Chỉ thị 01/2007/CT-BXD của Bộ Xây dựng về một số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc Bộ Xây dựng trong hội nhập kinh tế quốc tế
- Tóm tắt
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Chỉ thị 01/2007/CT-BXD
Cơ quan ban hành: | Bộ Xây dựng | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 01/2007/CT-BXD | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Chỉ thị | Người ký: | Nguyễn Hồng Quân |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 16/01/2007 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Xây dựng, Doanh nghiệp |
TÓM TẮT VĂN BẢN
* Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doang ngành xây dựng - Ngày 16/01/2007, Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã ra Chỉ thị số 01/2007/CT-BXD về một số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc Bộ Xây dựng trong hội nhập kinh tế quốc tế. Bộ trưởng chỉ thị: cần phải đánh giá lại năng lực thực tế, sức cạnh tranh và khả năng phát triển của đơn vị mình, có tính đến thị trường khu vực và thế giới, xây dựng chiến lược đầu tư công nghệ mới, hoàn thiện hệ thống quản lý phù hợp cho từng giai đoạn từ nay đến năm 2010 và 2020... Các đơn vị phải chủ động nắm bắt và vận dụng các quy luật của kinh tế thị trường trong quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh. Tăng cường công tác tiếp thị, thông tin thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng, quảng bá thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp, tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa các đơn vị sản xuất với các hộ tiêu thụ lớn...
Xem chi tiết Chỉ thị 01/2007/CT-BXD tại đây
tải Chỉ thị 01/2007/CT-BXD
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
CHỈ THỊ
CỦA BỘ XÂY
DỰNG SỐ
01/2007/CT-BXD NGÀY 16 THÁNG 01
NĂM 2007
VỀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ SẢN XUẤT
KINH DOANH VÀ SỨC CẠNH TRANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC BỘ XÂY DỰNG TRONG
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Những năm qua, thực hiện đường
lối đổi mới của Đảng và Nhà nước,
các doanh nghiệp ngành Xây dựng đã và đang chủ động,
tích cực tham gia vào tiến trình chung của cả nước
trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã được
kết nạp vào Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), sự kiện này đã đánh dấu một
mốc quan trọng trong quá trình hội nhập, mở ra cả
cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế
cả nước nói chung và các doanh nghiệp ngành Xây dựng
nói riêng.
Việc Việt Nam gia nhập WTO đem lại cho doanh
nghiệp ngành Xây dựng cơ hội mở rộng thị
trường, thu hút, tiếp nhận và chuyển dịch các
nguồn lực đầu tư, tài chính; tiếp cận
nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại
và học tập những kinh nghiệm, kỹ năng quản
lý tiên tiến từ các nền kinh tế
trên thế giới. Tuy nhiên, các doanh nghiệp ngành Xây dựng
cũng phải đối mặt với không ít các thách thức
khi nước ta gia nhập WTO, đặc biệt là sự
cạnh tranh gay gắt từ bên ngoài. So với các nước
trong khu vực và thế giới, các doanh nghiệp ngành Xây dựng
còn bị hạn chế về năng lực tài chính, trình độ
quản lý điều hành dự án, trình độ cán bộ
quản lý, kỹ thuật, đặc biệt là hiểu biết
về pháp luật và các thông lệ quốc tế, thiếu
công nghệ thiết bị tiên tiến, thiếu thông tin về
thị trường khu vực và thế giới, trình độ
tổ chức thi công còn hạn chế; khả năng sử
dụng nguồn lực, thiết bị, máy móc, nhân công chưa
cao, sự hợp tác giữa các nhà thầu trong nước
chưa chặt chẽ, khả năng cạnh tranh của
một số sản phẩm vật liệu xây dựng còn
kém so với các sản phẩm nhập ngoại về mẫu
mã, chất lượng và giá bán sản phẩm, một số
sản phẩm đã được xuất khẩu ra nước
ngoài nhưng khối lượng chưa nhiều, chưa
thường xuyên...Một số doanh nghiệp chưa thực
sự sẵn sàng và chuẩn bị thật tốt cho việc
nghiên cứu thị trường, phân tích đánh giá đúng
năng lực và khả năng cạnh tranh của đơn
vị mình để xây dựng chiến lược, kế
hoạch sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển,
kế hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực
phù hợp, đảm bảo cho sự phát triển bền
vững và nâng cao sức cạnh tranh .
