Báo cáo 152/BC-BTP của Bộ Tư pháp về kết quả thực hiện nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ, giải pháp công tác 6 tháng cuối năm 2009

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • Tiếng Anh
  • Hiệu lực
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Nội dung MIX

    - Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…

    - Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.

  • Tải về
Mục lục
Tìm từ trong trang
Lưu
Theo dõi văn bản

Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.

Báo lỗi
Ghi chú

thuộc tính Báo cáo 152/BC-BTP

Báo cáo 152/BC-BTP của Bộ Tư pháp về kết quả thực hiện nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ, giải pháp công tác 6 tháng cuối năm 2009
Cơ quan ban hành: Bộ Tư phápSố công báo:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Số hiệu:152/BC-BTPNgày đăng công báo:Đang cập nhật
Loại văn bản:Báo cáoNgười ký:Hoàng Thế Liên
Ngày ban hành:04/08/2009Ngày hết hiệu lực:Đang cập nhật
Áp dụng:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản để xem Ngày áp dụng. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Lĩnh vực: Tư pháp-Hộ tịch

tải Báo cáo 152/BC-BTP

Tải văn bản tiếng Việt (.doc) Báo cáo 152/BC-BTP DOC (Bản Word)
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file.

Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!

Tải văn bản tiếng Việt (.zip) Báo cáo 152/BC-BTP ZIP (Bản Word)
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file.

Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!

Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Ghi chú
Ghi chú: Thêm ghi chú cá nhân cho văn bản bạn đang xem.
Hiệu lực: Đã biết
Tình trạng: Đã biết

BỘ TƯ PHÁP

---------------

Số: 152/BC-BTP

 

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

---------------------

Hà Nội, ngày 04 tháng 8 năm 2009

 

 

BÁO CÁO

Kết quả thực hiện nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp

6 tháng đầu năm và nhiệm vụ, giải pháp công tác 6 tháng cuối năm 2009

 

 

Ngành Tư pháp triển khai nhiệm vụ công tác năm 2009 trong bối cảnh có những thuận lợi: thể chế, bộ máy của Ngành được kiện toàn một bước; chức năng, nhiệm vụ được mở rộng; vai trò, vị thế của Ngành trong hệ thống chính trị ngày càng được nâng cao; sự phối hợp giữa ngành Tư pháp với các Bộ, ngành, địa phương ngày càng được tăng cường; những nỗ lực, đóng góp của Ngành vào thành tựu phát triển kinh tế, xã hội chung của cả nước trong thời gian qua được Chính phủ ghi nhận và đánh giá tích cực[1]. Bên cạnh đó, năm 2009 cũng đặt ra cho ngành Tư pháp nhiều khó khăn, thách thức: khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu cùng với những hạn chế, bất cập nội tại của nền kinh tế nước ta tiếp tục tác động tiêu cực đến sự tăng trưởng kinh tế, tạo thêm khó khăn mới cho việc thực hiện nhiệm vụ của bộ máy nhà nước nói chung và của ngành Tư pháp nói riêng; Ngành phải triển khai thực hiện những nhiệm vụ mới, phức tạp, đặc biệt là công tác thể chế nhằm tháo gỡ khó khăn, chống suy giảm kinh tế, trong khi quá trình hội nhập và phát triển của đất nước đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với công tác tư pháp.

Trong bối cảnh đó, toàn Ngành đã quyết tâm triển khai đồng bộ các mặt công tác thuộc chức năng, nhiệm vụ, chú trọng thực hiện nhiệm vụ theo Chương trình công tác trọng tâm năm 2009 với các nội dung: 1) triển khai thực hiện tốt Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, góp phần đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thốnghóavăn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai công tác theo dõi chung về thi hành pháp luật; 2) tiếp tục tổ chức thực hiện Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện tốt Luật Thi hành án dân sự, Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật Thi hành án dân sự nhằm tạo chuyển biến mạnh trong công tác THADS; 3) nâng cao chất lượng hoạt động chứng thực, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp; 4) tăng cường năng lực của các cơ quan bổ trợ tư pháp, tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp; 5) Tiếp tục lộ trình cải cách tư pháp, cải cách hành chính; 6) kiện toàn tổ chức, cán bộ của Ngành, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh; tạo chuyển biến thực sự về chất lượng đào tạo cán bộ pháp luật, nhất là đào tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp; thành lập Trường Trung cấp luật; 7) tiếp tụcđổi mới phương thức chỉ đạo điều hành; đẩy mạnh việc phân cấp trong một số lĩnh vực hoạt động, hướng mạnh về cơ sở.

Qua 6 tháng thực hiện nhiệm vụ, nhiều mặt công tác đã có chuyển biến tích cực, đạt được những kết quả cụ thể, góp phần tích cực hình thành và từng bước khẳng định "thương hiệu" của ngành Tư pháp trong đời sống xã hội, nhất là trong các lĩnh vực quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật, thẩm định, kiểm tra VBQPPL, trợ giúp pháp lý, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Bên cạnh đó, việc triển khai một số mặt công tác gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, kết quả chưa cao như thi hành án dân sự, quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp... Trong khuôn khổ của việc sơ kết công tác tư pháp 6 tháng đầu năm 2009, Báo cáo này tập trung đánh giá sâu kết quả thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, chỉ rõ những khó khăn, bất cập và phân tích nguyên nhân, tìm giải pháp khắc phục để hoàn thành tốt kế hoạch công tác 6 tháng cuối năm.

I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH TRỌNG TÂM CÔNG TÁC TƯ PHÁP 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2009

1. Quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật

Kết quả đạt được:

- Tích cực tham mưu,giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật;phân côngcơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật, pháp lệnh của Chính phủ năm 2009[2]. Năm đầu tiên thực hiện nhiệm vụtổ chức, đôn đốc, theo dõi tình hình thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Chính phủ, Bộ đã hoàn thành và trình Chính phủ Báo cáosố 128/BC-BTP về tình hình soạn thảo và trình các dự án luật, pháp lệnh của Chính phủ đến hết tháng 6/2009; phối hợp với Văn phòng Chính phủ tổng hợp,xây dựng Báo cáo số 114/BC-CP về kiểm điểm công tác xây dựng và trình các dự án luật, pháp lệnh, trình Chính phủ (thảo luận tại phiên họp thường kỳ tháng 5/2009), qua đó đánh giá đúng thực trạng, đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế, yếu kém để nâng cao chất lượng, đảm bảo tiến độ công tác xây dựng và trình các dự án luật, pháp lệnh trong thời gian tới.

- Công tác xây dựng Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội có chuyển biến tích cực; Bộ đã kịp thời, chủ động phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan để xây dựng, hoàn thành, trình Quốc hội thông qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2010 tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XII.

- Tham mưu cho Chính phủ kịp thời hướng dẫnthi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008[3]; có kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị số 636/CT-TTg ngày 20/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các biện pháp thi hành luật;chủ độngphối hợp với các Bộ, ngành tổ chức tập huấn về công tác xây dựng và đánh giá tác động của văn bản quy phạm pháp luật. Việc triển khai Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật bước đầu đạt kết quả tốt.

- Chú trọng phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, tổng kết thực tiễn trong công tác xây dựng đề án, văn bản[4];  một số dự án Luật do Bộ chủ trì soạn thảo (Luật Lý lịch tư pháp, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước) đã được Quốc hội thông qua;đưa những nội dung cơ bản của dự án Luật đăng ký bất động sản vào Luật sửa đổi, bổ sung một số luật về đầu tư, xây dựng, được Quốc hội chấp thuận;trình Chính phủ cho ý kiến dự án Luật Nuôi con nuôi, Luật Tiếp cận thông tin; xây dựng trìnhChính phủ ban hành nhiều Nghị định, Quyết định, Chỉ thị liên quan đến các mặt hoạt động của Ngành.

