Báo cáo 244/BC-UBTVQH12 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Lý lịch tư pháp trình Quốc hội thông qua

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • Tiếng Anh
  • Hiệu lực
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Nội dung MIX

    - Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…

    - Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.

  • Tải về
Mục lục
Tìm từ trong trang
Lưu
Theo dõi văn bản

Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.

Báo lỗi
Ghi chú

thuộc tính Báo cáo 244/BC-UBTVQH12

Báo cáo 244/BC-UBTVQH12 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Lý lịch tư pháp trình Quốc hội thông qua
Cơ quan ban hành: Ủy ban Thường vụ Quốc hộiSố công báo:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Số hiệu:244/BC-UBTVQH12Ngày đăng công báo:Đang cập nhật
Loại văn bản:Báo cáoNgười ký:Uông Chu Lưu
Ngày ban hành:16/06/2009Ngày hết hiệu lực:Đang cập nhật
Áp dụng:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản để xem Ngày áp dụng. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Lĩnh vực: Tư pháp-Hộ tịch
Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Ghi chú
Ghi chú: Thêm ghi chú cá nhân cho văn bản bạn đang xem.
Hiệu lực: Đã biết
Tình trạng: Đã biết

UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
---------------------

Số: 244/BC-UBTVQH12

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------------------------

Hà Nội, ngày 16  tháng  6  năm 2009

 

 

BÁO CÁO GIẢI TRÌNH TIẾP THU, CHỈNH LÝ

DỰ THẢO LUẬT LÝ LỊCH TƯ PHÁP TRÌNH QUỐC HỘI THÔNG QUA
----------------------------

 

Kính thưa các vị Đại biểu Quốc hội

 

Tại phiên họp sáng ngày 23 tháng 5 năm 2009, Quốc hội đã thảo luận và cho ý kiến về dự án Luật lý lịch tư pháp (Luật LLTP), đã có 26 vị Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) phát biểu ý kiến về các vấn đề cụ thể của dự thảo Luật, đa số ý kiến ĐBQH tán thành nội dung Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý của Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) và dự thảo Luật đã được chỉnh lý. Sau phiên họp, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban tư pháp phối hợp với Ủy ban pháp luật, Cơ quan chủ trì soạn thảo và các cơ quan có liên quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH và chỉnh lý dự thảo Luật.

UBTVQH xin trình Quốc hội Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật LLTP như sau:

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

1. Về sự cần thiết ban hành Luật

Nhiều vị đại biểu Quốc hội nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật như đã nêu trong Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật (Báo cáo số 216/BC-UBTVQH12 ngày 24 tháng 4 năm 2009 của UBTVQH); cũng có một số ý kiến đề nghị chưa nên ban hành Luật, mà ban hành pháp lệnh hoặc nghị định để điều chỉnh lĩnh vực này.

UBTVQH nhận thấy, LLTP có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống dân sự của công dân, cũng như trong quản lý nhân sự và hỗ trợ hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có cơ sở dữ liệu riêng về LLTP và văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh toàn diện lĩnh vực này. Trong khi đó, thông tin về án tích, tình trạng thi hành án và thông tin về việc cấm đảm nhiệm chức vụ theo quy định của Luật phá sản được nhiều cơ quan khác nhau quản lý như Tòa án, Viện kiểm sát, Công an, Thi hành án dân sự. Từ thực tế đó, trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2005, Quốc hội khóa XI đã quyết định đưa dự án Pháp lệnh LLTP vào chương trình chính thức (Nghị quyết số 35/2004/QH11 ngày 25/11/2004). Tuy nhiên, trong quá trình chuẩn bị xây dựng dự án Pháp lệnh này, UBTVQH khóa XI nhận thấy, đây là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền nhân thân của công dân và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đòi hỏi phải có một văn bản pháp lý có giá trị cao hơn pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và hội nhập quốc tế, do đó UBTVQH khóa XI đã đề nghị Quốc hội ban hành Luật LLTP. Theo đó, dự án Luật LLTP đã được đưa vào chương trình chuẩn bị của năm 2006 (Nghị quyết số 49/2005/QH11 ngày 19/11/2005). Tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XII, dự án Luật LLTP đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2008 (Nghị quyết số 11/2007/QH12 ngày 21/11/2007). Như vậy, việc ban hành Luật LLTP để điều chỉnh toàn diện lĩnh vực này, đặc biệt là tạo cơ sở pháp lý để xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về LLTP, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và nhu cầu cấp phiếu LLTP ngày càng tăng của công dân là cần thiết, phù hợp với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

