch là cần thiết đối với các khu vực chưa có quy hoạch chi tiết và thiết kế đô thị được duyệt.

43. Về quản lý phát triển đô thị mới, khu đô thị mới (Điều 73)

Có ý kiến đề nghị có quy định về thẩm quyền quản lý đô thị mới; giao Ủy ban cấp tỉnh quản lý việc xây dựng đô thị mới theo quy hoạch.

Tiếp thu ý kiến của đại biểu, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin bổ sung nội dung quản lý phát triển đô thị mới, khu đô thị mới như trong dự thảo Luật.

44. Về hướng dẫn thi hành (Điều 75)

Có ý kiến đề nghị thời điểm có hiệu lực của Luật này bắt đầu từ ngày 01/07/2009 thay vì ngày 01/01/2010.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, theo thông lệ và để có thời gian triển khai thi hành Luật trước khi Luật có hiệu lực thì sau khi được Quốc hội thông qua cần có khoảng 6 tháng. Hơn nữa, Luật quy hoạch đô thị là Luật mới nên cần có thời gian để ban hành các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật. Do đó, xin được giữ thời điểm có hiệu lực như dự thảo Luật.

Ngoài các vấn đề trên đây, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội về các nội dung cụ thể, về từ ngữ, kỹ thuật văn bản và thể hiện như trong dự thảo Luật.

*

*        *

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Trên đây là Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật quy hoạch đô thị, Ủy ban thường vụ Quốc hội kính trình Quốc hội xem xét, quyết định./.

 

 

TM. UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

PHÓ CHỦ TỊCH

(đã ký)

 

 

 

 

Nguyễn Đức Kiên

 



[1]Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Ghi chú
LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Nội dung văn bản đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

văn bản cùng lĩnh vực

văn bản mới nhất

×
×
×
Vui lòng đợi