- Một số Sở Tư pháp đã tích cực, chủ động trong việc tham mưu, giúp UBND thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật trong một số lĩnh vực ở địa phương, qua đó góp phần tăng thêm uy tín của Sở Tư pháp với chính quyền địa phương (Đồng Tháp)[5].

- Chất lượng thẩm định đề án, văn bản có chuyển biến tích cực; việc thẩm định các điều ước quốc tế nhìn chung đảm bảo đúng tiến độ theo yêu cầu của Luật Ban hành VBQPPL và Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế; ý kiến thẩm định, góp ý của tổ chức pháp chế, cơ quan Tư pháp địa phương được nhiều Bộ, ngành, Hội đồng nhân dân,Ủyban nhân dân đánh giá cao; nhiều tổ chức pháp chế, cơ quan Tư pháp địa phương thực sự trở thành bộ phận tham mưu, chỗ dựa đáng tin cậy cho các Bộ, ngành, HĐND, UBND trong việc xây dựng chính sách, pháp luật.

- Tích cực kiểm tra và kịp thời kiến nghị xử lý các văn bản có dấu hiệu trái pháp luật[6]; thí điểm tổng rà soát VBQPPL tại một số Bộ, ngành và địa phương (Tp. Hồ Chí Minh, Nghệ An, Bộ Tài nguyên & Môi trường).

- Xây dựng Đề án triển khai nhiệm vụ theo dõi chung về thi hành pháp luật.

Hạn chế, bất cập:

- Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 chưa toàn diện, tính thực tiễn chưa cao, chưa có ưu tiên hợp lý trong việc giải quyết những vấn đề bức thiết của đời sống xã hội. Nội dung Chương trình chủ yếu được lập trên cơ sở đề xuất của các Bộ, ngành, chưa thể hiện rõ chính kiến của Bộ Tư pháp dưới góc độ là cơ quan quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật, dẫn đến nhiều đề án, văn bản phải điều chỉnh, xin rút, ảnh hưởng đến chương trình hoạt động của Quốc hội.

- Tỷ lệ hoàn thành đề án, văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ và liên tịch ban hành đạt thấp hơn so với cùng kỳ năm 2008[7]; chất lượng một số đề án, văn bản chưa cao, sau khi trình Lãnh đạo Bộ phải chỉnh sửa nhiều lần.

- Chưa tạo được bước đột phá thực sự về chất lượng thẩm định VBQPPL; tiến độ hoàn thành thẩm định VBQPPL đạt thấp hơn so với cùng kỳ năm 2008[8];chưa ban hành được Thông tư của Bộ về quy chế thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL.

- Việc tiến hành kiểm tra VBQPPL theo địa bàn, theo chuyên đề còn chưa tích cực, hiệu quả.

- Việc triển khai nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi hành pháp luật còn chậm, nhìn chung mới chỉ dừng lại ở những nét "chấm phá" ban đầu.

- Công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật ở địa phương nhìn chung còn yếu; một số địa phương chưa kịp thời xây dựng, ban hành Chương trình xây dựng VBQPPL năm 2009, chương trình và nội dung cụ thể về công tác kiểm tra, rà soát VBQPPL; nhiều địa phương chưa thực hiện nghiêm túc việc xử lý VBQPPL ban hành trái pháp luật đã được cơ quan có thẩm quyền cấp trên thông báo; tình trạng cơ quan có thẩm quyền của địa phương ban hành văn bản nhưng chưa có ý kiến thẩm định vẫn còn; tính phản biện xã hội trong xây dựng văn bản, chất lượng thẩm định, góp ý chưa cao.

- Nhiều Sở Tư pháp chưa làm tốt vai trò tham mưu cho chính quyền địa phương trong việc kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực hoạt động của pháp chế Sở, ngành.

Nguyên nhân của hạn chế, bất cập:

- Việc đăng ký xây dựng một số văn bản, đề án chưa sát nhu cầu thực tiễn và khả năng thực hiện của đơn vị.

- Một số đơn vị chủ trì soạn thảo văn bản, đề ánchưa chủ động, tích cực triển khai nhiệm vụ (tham mưu thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập chậm; tình trạng chờ đôn đốc mới triển khai nhiệm vụ vẫn còn); điều tra, khảo sát thực tiễn chưa thực sự thấu đáo; phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ, cũng như với các Bộ, ngành hữu quan chưa thật chặt chẽ; chưa khai thác hết tiềm năng trí tuệ hiện có trong Bộ; một số dự án đặt ra nhiều vấn đề mới, phức tạp cả về lý luận và thực tiễn; trình độ, năng lực của một số thành viên các Tổ biên tập còn hạn chế, nhất là về kiến thức thực tiễn.

- Một số cơ quan chủ trì soạn thảo gửi hồ sơ thẩm định VBQPPL còn sai sót về thủ tục, thiếu các tài liệu trong hồ sơ theo quy định, nhất là các cơ quan được giao chủ trì soạn thảo văn bản ở địa phương; nhiều địa phương chưa có cơ chế để cán bộ làm công tác thẩm định được tham gia quá trình soạn thảo văn bản ngay từ ban đầu.

- Theo dõi chung về thi hành pháp luật là một nhiệm vụ mới của Bộ Tư pháp, có nội dung rất rộng, mới chỉ được quy định ở mức chung nhất tại Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp nên cần có thời gian để xác định rõ nội dung, phạm vi và cách thức triển khai nhiệm vụ.

- Một số Bộ, ngành, địa phương chưa coi trọng đúng mức công tác kiểm tra và xử lý VBQPPL: chưa thường xuyên gửi văn bản đến cơ quan kiểm tra; chưa kịp thời xem xét, xử lý theo quy định sau khi nhận được thông báo của cơ quan kiểm tra về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật.

- Việc chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ công tác văn bản của một số Sở Tư pháp đối với tư pháp cấp huyện, cấp xã còn chưa kịp thời.

- Kinh phí xây dựng, thẩm định VBQPPL còn hạn hẹp.

2.Tiếp tục tổ chức thực hiện Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện tốt Luật Thi hành án dân sự, Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật Thi hành án dân sự nhằm tạo chuyển biến mạnh trong công tác THADS

Kết quả đạt được:

- Kết quả thi hành án 6 tháng đầu năm 2009: tổng số việc thụ lý là 472.989 việc, bao gồm 169.745 việc thụ lý mới, 303.244 việc chuyển sang từ năm trước; đã uỷ thác 7.080 việc; số việc phải thi hành là 465.909 việc. Số việc có điều kiện thi hành là 279.455 việc, chiếm 60% tổng số việc phải thi hành. Các cơ quan Thi hành án dân sự đã thi hành xong hoàn toàn 128.450 việc/279.455 việc, đạt 46% (tăng 12.448 việc và 4,94% về tỷ lệ so với cùng kỳ năm 2008). Một số đơn vị đạt tỷ lệ khá, cụ thể: về việc, Hoà Bình (thi hành xong hoàn toàn/có điều kiện thi hành đạt 73,6%), Lai Châu (72,8%), Bắc Kạn (71,3%), Tuyên Quang (67,1%), Hà Giang (64,8%); và về tiền, như ở Hoà Bình (thực thu/có điều kiện thi hành đạt 57,9%), Thừa Thiên Huế (52%).

- Phân bổ chỉ tiêu thực hiện nhiệm vụ thi hành án dân sự năm 2009 cho Thi hành án dân sự từng địa phương[9]; nhiều địa phương tổ chức các đợt cao điểm THADS (Bắc Giang, Lạng Sơn, Yên Bái, Ninh Bình, Gia Lai, Kon Tum, Sóc Trăng, Đồng Tháp...).