2. Về phạm vi quản lý lý lịch tư pháp (Điều 2)

Đa số ý kiến các vị đại biểu Quốc hội nhất trí với phạm vi quản lý LLTP như đã nêu trong Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật (Báo cáo số 216/BC-UBTVQH12 ngày 24 tháng 4 năm 2009 của UBTVQH); cũng có ý kiến đề nghị mở rộng phạm vi quản lý LLTP bao gồm cả tiền sự, các hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức xử lý hình sự.

UBTVQH nhận thấy, khi xem xét, quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, phạm vi quản lý LLTP đã được Quốc hội xác định là án tích và tình trạng thi hành án. Trong quá trình chuẩn bị, dự án Luật đã được xây dựng với phạm vi quản lý như trên.

Việc xác định phạm vi quản lý LLTP phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và mục đích quản lý nhà nước về lĩnh vực này. Thực tiễn việc cấp Phiếu LLTP thời gian qua cho thấy, khi cơ quan, tổ chức trong nước hoặc nước ngoài có nhu cầu cần biết LLTP của một người để xem xét việc xuất cảnh, nhập cảnh, cho nhập, thôi, trở lại quốc tịch, nuôi con nuôi; cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, kiểm toán, y dược tư nhân; tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, du học..., thì điều mà cơ quan, tổ chức yêu cầu là án tích và tình trạng thi hành án của người đó. Nội dung của Phiếu LLTP được cấp cũng chỉ ghi người đó có án tích hay không có án tích, tình trạng thi hành án (nếu có) và đều được các cơ quan, tổ chức trong nước cũng như nước ngoài chấp nhận. Giá trị pháp lý và ý nghĩa chính trị - xã hội của những thông tin này là nhằm chứng minh một người có hay không có án tích, ghi nhận việc xóa án tích, tạo điều kiện cho người đã từng bị kết án tái hòa nhập cộng đồng, phù hợp với quy định của Hiến pháp là: “không ai bị coi là có tội và phải chịu trách nhiệm hình sự khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”[1]và quy định của Bộ luật hình sự là: “người được xóa án tích coi như chưa bị kết án”[2]. Nếu luật hóa việc quản lý LLTP bao gồm việc cập nhật thông tin về tiền sự và các hành vi vi phạm pháp luật khác nhưng chưa đến mức xử lý hình sự vào LLTP của công dân như án tích và tình trạng thi hành án là không phù hợp với mục đích quản lý LLTP và thực tiễn yêu cầu cấp Phiếu LLTP. Việc cấp Phiếu LLTP với nội dung như dự thảo Luật đã được thực hiện từ năm 1993 đến nay.

Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về phạm vi quản lý LLTP như dự thảo Luật.

3. Về quản lý cơ sở dữ liệu LLTP (Điều 9, Điều 11)

Có ý kiến đại biểu Quốc hội nhất trí về quản lý cơ sở dữ liệu LLTP như đã nêu trong Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật (Báo cáo số 216/BC-UBTVQH12 ngày 24 tháng 4 năm 2009 của UBTVQH); cũng có ý kiến đề nghị giao việc quản lý cơ sở dữ liệu LLTP cho Tòa án nhân dân tối cao hoặc Bộ Công an.

Về vấn đề này, UBTVQH nhận thấy, lý lịch tư pháp thuộc thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp của Chính phủ. Thực tế quản lý LLTP và cấp Phiếu LLTP hiện nay, Chính phủ đang giao cho Bộ Tư pháp quản lý và các Sở Tư pháp thực hiện. Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử. Trung tâm LLTP quốc gia là một cơ sở dữ liệu mới, nếu giao cho một cơ quan nào cũng phải xây dựng từ đầu. Bộ Công an hiện nay quản lý, theo dõi về thi hành án hình sự nhưng Bộ Quốc phòng cũng đang được giao quản lý trại giam, thi hành án hình sự trong quân đội, Bộ Tư pháp đang quản lý và theo dõi thi hành án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo dõi, thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự. Do đó, nếu giao cho một cơ quan nào làm đầu mối thì cũng cần phải có sự phối hợp và hợp tác của các cơ quan. Do đó, UBTVQH đề nghị Quốc hội giao cho Bộ Tư pháp quản lý Trung tâm LLTP quốc gia như đề nghị của Chính phủ.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỤ THỂ

1. Về mục đích quản lý LLTP (Điều 3)

Có ý kiến đề nghị cần làm rõ mục đích hỗ trợ hoạt động tố tụng hình sự và thống kê tư pháp hình sự. Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định hỗ trợ công tác quản lý nhân sự.