Nhằm nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển, nâng
cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành Xây dựng
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói
chung và thực hiện các cam kết gia nhập WTO nói riêng,
Bộ trưởng Bộ Xây dựng chỉ thị Chủ
tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc
các Tổng công ty, Công ty mẹ trong mô hình Công ty mẹ - Công
ty con; Giám đốc các công ty độc lập và Thủ
trưởng các đơn vị thuộc Bộ Xây dựng
tập trung thực hiện ngay các nhiệm vụ, giải
pháp sau:
1. Nghiên cứu, quán triệt chiến lược và các
cam kết cụ thể có liên quan đến ngành Xây dựng
của Việt Nam với WTO. Từng đơn vị phải
nắm bắt một cách cơ bản và hệ thống các
mục tiêu, nguyên tắc, lộ trình thực hiện các cam
kết liên quan đến Ngành và các lĩnh vực hoạt động
của đơn vị mình trong WTO, nhận thức rõ những
cơ hội và thách thức khi gia nhập WTO để từ
đó xây dựng, điều chỉnh chiến lược,
kế hoạch phát triển sản
xuất kinh doanh của đơn vị mình cho phù hợp với
tình hình mới.
2. Đánh giá lại năng lực thực tế, sức
cạnh tranh và khả năng phát triển của đơn
vị mình, có tính đến thị trường khu vực
và thế giới, xây dựng chiến lược đầu
tư công nghệ mới, hoàn thiện hệ thống quản
lý phù hợp cho từng giai đoạn từ nay đến
năm 2010 và 2020.
3. Xây dựng chiến lược và tổ chức thực
hiện kế hoạch đào tạo, phát triển đội
ngũ cán bộ khoa học công nghệ đầu đàn,
quản trị doanh nghiệp, quản lý dự án đạt
trình độ ngang tầm khu vực và thế giới. Những
cán bộ này phải được trang bị ngoại ngữ
và am hiểu sâu về công nghệ sản xuất, công nghệ
quản lý, các tiêu chuẩn kỹ thuật, quy chuẩn xây dựng
và luật pháp quốc tế. Đào tạo và nâng cao trình độ
chuyên môn để ổn định đội ngũ thợ
có tay nghề bậc cao, tăng năng suất lao động,
sản phẩm làm ra có uy tín về chất lượng và được
công nhận trình độ quốc tế.
4. Các đơn vị phải
chủ động nắm bắt và vận dụng các quy
luật của kinh tế thị trường trong quản
lý và điều hành sản xuất kinh doanh. Tăng cường
công tác tiếp thị, thông tin thị trường, nâng cao
năng lực cạnh tranh, trong đó đặc biệt
coi trọng việc xây dựng, quảng bá thương hiệu
sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp; tăng
cường sự hợp tác, liên kết giữa các đơn
vị sản xuất với các hộ tiêu thụ lớn.
Tăng cường công tác thông tin khoa học công nghệ,
các kiến thức về kinh tế, thị trường
quốc tế; đầu tư trang thiết bị đủ
mạnh đặc biệt là các thiết bị chuyên ngành,
có chương trình phần mềm ở trình độ cao,
được quản lý chặt chẽ.
5. Đa dạng hoá các hình
thức đầu tư và hình thức sở hữu trong đầu
tư xây dựng, nhất là trong lĩnh vực đầu
tư xây dựng các nhà máy xi măng; tăng cường huy
động các nguồn lực từ các thành phần kinh tế
khác cùng đầu tư, chống khép kín trong đầu tư
xây dựng.
6. Đẩy mạnh sự liên kết giữa các công ty, tổng
công ty, giữa các doanh nghiệp thuộc các khối sản
xuất vật liệu xây dựng, cơ khí và xây lắp để
tiến tới hình thành các Tập đoàn công nghiệp xây dựng
lớn, có tiềm lực đủ mạnh, đủ sức
mạnh cạnh tranh với nhà thầu nước ngoài đồng
thời với việc chú trọng tới khả năng
liên doanh, liên kết với các nhà thầu nước ngoài để
tiếp cận, mở rộng thị trường tại
các nước trong khu vực và trên thế giới, tiếp
thu các kỹ thuật, công nghệ mới và các nguồn tài
chính quốc tế.
7. Đối
với lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng:
Các đơn
vị phải tiến hành đánh giá lại toàn diện
thực trạng về công nghệ sản xuất, quản
lý và mạng lưới tiêu thụ sản phẩm; mức
độ chủ động các yếu tố đầu vào
nhất là đối với nguồn cung cấp nguyên vật
liệu; rà soát, tính toán lại giá thành sản phẩm.