Tổng số tiền và giá trị phải thu là 20.716 tỷ 606 triệu 053 nghìn đồng (tăng 892 tỷ 158 triệu 141 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2008), trong đó số có điều kiện thi hành là 7.116 tỷ 746 triệu 778 nghìn đồng, chiếm 34,4%. Số tiền thực thu là 1.890 tỷ 022 triệu 895 nghìn đồng, đạt 26,6% số tiền có điều kiện thi hành (giảm 513 tỷ 578 triệu 834 nghìn đồng và 2,01% về tỷ lệ so với cùng kỳ năm 2008).

- Kịp thời ban hành và triển khai Kế hoạch thực hiện Luật Thi hành án dân sự và Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật này; xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự[10]; trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thực hiện thí điểm Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện Đề án; hướng dẫn cơ quan Thi hành án dân sự địa phương áp dụng Luật Thi hành án dân sự trong thời gian chờ các Nghị định hướng dẫn thi hành[11].

- Tích cực đôn đốc, chỉ đạo thực hiện việc tổng rà soát các việc thi hành án thu cho ngân sách nhà nước có giá trị không quá 500.000 đồng mà thời gian tổ chức thi hành án đã quá 05 năm, tính đến thời điểm Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực nhưng người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án để phối hợp với Viện kiểm sát cùng cấp lập danh sách đề nghị Toà án cấp huyện nơi cơ quan Thi hành án dân sự có trụ sở ra quyết định miễn thi hành đối với khoản nghĩa vụ đó trước ngày 10/7/2009. Theo báo cáo của Cục Thi hành án dân sự, tính đến ngày 08/7/2009 đã có 37/63 địa phương hoàn thành và báo cáo về việc rà soát, theo đó có 15.706 việc thuộc diện miễn thi hành án theo Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật Thi hành án dân sự, với số tiền 2.603.023 đồng.

- Tổ chức tổng kết việc thực hiện uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp cho Giám đốc Sở Tư pháp trong việc quản lý một số mặt công tác tổ chức cán bộ thi hành án dân sự, bàn giao hồ sơ, tài liệu về cán bộ thi hành án sang Trưởng Thi hành án dân sự cấp tỉnh, chuẩn bị cho cơ quan Thi hành án dân sự tổ chức lễ ra mắt, tiếp nhận nhiệm vụ mới theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.

- Rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chấp hành viên của cơ quan Thi hành án dân sự địa phương để bổ nhiệm lại, bổ nhiệm mới, miễn nhiệm phù hợp với tiêu chuẩn theo quy định của Luật Thi hành án dân sự .

- Tiếp tục tăng cường chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật hành chính trong công tác thi hành án, xử lý nghiêm các trường hợp cán bộ, công chức thi hành án có hành vi vi phạm trong thi hành án.

Hạn chế, bất cập:

- Kết quả thi hành án thấp, số việc thi hành xong hoàn toàn đạt 46% với số tiền thực thu đạt 26,6% trong số có điều kiện thi hành. Nhiều địa phương đạt kết quả thi hành án rất thấp, cụ thể: về việc, Vĩnh Long (thi hành xong hoàn toàn/có điều kiện thi hành đạt 28,2%), Long An (24,9%), Bình Phước (28%); về tiền: Vĩnh Phúc (7,2%), Quảng Nam (8,2%), Vĩnh Long (12,3%), Bình Thuận (12,1%), Đắk Nông (12%).

- Tình trạng chậm trả lời văn bản xin hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ của địa phương vẫn còn; chưa chủ động, kịp thời ban hành đầy đủ văn bản hướng dẫn mang tính hệ thống, chỉ đạo chung để giải quyết những vướng mắc, khó khăn về thi hành án. Bên cạnh đó, nhiều cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh còn ỷ lại, chưa phát huy một cách tích cực vai trò của một đơn vị chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ hoạt động thi hành án đối với cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện.

- Chưa kiện toàn kịp thời thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự ở một số địa phương[12]; việc giải quyết một số vụ việc liên quan đến cán bộ, công chức của ngành Thi hành án còn chậm (các vụ việc ở Quảng Ninh và Quảng Nam).

Nguyên nhân của hạn chế, bất cập:

- Ở một số địa phương, ảnh hưởng của suy giảm kinh tế làm cho giá thị trường của tài sản phải thi hành án là đất sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản trong nhiều trường hợp thấp hơn giá sàn theo quy định, dẫn đến việc định giá tài sản để thi hành án gặp khó khăn.

- Chấp hành viên chưa tích cực, kiên quyết áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong quá trình tổ chức thi hành án, còn có biểu hiện né tránh, ngại va chạm, thậm chí có sai phạm, tiêu cực trong quá trình thi hành án; Thủ trưởng một số cơ quan Thi hành án dân sự chưa thực sự làm tốt trách nhiệm quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các Chấp hành viên, cán bộ thi hành án trong đơn vị hoặc cơ quan thi hành án cấp dưới; một số vụ việc giải quyết chưa dứt điểm do các cơ quan hữu quan, chính quyền địa phương không thống nhất ý kiến với cơ quan Thi hành án về quan điểm, biện pháp thi hành án, phương thức xử lý tài sản, vận dụng chính sách của Đảng, Nhà nước trong thi hành án.

- Sự phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với Toà án, Viện kiểm sát trong việc đề nghị Toà án giải thích, đính chính hoặc xem xét theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định có sai sót, không rõ ràng hoặc có vi phạm chưa chặt chẽ và còn chậm trễ về thời gian. Việc phối hợp giữa cơ quan Thi hành án với chính quyền cơ sở, đặc biệt là các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng trong quá trình tổ chức thi hành án còn chưa tốt.

- Ý thức chấp hành pháp luật của nhiều đương sự nhất là người phải thi hành án chưa cao, nhiều trường hợp người phải thi hành án cố tình chây ỳ, tẩu tán tài sản để trốn tránh, khiếu nại nhằm mục đích kéo dài việc thi hành án. Công tác vận động, thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án chưa được quan tâm đúng mức.

- Việc giải quyết khiếu nại về thi hành án gặp khó khăn do nhiều trường hợp đương sự khiếu nại vượt cấp, kéo dài; có nơi cơ quan Thi hành án dân sự chậm giải quyết hoặc giải quyết chưa chính xác, không dứt điểm tại nơi phát sinh khiếu nại, vì vậy số lượng đơn thư kéo dài, vượt cấp còn nhiều. Kỹ năng công tác dân vận và đối thoại với dân vẫn chưa được các cơ quan Thi hành án dân sự áp dụng triệt để trong quá trình giải quyết khiếu nại.

- Công tác quy hoạch đối với cán bộ lãnh đạo của các cơ quan Thi hành án dân sự chưa được thực hiện thường xuyên và khoa học; đội ngũ lãnh đạo cơ quan Thi hành án nghỉ chế độ hoặc bị xử lý kỷ luật nhưng thủ tục bổ nhiệm mới các chức danh này phải đảm bảo theo một trình tự pháp luật quy định nên cần có thời gian.

- Chưa có quy định cụ thể thời gian trả lời văn bản xin ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của các cơ quan Thi hành án dân sự cấp dưới.

3. Hoạt động chứng thực, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp

Kết quả đạt được:

- Trong 6 tháng đầu năm 2009, tổng số việc chứng thực là 34.828.534; tổng số phí chứng thực thu được là 34.800.136.980 đồng; số cặp đăng ký kết hôn là 337.935; số trường hợp khai sinh là 756.097, khai tử là 182.867; số cải chính hộ tịch là 32.273; số Phiếu lý lịch tư pháp đã cấp là 46.393; giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch cho 46 trường hợp, trở lại quốc tịch Việt Nam cho 19 trường hợp, thôi quốc tịch Việt Nam cho 3.200 trường hợp, trả lời 361 trường hợp tra cứu quốc tịch cho Sở Tư pháp để cấp Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam và 34 trường hợp xác minh quốc tịch cho Cục Lãnh sự - Bộ Ngoại giao.