UBTVQH nhận thấy, LLTP là tập hợp các thông tin về án tích, tình trạng thi hành án và thông tin về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản. Quy định như vậy là xác định trách nhiệm của cơ quan quản lý LLTP trong mối quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng khi các cơ quan này có yêu cầu cung cấp thông tin LLTP có liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, quyết định hình phạt…; thông tin LLTP còn hỗ trợ hoạt động thống kê tư pháp hình sự khi cơ quan chịu trách nhiệm thống kê tư pháp có yêu cầu cung cấp về những thông tin có liên quan đến tội danh, hình phạt, kết quả chấp hành hình phạt ... Vì vậy, quy định mục đích quản lý LLTP có nội dung hỗ trợ hoạt động tố tụng hình sự và thống kê tư pháp hình sự là phù hợp. Về ý kiến đề nghị bổ sung quy định “hỗ trợ công tác quản lý nhân sự”, tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã bổ sung quy định trên vào khoản 4 Điều 3.

2. Về quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP (Điều 7)

Có ý kiến đề nghị bổ sung quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP của cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, cơ quan đăng ký kinh doanh, đăng ký thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã.

UBTVQH nhận thấy, để góp phần phục vụ công tác quản lý nhân sự, hoạt động đăng ký kinh doanh, việc bổ sung quy định cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP phù hợp với mục đích sử dụng theo yêu cầu của Luật này là cần thiết. Do đó, tiếp thu ý kiến ĐBQH, Điều 7 của dự thảo Luật được bổ sung khoản 3, cụ thể như sau:

“Điều 7. Quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp

3. Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội có quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp để phục vụ công tác quản lý nhân sự, hoạt động đăng ký kinh doanh, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã”.

3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong quản lý nhà nước về LLTP (Điều 9)

Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định nội dung quản lý nhà nước về LLTP và xác định lại tên của Điều 9 dự thảo Luật để bảo đảm thống nhất với nội dung quy định của điều này.

UBTVQH thấy rằng, nội dung quản lý nhà nước về các lĩnh vực đã được quy định trong Luật tổ chức Chính phủ. Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, những nội dung đã được quy định trong một văn bản luật thì không cần phải quy định lại trong văn bản luật khác. Vì vậy, UBTVQH đề nghị không bổ sung quy định nội dung quản lý nhà nước về LLTP vào dự thảo Luật. Đồng thời, để phù hợp với nội dung quy định của Điều 9, tiếp thu ý kiến ĐBQH, tên của Điều này đã được chỉnh lý là “Điều 9. Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp”.

4. Về tổ chức, quản lý cơ sở dữ liệu LLTP (Điều 11, Điều 12)

- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định “Chính phủ quy định cụ thể về tổ chức, hoạt động của Sở Tư pháp trong việc quản lý cơ sở dữ liệu LLTP” để bảo đảm sự thống nhất với Trung tâm LLTP quốc gia.

UBTVQH thấy rằng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Tư pháp trong quản lý cơ sở dữ liệu LLTP đã được quy định tại Điều 13 của dự thảo Luật. Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, về cơ cấu tổ chức, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân đã được Chính phủ quy định. Vì vậy, UBTVQH đề nghị không bổ sung việc giao Chính phủ quy định cụ thể về tổ chức, hoạt động của Sở Tư pháp trong quản lý cơ sở dữ liệu LLTP.

- Có ý kiến đề nghị cần quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm LLTP quốc gia, theo đó Trung tâm LLTP quốc gia phải là nơi tiếp nhận đầy đủ nhất thông tin LLTP và giữ vai trò điều phối trong việc quản lý cơ sở dữ liệu LLTP và cấp phiếu LLTP, Sở Tư pháp chỉ làm nhiệm vụ cấp Phiếu LLTP.