Mở rộng và đa
dạng hoá sản phẩm, mở rộng các hình thức liên
doanh, liên kết trong sản xuất kinh doanh để đảm
bảo lợi nhuận và thị phần.
Tăng cường
đầu tư cho việc nghiên cứu chuyển đổi, áp dụng công nghệ mới.
Đối với sản phẩm clinker và xi măng: tiến tới
loại bỏ công nghệ lò quay sản xuất bằng
phương pháp ướt trước năm 2010; thực hiện tốt lộ
trình chuyển đổi các cơ sở sản xuất bằng
lò đứng sang lò quay trước năm 2020; nâng cao chất
lượng xi măng; tập trung sản xuất các loại
xi măng mác cao, giảm dần tỷ trọng xi măng
PCB30.
Các nhà máy xi măng phải nghiên cứu
áp dụng phương án sử dụng nhiệt thừa để
tự phát điện phục vụ cho sản xuất xi măng
nhằm giảm chi phí điện năng, hạ giá thành sản
xuất kết hợp xử lý môi trường triệt để
hơn. Giao Viện Vật liệu xây dựng nghiên cứu,
hướng dẫn các đơn vị áp dụng công nghệ
này, tiến tới phổ cập cho toàn Ngành.
Đối với các sản phẩm gạch ốp lát,
ceramic, granit, Cotto: các doanh nghiệp
cần chú trọng đầu tư chiều sâu về công
nghệ, đầu tư cho công tác thiết kế mẫu
mã sản phẩm mới, ứng dụng công nghệ trang
trí mới để tạo ra các sản phẩm có giá trị,
hiệu quả kinh tế cao hơn, tăng sức cạnh
tranh.
Đối với các sản phẩm sứ vệ sinh và
kính xây dựng: chú trọng đầu
tư chiều sâu về công nghệ, có kế hoạch đào
tạo cán bộ, thuê thêm chuyên gia giàu kinh nghiệm về quản
lý vận hành và thiết kế mẫu mã sản phẩm mới
để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm
trong nước và xuất khẩu sang nước khác
8. Đẩy mạnh
việc thực hiện các giải pháp để lành mạnh
hoá tài chính doanh nghiệp, chủ động kiểm soát dòng
tiền; đối chiếu, rà soát và phân loại các khoản
nợ phải thu, các khoản nợ phải trả đặc
biệt là nợ vay đầu tư các dự án sản xuất
vật liệu xây dựng (sứ vệ sinh, gạch
ceramic, granit, các dự án xi măng,…); tập trung xử lý các
khoản nợ không có khả năng thu hồi, các sản
phẩm, vật tư bị tồn kho, ứ đọng;
xây dựng và tổ chức triển khai các phương án
cơ cấu lại tài chính doanh nghiệp, các phương án
huy động vốn hợp lý, có hiệu quả nhất.
Tận dụng tối đa lợi thế kinh doanh về
vị trí địa lý, đất đai, thương hiệu
để mở rộng các hoạt động sản xuất
kinh doanh khác; tổ chức thực hiện việc giải
thể hoặc bán đối với các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh không có hiệu quả .
9. Thực hiện
triệt để việc chuyển đổi hoạt động
của các Tổng công ty sang mô hình Công ty mẹ - Công ty con; kiện toàn tổ chức, cán bộ, xây dựng
mới Điều lệ tổ chức và hoạt động
của các Công ty mẹ. Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị
của Bộ trưởng Bộ Xây dựng về việc
tiếp tục đẩy mạnh công tác sắp xếp, đổi
mới, phát triển doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ giai đoạn
2007-2010.
Để thực hiện tốt các giải
pháp nêu trên, yêu cầu các đơn vị phải xây dựng
kế hoạch, phương án cụ thể đối với từng nội
dung, báo cáo Bộ trước ngày 30/3/2007.
Giao các Vụ: Kế hoạch - Thống kê, Vật
liệu xây dựng, Kinh tế tài chính, Tổ chức cán bộ,
Hợp tác quốc tế theo chức năng được
giao, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra và tổng
hợp tình hình báo cáo Lãnh đạo Bộ kết quả thực
hiện Chỉ thị của Bộ trưởng.
Chủ tịch Hội
đồng quản trị, Tổng Giám đốc các Tổng
công ty, Công ty mẹ trong mô hình Công ty mẹ – Công ty con, Giám đốc
các công ty độc lập và Thủ trưởng các đơn
vị thuộc Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm tổ
chức triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị
này./.
BỘ TRƯỞNG
Nguyễn Hồng Quân