- Tiếp tục hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực hành chính tư pháp: xây dựng Kế hoạch triển khai Luật Lý lịch tư pháp; trình Chính phủ Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam; đang hoàn thiện Đề án in, phát hành biểu mẫu hộ tịch; tích cực xây dựng dự thảo Luật Nuôi con nuôi; chuẩn bị các thủ tục pháp lý để ký và phê chuẩn Công ước Lahay về nuôi con nuôi; hoàn thiện Đề án Tăng cường quản lý các Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam; chủ động triển khai các hoạt động nhằm tiếp tục đề xuất hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực hành chính tư pháp (triển khai đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật Hộ tịch”; chuẩn bị tổ chức sơ kết hai năm thực hiện Nghị định 79/2007/NĐ-CP); triển khai xây dựng Đề án thành lập Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia...

- Kịp thời ban hành và triển khai Kế hoạch thực hiện Luật Quốc tịch Việt Nam; Kế hoạch giải quyết nhập quốc tịch cho người Campuchia lánh nạn tại 03 tỉnh, thành phố (thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước); Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 31 của Thủ tướng Chính phủ về việc giải quyết tình trạng di cư tự do, vượt biên trái phép và kết hôn không giá thú ở khu vực biên giới Việt Nam - Lào.

- Việc cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký tại các địa phương dần đi vào nề nếp; nhiều địa phương thực hiện tốt việc niêm yết công khai quy trình, thủ tục giải quyết từng loại việc, mức thu lệ phí, lịch làm việc, nhờ đó giảm bớt thời gian và chi phí đi lại cho người dân; chủ động đẩy mạnh việc kiểm tra, rà soát, hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ, tổ chức Hội nghị tập huấn Thông tư số 03/2008/TT-BTP để nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác chứng thực; tuyên truyền, phổ biến Nghị định số 79/2009/NĐ-CP và Thông tư  số 03/2008/TT-BTP đến đông đảo các tổ chức và người dân; một số địa phương đã tích cực tiến hành kiểm tra công tác chứng thực (Hà Nội).

- Hầu hết các địa phương đã ban hành Quyết định quy định mức thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực đảm bảo phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội tại địa phương.

- Khắc phục được một bước tình trạng thiếu biểu mẫu hộ tịch; thực hiện việc rà soát nhằm đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch; nghiệm thu và đưa vào ứng dụng thí điểm phần mềm quản lý hộ tịch, quốc tịch. Phần lớn các địa phương thực hiện cơ chế một cửa trong lĩnh vực hộ tịch và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001-2000. Công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực kết hôn với người nước ngoài ở nhiều địa phương có chuyển biến tích cực (Cần Thơ, Bạc Liêu, Đồng Tháp).

- Nhiều cơ quan Tư pháp địa phương đã chủ động phối hợp với cơ quan công an trong việc tiếp nhận, xác minh, giải quyết hồ sơ xin cấp phiếu lý lịch tư pháp cho nhân dân để đẩy nhanh tiến độ trả kết quả, xây dựng và đưa vào áp dụng các biểu mẫu về kết quả xác minh; xây dựng Quy chế phối hợp giữa hai cơ quan trong hoạt động cấp phiếu lý lịch tư pháp, mang lại nhiều kết quả đáng khích lệ (thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Lâm Đồng...).

- Giải quyết về căn bản những vấn đề tồn đọng về hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi với Hoa Kỳ; đang tích cực giải quyết tồn đọng trong hợp tác về nuôi con nuôi với Thụy Điển, Ai-Len; tăng cường kiểm tra hoạt động của Văn phòng con nuôi nước ngoài, trong đó đặc biệt tập trung vào hoạt động hỗ trợ nhân đạo, hiệu quả triển khai thực hiện dự án nhân đạo; tăng cường công tác khảo sát, kiểm tra tình hình giải quyết đăng ký việc nuôi con nuôi tại các địa phương và cơ sở; tiến hành tổng rà soát và nắm tình hình giải quyết việc cho nhận nuôi con nuôi trong nước và cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài ở tất cả các địa phương trong thời gian qua nhằm xác định những khó khăn, vướng mắc, bất cập để đề xuất giải pháp khắc phục và thực hiện tốt hơn hoạt động này trong thời gian tới.

Hạn chế, bất cập:

- Hoạt động chứng thực ở một số địa phương còn lúng túng, chất lượng chưa cao (Cà Mau, Hải Phòng, Tiền Giang); cấp phiếu lý lịch tư pháp không đúng thời hạn (Gia Lai); có nơi cấp bản sao chưa đúng quy định, thậm chí tuỳ tiện (Ninh Bình).

- Việc giải quyết hồ sơ xin nhập, xin thôi, trở lại quốc tịch Việt Nam còn chậm; tình trạng chậm cung cấp biểu mẫu hộ tịch cho cơ sở vẫn còn.

- Nhiều địa phương thực hiện việc phỏng vấn trong đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài còn mang tính hình thức, kết quả phỏng vấn còn đặt ra những nghi vấn.

- Quản lý nhà nước trong lĩnh vực con nuôi, nhất là nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn bất cập, yếu kém.

- Việc thực hiện thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực hộ tịch chưa được đẩy mạnh, nhiều sai phạm chưa được xử lý, chấn chỉnh kịp thời (Cà Mau).

Nguyên nhân của hạn chế, bất cập:

- Khối lượng công việc về hộ tịch và chứng thực lớn, tình trạng quá tải công việc của cán bộ làm công tác tư pháp - hộ tịch vẫn còn ở nhiều địa phương.

- Thể chế về nuôi con nuôi còn nhiều kẽ hở, nhất là quy định liên quan đến nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài (như vấn đề xác minh nguồn gốc trẻ bị bỏ rơi, quy định về các loại bệnh hiểm nghèo với trẻ sống tại gia đình cho làm con nuôi người nước ngoài); một số quy định về phỏng vấn đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài chưa rõ ràng, cụ thể; trình độ của cán bộ làm công tác phỏng vấn còn hạn chế.

- Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác chứng thực, hộ tịch chưa đáp ứng được nhu cầu công việc; một số UBND cấp xã chưa thật sự quan tâm đến hoạt động chứng thực; công tác thu chi, quản lý lệ phí chứng thực của nhiều xã, phường, thị trấn chưa được thực hiện thống nhất theo quy định của pháp luật.

- Đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là tư pháp cấp xã còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

- Việc hiểu và áp dụng các quy định về điều kiện kết hôn, nhất là kết hôn với người nước ngoài có sự khác nhau ở nhiều địa phương (Hậu Giang, Tây Ninh, Cà Mau), trong khi công tác chỉ đạo, hướng dẫn, giải đáp về chuyên môn, nghiệp vụ còn chưa tích cực, kịp thời.

4. Tăng cường năng lực của các cơ quan bổ trợ tư pháp, tiếp tục xã hộihóahoạt động bổ trợ tư pháp

Kết quả đạt được:

- Trình Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 30/3/2009 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư;  Phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan tổ chức thành công Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất, bầu ra Liên Đoàn Luật sư toàn quốc. Đây là sự kiện quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới, có nhiều hứa hẹn tích cực về tương lai của nghề luật sư ở nước ta, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế.

- Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp (Quyết định số 74/2009/QĐ-TTg) để tháo gỡ căn bản chế độ, chính sách đối với giám định viên tư pháp; đang lấy ý kiến các đơn vị có liên quan về dự thảo Kế hoạch tổ chức Hội nghị tổng kết 4 năm thi hành Pháp lệnh giám định tư pháp.

- Hoạt động bán đấu giá tài sản dần đi vào nền nếp; nhiều địa phương đã chuyển việc đấu giá quyền sử dụng đất cho các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản của Sở Tư pháp. Trong 6 tháng đầu năm 2009, số cuộc bán đấu giá thành khoảng 1.750, số phí bán đấu giá tài sản thu được khoảng 10 tỷ đồng.