UBTVQH nhận thấy, nguồn thông tin LLTP chủ yếu được tiếp nhận từ các cơ quan tư pháp ở địa phương, vì vậy, dự thảo Luật quy định Sở Tư pháp có nhiệm vụ tiếp nhận, cập nhật, xử lý thông tin LLTP, lập LLTP và cấp Phiếu LLTP; Trung tâm LLTP quốc gia có nhiệm vụ thực hiện việc tiếp nhận, cập nhật, xử lý thông tin LLTP và điều phối, cung cấp thông tin LLTP cho các Sở Tư pháp trong phạm vi cả nước là phù hợp và bảo đảm tính khả thi. Đồng thời, tiếp thu ý kiến ĐBQH, Điều 12 dự thảo Luật đã được bổ sung các nội dung cụ thể như sau:

“Điều 12. Nhiệm vụ của Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia trong quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

2. Hướng dẫn việc xây dựng, quản lý, khai thác và bảo vệ cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp.

3. Tiếp nhận, cập nhật, xử lý thông tin lý lịch tư pháp do Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Công an, cơ quan thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng và Sở Tư pháp cung cấp;

6. Lập Lý lịch tư pháp, cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo quy định của Luật này.

…”

5. Về cung cấp, tiếp nhận, cập nhật, xử lý thông tin LLTP (Chương III)

a) Về trách nhiệm cung cấp, tiếp nhận thông tin LLTP

- Có ý kiến đề nghị quy định việc cung cấp thông tin LLTP theo hướng tất cả các cơ quan đều gửi thông tin về Trung tâm LLTP quốc gia để cập nhật, xử lý và cung cấp thông tin LLTP cho Sở tư pháp. Có ý kiến đề nghị quy định Giám thị trại giam gửi bản sao giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt tù cho Sở Tư pháp nơi người đó về cư trú.

UBTVQH nhận thấy, như đã giải trình ở phần trên, việc cung cấp thông tin LLTP có liên quan đến nhiều cơ quan. Việc quy định tất cả các cơ quan trong phạm vi cả nước đều gửi thông tin về Trung tâm LLTP quốc gia để cập nhật, xử lý sẽ không bảo đảm tính khả thi. Tuy nhiên, để đơn giản hóa các thủ tục trong việc tiếp nhận, xử lý thông tin LLTP, tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng quy định Trung tâm LLTP quốc gia có nhiệm vụ tiếp nhận, cập nhật, xử lý các thông tin LLTP về việc đã chấp hành xong hình phạt tù, đặc xá, đại xá, thi hành hình phạt trục xuất, thực hiện quyết định dẫn độ, quyết định đặc xá, đại xá, miễn, giảm hình phạt của nước ngoài đối với người đang chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam do Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Công an, cơ quan thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng cung cấp.

- Có ý kiến đề nghị không nên quy định Viện kiểm sát nhân dân tối cao có nhiệm vụ cung cấp trích lục bản án, trích lục án tích vì các thông tin này đã được Tòa án cung cấp.

UBTVQH thấy rằng, theo quy định của Luật tương trợ tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận trích lục bản án, trích lục án tích của công dân Việt Nam bị tòa án nước ngoài kết án do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp. Vì vậy, việc quy định Viện kiểm sát nhân dân tối cao có nhiệm vụ gửi các thông tin nêu trên cho Trung tâm LLTP quốc gia như dự thảo Luật là phù hợp.

- Có ý kiến cho rằng việc quy định Tòa án cung cấp trích lục bản án, quyết định của Tòa án cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP là không phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

UBTVQH thấy rằng, để xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP đòi hỏi các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Công an, Thi hành án có nhiệm vụ cung cấp thông tin về án tích, tình trạng thi hành án cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP. Đây là hoạt động thuộc lĩnh vực hành chính tư pháp, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật tố tụng hình sự, vì vậy, dự thảo Luật quy định Tòa án có nhiệm vụ gửi trích lục bản án, quyết định cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP là cần thiết và phù hợp với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

- Có ý kiến đề nghị không giao Tòa án cung cấp quyết định miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù mà nên giao cho trại giam cung cấp.