- Tích cực hướng dẫn các địa phương tháo gỡ khó khăn trong áp dụng Luật Công chứng; chỉ đạo quyết liệt việc chuyển giao thẩm quyền chứng nhận các giao dịch hợp đồng về quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân từ Ủy ban nhân dân cấp xã sang tổ chức hành nghề công chứng (tính đến nay đã có 24/63 địa phương thực hiện việc chuyển giao); tổng số việc công chứng là: 353.859; số thu nộp ngân sách là: 156.524.956.800 đồng. Một số địa phương quán triệt và triển khai thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng (Bà Rịa-Vũng Tàu, Đà Nẵng); sự ”tiếp nhận” xã hội hóa hoạt động công chứng trong xã hội có nhiều dấu hiệu tích cực.

Hạn chế, bất cập:

- Việc xây dựng nhiều đề án, văn bản trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp chưa đảm bảo tiến độ theo kế hoạch; chậm hướng dẫn Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 của Chính phủ về tư vấn pháp luật.

- Chất lượng hoạt động luật sư còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế; 01 địa phương chưa có tổ chức Đoàn luật sư (Lai Châu); tình trạng không có luật sư tham gia vụ án hình sự bắt buộc phải có luật sư vẫn còn; một số trường hợp luật sư có biểu hiện chưa đúng đắn về lập trường chính trị, tư tưởng, thậm chí vi phạm pháp luật; công tác quản lý, kiểm tra hoạt động của luật sư, nhất là đối với luật sư nước ngoài còn chưa hiệu quả, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan (cơ quan Công an, Tòa án, Viện Kiểm sát).

- Chưa tạo được chuyển biến rõ rệt trong công tác giám định tư pháp; đội ngũ giám định viên tư pháp còn thiếu về số lượng và hạn chế về trình độ chuyên môn; một số kết quả giám định về một vụ việc còn thiếu thống nhất giữa các cơ quan giám định; việc triển khai chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp, thu hút các cơ quan, tổ chức chuyên môn, các chuyên gia giỏi trong và ngoài khu vực nhà nước tham gia vào hoạt động giám định còn nhiều hạn chế.

- Một số Trung tâm bán đấu giá tài sản chưa thực hiện nghiêm chỉnh thủ tục bán đấu giá tài sản, dẫn đến khiếu kiện của đương sự; quản lý nhà nước đối với bán đấu giá tài sản còn nhiều bất cập, cơ quan tư pháp chưa thực hiện được việc tham mưu cho chính quyền địa phương thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về bán đấu giá, nhất là bán đấu giá tài sản công, quyền sử dụng đất.

- Việc xã hội hóa hoạt động công chứng mới được triển khai chưa thống nhất, đồng bộ ở các địa phương; có địa phương phát triển "nóng" các Văn phòng công chứng một cách bất hợp lý (Hà Nội); việc chuyển giao thẩm quyền chứng nhận các giao dịch, hợp đồng về nhà, đất từ Ủy ban nhân dân cấp xã sang tổ chức hành nghề công chứng chưa đúng theo hướng dẫn của Bộ (Quảng Nam); một số nơi có dấu hiện cạnh tranh không làm mạnh, vi phạm pháp luật trong hoạt động công chứng; sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa Phòng công chứng và Văn phòng công chứng chưa hiệu quả; nhiều địa phương chưa có quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng, chưa có giải pháp hữu hiệu để quản lý hoạt động của các Văn phòng công chứng.

Công tác quản lý nhà nước, tổ chức thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp của Sở Tư pháp nhiều địa phương còn yếu, nhất là công tác hướng dẫn, giải đáp về nghiệp vụ cho cơ sở.

Nguyên nhân của hạn chế, bất cập:

- Chưa có chiến lược tổng thể về phát triển các tổ chức bổ trợ tư pháp.

- Thiếu cán bộ quản lý có kinh nghiệm và trình độ phù hợp, nhất là trong quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản, hoạt động của các Văn phòng công chứng.

- Một số địa phương chưa làm tốt việc đánh giá, dự báo tình hình phát triển kinh tế - xã hội để có bước đi thích hợp trong xã hội hóa hoạt động công chứng; mặt khác nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, về vai trò, ý nghĩa to lớn của hoạt động công chứng trong việc đảm bảo môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh, nhất là đối với các giao dịch, hợp đồng của người dân, doanh nghiệp.

- Chế độ đãi ngộ đối với hoạt động giám định tư pháp còn bất cập; năng lực đội ngũ giám định viên nhìn chung còn yếu; thể chế về giám định tư pháp chưa hoàn thiện.

- Một số Bộ, ngành hữu quan chưa tích cực phối hợp trong việc xây dựng các văn bản, đề án trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp.

5. Tiếp tục lộ trình cải cách tư pháp, cải cách hành chính

Kết quả đạt được:

- Ban hành và triển khai thực hiện Chương trình công tác trọng tâm công tác tư pháp năm 2009 - 2010 của Bộ Tư pháp (Quyết định số 824/QĐ-BTP ngày 20/4/2009) thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW và Chương trình trọng tâm năm 2009 - 2010 của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương; xây dựng, trình Chính phủ phê duyệt và đang tích cực triển khai thực hiện Đề án thí điểm thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh; triển khai xây dựng Đề án về việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để giao Bộ Tư pháp thống nhất quản lý nhà nước về thi hành án.

- Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước, Luật Lý lịch tư pháp, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 5 chứa đựng nhiều nội dung mới tiến bộ, phù hợp với tinh thần của cải cách tư pháp (bỏ hình phạt tử hình đối với 8 tội danh).

- Hoàn thành giai đoạn 1 Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính giai đoạn 2007 - 2010; Tổ công tác Đề án 30 của Bộ đã phối hợp với các đơn vị liên quan tích cực rà soát các thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp có liên quan đến người dân và doanh nghiệp (ủy thác tư pháp; cấp ý kiến pháp lý cho các Bộ, ngành; đào tạo các chức danh tư pháp; thực thi nhiệm vụ theo dõi chung về xây dựng và thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước...); chỉnh sửa, bổ sung, hoàn chỉnh các biểu mẫu thủ tục hành chính và cơ sở dữ liệu trong phần mềm Máy xén theo hướng dẫn của Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ.

- Nhiều Sở Tư pháp đã công khai các biểu mẫu và hướng dẫn thủ tục hành chính trên các cổng thông tin điện tử của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và tổ chức.

- Bộ tiếp tục xây dựng, sửa đổi, bổ sung và áp dụng các quy trình giải quyết công việc theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000.

- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Bộ, Ngành: ban hành Chỉ thị của Bộ trưởng về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin.

Hạn chế, bất cập:

- Việc thống kê, rà soát thủ tục hành chính tuy cơ bản đảm bảo đúng tiến độ, nhưng chất lượng chưa cao (còn lúng túng về phương pháp và xác định tiêu chí phân loại thủ tục); thủ tục được rà soát chưa bao quát hết các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ.

- Chưa tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa rà soát, thống kê thủ tục hành chính với xây dựng các đề án, văn bản có liên quan.

Nguyên nhân của hạn chế, bất cập:

- Khối lượng công việc liên quan đến cải cách hành chính, nhất là thống kê, rà soát thủ tục hành chính nhiều, trong khi lực lượng cán bộ chuyên trách làm công tác này còn mỏng; một số đơn vị chưa kịp thời phối hợp chặt chẽ với Tổ công tác Đề án 30 trong việc thống kê, rà soát các thủ tục hành chính.

- Việc bổ sung, hoàn chỉnh dữ liệu thống kê thủ tục hành chính là công việc thường xuyên, gắn với công tác xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp, tuy nhiên các thành viên chuyên trách về cải cách hành chính chưa có điều kiện thuận lợi để tham gia vào quá trình xây dựng, soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Bộ chủ trì xây dựng.

6. Kiện toàn tổ chức, cán bộ; tạo chuyển biến về chất lượng đào tạo cán bộ pháp luật

Kết quả đạt được:

- Ban hành Quy chế làm việc của Bộ; các quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các đơn vị thuộc Bộ bảo đảm sự phù hợp với Nghị định số 93/2008/NĐ-CP[13].

- Kiện toàn một bước về mặt tổ chức, đội ngũ cán bộ cấp vụ; sắp xếp, điều chuyển về chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị thuộc Bộ phù hợp với Nghị định số 93/2008/NĐ-CP; hoàn thành việc xây dựng và điều chỉnh quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Bộ.

- Phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và công tác tư pháp của Ủy ban nhân dân cấp xã; Công văn số 60-CV/BCS gửi Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Thành uỷ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc đề nghị quan tâm kiện toàn, củng cố cơ quan tư pháp địa phương.

- Các cơ quan tư pháp địa phương đã chủ động hơn trong công tác cán bộ; một số địa phương đã hoàn thành việc xây dựng đề án kiện toàn tổ chức và hoạt động của Sở Tư pháp; một số Sở Tư pháp làm tốt công tác tham mưu cho chính quyền địa phương trong việc tăng biên chế cho đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã và cấp huyện.

- Hoàn thành và trình Đề án xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ pháp luật, Đề án xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp; Đề án thành lập một số trường trung cấp luật; tích cực triển khai Đề án thành lập trường Trung cấp luật ở Đắk Lắk.

- Tiếp tục thực hiện các đề tài, nhiệm vụ khoa học được giao, bám sát nhiệm vụ của Bộ, ngành, nhất là nhiệm vụ xây dựng đề án, văn bản; tổ chức thành công nhiều hội thảo, tọa đàm khoa học liên quan đến Chiến lược phát triển ngành Tư pháp.

Hạn chế, bất cập:

- Cơ cấu nhân sự của một số đơn vị thuộc Bộ chưa hợp lý; việc xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức còn chậm; chưa triển khai thực hiện việc điều động, luân chuyển cán bộ, nhất là việc luân chuyển từ Trung ương về địa phương để nâng cao hiểu biết thực tế.

- Đội ngũ cán bộ tư pháp cơ sở một số nơi còn mỏng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ bất cập so với yêu cầu công việc; tình trạng cấp xã không có cán bộ tư pháp chuyên trách vẫn còn.

- Ý thức chấp hành kỷ cương hành chính, kỷ luật lao động, trách nhiệm đối với công việc trong một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa cao; một số cán bộ chưa chuyên tâm với công việc, ý thức công vụ thấp, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân, thậm chí vi phạm pháp luật, gây dư luận xấu và làm giảm lòng tin trong xã hội.

- Công tác tổ chức, cán bộ của các cơ quan Tư pháp, tổ chức pháp chế sở, ngành ở địa phương còn nhiều bất cập; việc bố trí, sắp xếp cán bộ nhiều nơi, nhất là cấp xã còn chưa hợp lý, thậm chí còn mang tính "phong trào", chạy theo số lượng.

Nguyên nhân của hạn chế, bất cập:

- Nguồn tuyển dụng cán bộ vào các cơ quan Tư pháp còn thiếu, nhất là các vùng đồng bào dân tộc, miền núi, vùng sâu, vùng xa.

- Nhiều địa phương chưa quan tâm việc tăng biên chế cho ngành Tư pháp, nhất là tư pháp cấp huyện và cấp xã (vẫn còn tình trạng bố trí cán bộ tư pháp cấp xã kiêm các chức danh khác); một số Sở Tư pháp chưa thực sự chủ động, tinh thần trách nhiệm chưa cao trong việc tham mưu, đề xuất với chính quyền địa phương về việc kiện toàn tổ chức cán bộ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ đặt ra.

- Sự phối hợp giữa Cục THADS, Vụ Tổ chức cán bộ và các đơn vị có liên quan trong công tác cán bộ của hệ thống cơ quan THADS chưa thật chặt chẽ.

7.Đổi mới phương thức chỉ đạo điều hành; đẩy mạnh việc phân cấp trong một số lĩnh vực hoạt động, hướng mạnh về cơ sở

Kết quả đạt được:

- Hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành tiếp tục được cải tiến, sâu sát, quyết liệt; vừa bám sát kế hoạch, vừa mềm dẻo, linh hoạt trong từng việc cụ thể; việc phân công, phối hợp công tác, thông tin hai chiều trong tập thể Lãnh đạo Bộ hợp lý và phát huy hiệu quả; lịch làm việc của Lãnh đạo Bộ được xây dựng cụ thể theo tuần, tháng, quý, tạo cơ sở cho các đơn vị xây dựng kế hoạch công tác của mình;

- Các cuộc họp giao ban Lãnh đạo Bộ, Thủ trưởng các đơn vị, cán bộ cấp Vụ được duy trì đều đặn, chuẩn bị kỹ về nội dung, tài liệu nên đảm bảo chất lượng, thực chất; sau mỗi cuộc họp đều có kết luận cụ thể để chỉ đạo các lĩnh vực hoạt động, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết luận của Lãnh đạo Bộ, nhờ đó, hoạt động chỉ đạo, điều hành đạt hiệu quả cao hơn, góp phần tích cực hơn vào việc hoàn thành nhiệm vụ của Bộ, Ngành; Văn phòng Bộ có nhiều cố gắng thực hiện vai trò tham mưu, tổng hợp phục vụ chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo Bộ.

- Tập thể Lãnh đạo Bộ chỉ đạo sát sao, quyết liệt việc triển khai công tác theo kế hoạch của các đơn vị, nhất là công tác xây dựng đề án, văn bản và công tác giải quyết các vụ việc khiếu nại tồn đọng, kéo dài; nhờ đó nhiều việc tồn đọng được giải quyết, bảo đảm tiến độ, chất lượng.

- Việc theo dõi và chỉ đạo giải quyết kịp thời những vấn đề các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin có liên quan đến các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ được Lãnh đạo Bộ quan tâm thực hiện; Lãnh đạo Bộ chú trọng việc đi cơ sở, nhất là về các địa phương có nhiều khó khăn trong triển khai công tác tư pháp để nắm tình hình, chỉ đạo, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc liên quan đến tổ chức và hoạt động của Ngành[14];

- Chế độ báo cáo công tác được thực hiện cơ bản tốt; nội dung báo cáo đã chú trọng đi sâu phân tích, nhận định đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ, đề xuất được nhiều giải pháp xác đáng.

- Thực hiện việc phân cấp mạnh cho các đơn vị, các cá nhân nhằm xác định cụ thể nhiệm vụ, nâng cao tinh thần trách nhiệm.

- Công tác phối hợp giữa ngành Tư pháp với các ngành hữu quan tiếp tục được tăng cường, mở rộng và phát huy hiệu quả[15].

- Việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành có chuyển biến tích cực.

Hạn chế, bất cập

- Việc xây dựng chương trình, kế hoạch công tác của một số đơn vị còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa bám sát yêu cầu nhiệm vụ của Ngành, địa phương để tập trung giải quyết ngay các bức xúc mà thực tiễn đang đặt ra; công tác thống kê còn nhiều bất cập, chưa bài bản và thống nhất trong toàn Ngành.

- Việc hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ của một số đơn vị chức năng thuộc Bộ nhiều khi chưa kịp thời; một số chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ chưa được kịp thời triển khai rộng khắp xuống tận cơ sở; vai trò chỉ đạo, hướng dẫn của Sở Tư pháp đối với cấp huyện và cấp xã nhìn chung còn hạn chế.

- Một số cơ quan Tư pháp địa phương còn chưa thực sự chủ động trong việc giải quyết các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tình trạng trông chờ, ỷ lại vào sự hướng dẫn cụ thể của Trung ương, của cấp trên vẫn còn.