UBTVQH nhận thấy, cơ quan có thẩm quyền quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù là Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu, nơi người bị kết án chấp hành hình phạt. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho giữ quy định Tòa án có nhiệm vụ gửi quyết định này cho Sở Tư pháp như dự thảo Luật.

b) Về cập nhật, xử lý thông tin LLTP

Có ý kiến đề nghị không giao cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP cập nhật thông tin trong trường hợp đương nhiên được xóa án tích, vì không phù hợp với quy định tại Điều 270 của Bộ luật tố tụng hình sự, hơn nữa, việc xem xét đương nhiên được xóa án tích cũng cần có các thủ tục nhất định.

UBTVQH nhận thấy, nhiệm vụ của cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP là cập nhật đầy đủ các thông tin về án tích, tình trạng thi hành án. Việc giao cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP cập nhật thông tin trong trường hợp đương nhiên được xóa án tích là phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này,  bảo đảm quyền của người đương nhiên được xóa án tích, tạo thuận lợi cho người đó khi có yêu cầu cấp Phiếu LLTP. Quy định này không thay thế thẩm quyền của Tòa án trong việc cấp giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích quy định tại Điều 270 của Bộ luật tố tụng hình sự, như đã báo cáo giải trình trước Quốc hội tại phiên họp ngày 23 tháng 5 năm 2009. Đồng thời, để bảo đảm chặt chẽ, chính xác trong việc cập nhật, xử lý thông tin về người đương nhiên được xóa án tích, tiếp thu ý kiến của ĐBQH, dự thảo Luật đã bổ sung quy định “Trong trường hợp cần thiết, Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp có trách nhiệm xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu lý lịch tư pháp” (khoản 3 Điều 44).

6. Về cấp Phiếu LLTP (Chương IV)

- Có ý kiến đề nghị bỏ nội dung quy định “Phiếu LLTP có giá trị chứng minh cá nhân có hay không có án tích; bị cấm hay không bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã” để tránh sự trùng lặp.

Tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật được chỉnh lý bỏ nội dung quy định nói trên và bổ sung cụm từ “có giá trị chứng minh” vào quy định giải thích từ ngữ tại khoản 4 Điều 2 dự thảo Luật.

- Có ý kiến đề nghị quy định rõ chức danh của người có thẩm quyền của Trung tâm LLTP quốc gia ký, cấp Phiếu LLTP.

Tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật được chỉnh lý bổ sung quy định “Giám đốc Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Giám đốc Sở Tư pháp hoặc người được ủy quyền ký, cấp Phiếu lý lịch tư pháp và chịu trách nhiệm về nội dung của Phiếu lý lịch tư pháp” (khoản 3 Điều 44).

- Có ý kiến đề nghị Trung tâm LLTP quốc gia cấp Phiếu LLTP đối với những người đã thường trú ở nhiều nơi, người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật được chỉnh lý bổ sung quy định Trung tâm LLTP quốc gia thực hiện việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp đối với người nước ngoài đã có thời gian cư trú tại Việt Nam và công dân Việt Nam mà không xác định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú (khoản 1 Điều 44).

- Có ý kiến đề nghị quy định trường hợp cha, mẹ yêu cầu cấp Phiếu LLTP cho con thì không cần văn bản ủy quyền và rút ngắn thời hạn cấp Phiếu LLTP.

Tiếp thu ý kiến ĐBQH và để tạo thuận lợi cho người dân khi yêu cầu cấp Phiếu LLTP, nhất là các trường hợp đi du học, lao động, làm việc ở nước ngoài v.v… dự thảo Luật được chỉnh lý bổ sung quy định trường hợp người yêu cầu cấp Phiếu LLTP là cha, mẹ, vợ, chồng, con của người được cấp Phiếu LLTP thì không cần văn bản ủy quyền tại khoản 3 Điều 45. Đồng thời, quy định về thời hạn cấp Phiếu LLTP cũng đã được chỉnh lý từ 15 ngày xuống 10 ngày, trường hợp phức tạp phải xác minh tại nhiều nơi thì có thể kéo dài nhưng thời hạn cấp Phiếu LLTP tối đa không quá 15 ngày (khoản 1 Điều 48).

-  Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định thời hạn có giá trị sử dụng của Phiếu LLTP.

UBTVQH nhận thấy, nội dung Phiếu LLTP thể hiện các thông tin LLTP được cập nhật đến thời điểm cấp Phiếu. Thời hạn có giá trị sử dụng của Phiếu LLTP tùy thuộc vào quy định của văn bản quy phạm pháp luật đối với từng lĩnh vực quản lý của các cơ quan, tổ chức tiếp nhận Phiếu LLTP. Ví dụ: Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định hồ sơ xin nhập, xin thôi, xin trở lại quốc tịch Việt Nam cần phải có Phiếu LLTP được cấp không quá 90 ngày tính đến ngày nộp hồ sơ; quy định về hồ sơ của người nước ngoài xin trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải có Phiếu LLTP được cấp không quá 12 tháng tính đến ngày nhận hồ sơ v.v… Do đó, UBTVQH đề nghị Quốc hội không bổ sung quy định về thời hạn có giá trị sử dụng của Phiếu LLTP trong Luật này.

-  Có ý kiến đề nghị ngoài nội dung quy định về việc bổ sung, đính chính, thu hồi, hủy bỏ Phiếu LLTP, cần bổ sung quy định trách nhiệm của người có thẩm quyền trong trường hợp cấp Phiếu LLTP trái pháp luật, gây thiệt hại cho công dân.

UBTVQH thấy rằng, nội dung Điều 51 dự thảo Luật quy định về xử lý vi phạm, trong đó đã bao gồm việc xử lý đối với người có thẩm quyền trong trường hợp cấp Phiếu LLTP trái pháp luật. Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội không bổ sung quy định về nội dung này.

7. Về giải quyết khiếu nại, tố cáo (Chương V)

Có ý kiến đề nghị quy định việc giải quyết khiếu nại lần hai là quyết định  cuối cùng và không khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án.

UBTVQH nhận thấy, Luật khiếu nại, tố cáo được sửa đổi, bổ sung đã bỏ quy định “quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng” cho phù hợp với cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Vì vậy, để phù hợp với quy định trên của Luật khiếu nại, tố cáo, UBTVQH đề nghị Quốc hội không bổ sung quy định việc giải quyết khiếu nại lần hai là quyết định cuối cùng. Đồng thời, để bảo đảm quyền của người khiếu nại trong việc khởi kiện vụ án hành chính, đề nghị Quốc hội cho giữ như quy định của dự thảo Luật.

8. Về điều khoản chuyển tiếp (Điều 55)

Có ý kiến đề nghị quy định thời hạn cung cấp, trao đổi dữ liệu LLTP có trước ngày Luật này có hiệu lực, để tránh việc kéo dài thời hạn cấp Phiếu LLTP.

UBTVQH thấy rằng, thông tin LLTP có trước ngày Luật này có hiệu lực đang được nhiều cơ quan khác nhau quản lý như Tòa án, Viện kiểm sát, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng. Do đó, Bộ Tư pháp có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan có liên quan trong tổ chức thực hiện việc trao đổi, cung cấp thông tin LLTP có trước ngày Luật này có hiệu lực để phục vụ cấp Phiếu LLTP và xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP. Tuy nhiên, do chưa có cơ quan nào xây dựng cơ sở dữ liệu riêng về LLTP nên UBTVQH đề nghị Quốc hội giao Chính phủ phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định, hướng dẫn về thời hạn, thủ tục cung cấp, trao đổi các thông tin LLTP có trước ngày Luật này có hiệu lực (khoản 3 Điều 55).

Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về điều khoản chuyển tiếp như dự thảo Luật.

Ngoài các nội dung trên, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban tư pháp và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến ĐBQH để chỉnh lý các vấn đề cụ thể khác bảo đảm các yêu cầu về nội dung và kỹ thuật văn bản của dự thảo Luật.

Dự thảo Luật được chỉnh lý trình Quốc hội thông qua có 6 chương, 56 điều.

*

*       *

Kính thưa các vị Đại biểu Quốc hội,

Trên đây là Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến của ĐBQH về dự thảo Luật lý lịch tư pháp, UBTVQH xin kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.

 

TM. UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

PHÓ CHỦ TỊCH

(đã ký)

 

 

 

 

Uông Chu Lưu

 



[1]Điều  72 Hiến pháp 1992; Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]Điều  63 Bộ luật hình sự.

Ghi chú
LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Nội dung văn bản đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

văn bản cùng lĩnh vực

văn bản mới nhất

×
×
×
Vui lòng đợi