Đánh giá chung

Trong 6 tháng đầu năm 2009, nhìn chung ngành Tư pháp đã triển khai nhiệm vụ công tác có trọng tâm, trọng điểm; một số mặt công tác có chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn so với năm 2008: tạo được bước chuyển quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật, nhất là xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương, góp phần tích cực từng bước hình thành chu trình quản lý, điều hành thông suốt, nhanh nhạy, hiệu quả của Chính phủ; tháo gỡ được một bước về thể chế trong một số lĩnh vực quản lý của Ngành (thi hành án, quốc tịch, lý lịch tư pháp, bồi thường nhà nước); tham mưu kịp thời về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác luật sư; tạo được chuyển biến bước đầu, có nhiều hứa hẹn về tương lai phát triển của nghề luật sư ở nước ta; xã hội hóa hoạt động công chứng đạt được những kết quả cụ thể; khắc phục dần những bất cập trong lĩnh vực con nuôi, kết hôn có yếu tố nước ngoài; hoạt động giám định tư pháp, bán đấu giá tài sản có sự khởi sắc; công tác cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong những lĩnh vực quản lý nhà nước của Ngành có những tiến bộ đáng kể; công tác tổ chức, bộ máy, cán bộ của Ngành tiếp tục được củng cố, kiện toàn mạnh mẽ; công tác chỉ đạo, điều hành từ Bộ đến địa phương tiếp tục được đổi mới, tập trung cao cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành. Những kết quả này đã góp phần tích cực vào quá trình hoàn thiện pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành, thực thi pháp luật của bộ máy nhà nước và nhân dân, từng bước khẳng định được vị trí, vai trò của Ngành trong đời sống xã hội.

Có được những thành công nêu trên trước hết là nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, chỉ đạo kịp thời của Thủ tướng Chính phủ; việc xây dựng và chỉ đạo, đôn đốc thực hiện kế hoạch công tác của Bộ và các cơ quan Tư pháp địa phương được thực hiện bài bản, khoa học, xác định đúng công việc trọng tâm, trọng điểm và có giải pháp thực hiện phù hợp; ưu tiên hợp lý trong việc thực hiện nhiệm vụ cấp bách. Lãnh đạo Bộ và Lãnh đạo nhiều cơ quan, đơn vị "đeo bám" công việc với quyết tâm, tinh thần trách nhiệm cao, hướng mạnh các hoạt động về cơ sở; sớm phát hiện những vướng mắc, bất cập trong các mặt hoạt động, có biện pháp chỉ đạo xử lý kịp thời. Công tác phối hợp được tăng cường; chủ động thiết lập, thường xuyên duy trì, sử dụng hiệu quả quan hệ phối hợp công tác trong và ngoài Ngành. Công tác tổ chức, cán bộ được đặc biệt coi trọng, nhất là việc kiện toàn người đứng đầu đủ năng lực, trình độ, gương mẫu về phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm và hoàn thành công tác.

Bên cạnh đó, một số nhiệm vụ trọng tâm triển khai còn khó khăn, vướng mắc, kết quả đạt được chưa cao (Phụ lục I):nhiệm vụquản lý nhà nước vềthi hành pháp luật chưa triển khai được; quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật còn lúng túng; việc thẩm định, kiểm tra VBQPPL trong nhiều trường hợp còn mang tính hình thức, nặng về tư duy pháp lý thuần túy, máy móc, chưa bám sát và phản ánh đúng nhu cầu thực tế; kết quả thi hành án đạt thấp so với kế hoạch đề ra; thể chế của Ngành, nhất là về hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp còn nhiều bất cập; công tác quản lý nhà nước về hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp chưa chủ động, kịp thời, nhất là trong xây dựng, ban hành chiến lược, quy hoạch, hướng dẫn nghiệp vụ cho địa phương, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm, dẫn đến tình trạng "chạy" theo vụ việc, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao. Công tác hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp ở địa phương chưa thể hiện rõ nét vai trò của ngành Tư pháp. Các Sở Tư pháp nhìn chung mới dừng lại ở việc thực hiện những nhiệm vụ theo thẩm quyền được phân cấp, chưa bám sát để có chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời công tác tư pháp của cấp huyện và cấp xã; việc thanh tra, kiểm tra chưa thường xuyên, chưa kịp thời phát hiện vi phạm để có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục; chưa chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong kiện toàn tổ chức, củng cố, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ. Vị trí, tiếng nói của ngành Tư pháp ở nhiều địa phương còn "mờ nhạt", chưa tạo được dấu ấn, sự tin tưởng cao của Lãnh đạo chính quyền cũng như trong nhận thức của người dân.

Nguyên nhân chính của những hạn chế, bất cập nêu trên là: năm 2009, ngành Tư pháp phải triển khai nhiều nhiệm vụ mới, phức tạp; nhận thức về trách nhiệm của Bộ, Ngành trong việc giúp Chính phủ, UBND các cấp thực hiện việc quản lý nhà nước về công tác tư pháp chưa cao; hoạt động tư pháp còn mải theo sự vụ chứ chưa đạt tầm khái quát cần thiết, chưa thể hiện đầy đủ các nội dung của hoạt động quản lý nhà nước; sự phối kết hợp với các Ngành đang còn lúng túng; một số cơ quan, đơn vị chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng kế hoạch công tác cụ thể (quý, tháng, tuần) sát với Chương trình công tác trọng tâm của Ngành; chưa chủ động, sát sao, quyết liệt trong triển khai nhiệm vụ trọng tâm để tạo chuyển biến đột phá; quan hệ phối hợp công tác, tuy đã được cải thiện, nhưng vẫn chưa đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ, nhất là ở địa phương; đội ngũ cán bộ nhiều nơi còn mỏng, năng lực hạn chế.

II. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TRONG 6 THÁNG CUỐI NĂM 2009

Năm 2009 tiếp tục là năm "bản lề", chuẩn bị một bước cho việc xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020; bổ sung, phát triển Cương lĩnh của Đảng; xây dựng Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII; sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; hoàn thiện và trình Quy hoạch phát triển của ngành Tư pháp đến năm 2020. Trong 06 tháng cuối năm 2009, ngành Tư pháp phải tập trung thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong khi khối lượng công việc theo kế hoạch ban hành từ đầu năm còn rất nặng nề, trong đó có những nhiệm vụ mới như: quản lý nhà nước về thi hành pháp luật; triển khai thi hành các luật mới (Luật Thi hành án dân sự, Luật Quốc tịch Việt Nam, Luật Lý lịch tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước; tiếp tục củng cố, kiện toàn bộ máy, cán bộ, nhất là cán bộ tư pháp cấp huyện và cấp xã...). Triển khai tốt những nhiệm vụ này là tiền đề để ngành Tư pháp tạo bước đột phá về chất lượng công tác trong những năm tới, ngày càng khẳng định vị thế, vai trò của Ngành trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Để hoàn thành kế hoạch công tác năm 2009, các cơ quan, đơn vị trong Ngành cần đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ được phân công theo Kế hoạch thực hiện Chương trình công tác trọng tâm của ngành Tư pháp năm 2009[16], trong đó tập trung cao độ cho các nhiệm vụ và giải pháp theo thứ tự ưu tiên sau:

Thứ nhất, triển khai thực hiện tốt Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và công tác tư pháp của Ủy ban nhân dân cấp xã.

Các cơ quan tư pháp địa phương tích cực tham mưu cho Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện tốt các đề nghị của Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp về quan tâm kiện toàn, củng cố cơ quan tư pháp địa phương (Công văn số 60-CV/BCS ngày 10/06/2009), trong đó đặc biệt chú trọng việc thành lập đoàn kiểm tra liên ngành của tỉnh để đánh giá toàn diện thực trạng việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, số lượng, chất lượng và việc bố trí, sắp xếp cán bộ của Sở Tư pháp, tổ chức pháp chế của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh; xây dựng và tổ chức thực hiện Đề án kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức, biên chế của Sở Tư pháp, tổ chức pháp chế, Phòng Tư pháp và Tư pháp cấp xã.

Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy các đơn vị thuộc Bộ nhất là đội ngũ cán bộ xây dựng, thẩm định VBQPPL; xây dựng và ban hành quy chế làm việc của các đơn vị, trong đó có sự phân công, phân cấp khoa học giữa lãnh đạo và cán bộ, chuyên viên trong triển khai công việc; đổi mới và thực hiện quyết liệt quy trình tuyển dụng, luân chuyển, điều động cán bộ; thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác theo Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức.

Thứ hai, triển khai thi hành tốt Luật Thi hành án dân sự; tập hợp các vướng mắc của địa phương để hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng Luật Thi hành án dân sự; kịp thời hướng dẫn địa phương triển khai thực hiện Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành về cơ cấu tổ chức, cán bộ của cơ quan Thi hành án dân sự sau khi được Chính phủ ban hành.

Giải quyết một bước căn bản số việc thi hành án dân sự tồn đọng, hạn chế làm phát sinh việc tồn đọng mới, giảm ít nhất 10% đến 15% số việc thi hành án dân sự tồn đọng; phấn đấu thi hành xong hoàn toàn đạt 75% về việc và 55% về tiền trong số việc có điều kiện thi hành; hoàn thành rà soát, đề nghị miễn thi hành các khoản thu cho ngân sách Nhà nước có giá trị không quá 500.000 đồng mà thời gian tổ chức thi hành án đã quá 05 năm tính đến ngày 01/7/2009 nhưng không có điều kiện thi hành; thực hiện đồng bộ các giải pháp, thực sự tạo chuyển biến cơ bản trên địa bàn Hà Nội, nâng cao hiệu quả thi hành án trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Kiện toàn tổ chức bộ máy của Cục THADS sau khi Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành về cơ cấu tổ chức, cán bộ của cơ quan Thi hành án dân sự được ban hành; Thi hành án dân sự cấp tỉnh chủ động phối hợp với Sở Tư pháp tiến hành lựa chọn, đề xuất phương án nhân sự lãnh đạo cơ quan Thi hành án dân sự địa phương, đảm bảo đủ tiêu chuẩn, xứng tầm của lãnh đạo cơ quan trung ương đóng tại địa phương; tiếp tục tiến hành rà soát, đánh giá đội ngũ Chấp hành viên để bổ nhiệm vào các ngạch Chấp hành viên tương ứng.

Hoàn thành việc tổng kết và chuyển giao quản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan Thi hành án dân sự từ Giám đốc Sở Tư pháp sang cho Trưởng Thi hành án dân sự; triển khai thực hiện tốt các công việc theo hướng dẫn của Bộ tại Công văn số 2315/BTP-THA ngày 17/7/2009.

Tăng cường đoàn kết nội bộ, trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ thi hành án, nhất là đội ngũ chấp hành viên; kiểm tra, giám sát thực hiện các kết luận thanh tra đã có hiệu lực pháp luật trong công tác thi hành án dân sự.

Thứ ba, triển khai tốt Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 636/CT-TTg ngày 20/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2008; chuẩn bị các điều kiện để sơ kết hai năm triển khai thực hiện Luật ban hành VBQPPL 2008 vào năm 2010; nghiên cứu, đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung, kể cả hợp nhất Luật Ban hành văn bản QPPL 2008 và Luật Ban hành VBQPPL của HĐND và UBND; Ban hành Thông tư về Quy chế thẩm định VBQPPL của Bộ Tư pháp.

Tổ chức tốt việc tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, tham mưu, kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung Chiến lược; tích cực, chủ động chuẩn bị Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII.

Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật, góp phần tích cực vào hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ phục vụ mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, phòng ngừa lạm phát, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.

Hoàn thành và công bố Bộ thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp. Các đơn vị thuộc Bộ phối hợp tốt với Tổ công tác thực hiện Đề án 30 của Bộ tiến hành rà soát đầy đủ, chính xác các thủ tục hành chính đã được thống kê; công bố thủ tục hành chính trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ để mọi người dân biết, thực hiện và tham gia ý kiến. Tổ chức nghiên cứu các thủ tục hành chính đã thống kê để đề xuất đơn giản hóa; đề xuất sửa đổi, bổ sung VBQPPL chứa đựng thủ tục hành chính đã được công bố; gắn kết chặt chẽ giữa rà soát, thống kê thủ tục hành chính với xây dựng các đề án, văn bản có liên quan.

Chuẩn bị kế hoạch thực hiện Đề án triển khai nhiệm vụ theo dõi chung về thi hành pháp luật sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ theo dõi chung về thi hành pháp luật; nghiên cứu, đề xuất xây dựng Nghị định về theo dõi thi hành pháp luật.

Ban hành và tổ chức thực hiện tốt các Kế hoạch thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước, Luật Lý lịch tư pháp, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự; triển khai thực hiện tốt Nghị định thay thế Nghị định số 76/2006/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp sau khi được Chính phủ ban hành. Tiếp tục hoàn thiện và trình Luật Nuôi con nuôi, Luật Tiếp cận thông tin; triển khai xây dựng Luật Thủ đô, Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật và Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật.

Cơ quan Tư pháp địa phương chủ động, tích cực tham mưu cho chính quyền địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật, triển khai nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi hành pháp luật; tham gia kịp thời vào quá trình xây dựng văn bản pháp luật của HĐND, UBND các cấp để tham mưu các nội dung lớn của văn bản; sớm phát hiện và đề xuất cơ quan soạn thảo loại bỏ những mâu thuẫn, chồng chéo, những thủ tục hành chính rườm rà ngay trong dự thảo các văn bản QPPL; chú trọng đánh giá tính khả thi, tác động của văn bản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là việc thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Thứ tư, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành chính tư pháp; tiếp tục triển khai thực hiện tốt các Kế hoạch triển khai thực hiện Luật Quốc tịch Việt Nam; Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 31 của Thủ tướng Chính phủ về việc giải quyết tình trạng di cư tự do, vượt biên trái phép và kết hôn không giá thú ở khu vực biên giới Việt Nam - Lào; hoàn thiện hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam đối với người Campuchia lánh nạn tại Việt Nam để trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định.

Triển khai thực hiện Kế hoạch thực hiện Luật Lý lịch tư pháp, tập trung vào việc tuyên truyền, phổ biến Luật, xây dựng chương trình bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác lý lịch tư pháp; tiếp tục hoàn thiện Đề án thành lập Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia; chuẩn bị xây dựng Luật Hộ tịch, nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật Chứng thực.

Tăng cường công tác hướng dẫn nghiệp vụ, trả lời kiến nghị, thắc mắc của địa phương trong công tác hành chính tư pháp; hoàn thành và trình Đề án in, phát hành biểu mẫu hộ tịch.

Cơ quan Tư pháp địa phương tích cực tham mưu với UBND các cấp trong việc điều chỉnh thẩm quyền chứng thực đối với các xã, phường, thị trấn không đủ điều kiện về biên chế, năng lực cán bộ, cơ sở vật chất để giao thẩm quyền này cho Phòng Tư pháp quận, huyện thực hiện; tiếp tục thực hiện việc rà soát, đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch, chứng thực; xây dựng, ban hành Quy chế phối hợp các ngành hữu quan trong giải quyết các vướng mắc giữa giấy tờ hộ tịch và các giấy tờ khác của công dân.

Tăng cường kiểm tra, thanh tra công tác hành chính tư pháp ở địa phương, nhất là việc in, phát hành, sử dụng biểu mẫu hộ tịch, thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến người dân ở cấp huyện và cấp xã.

Thứ năm, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, nhất là trong các hoạt động luật sư, công chứng và bán đấu giá tài sản.

Hoàn thành và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các Đề án về chiến lược phát triển nghề luật sư, Đề án quy hoạch tổng thể phát triển nghề công chứng đến năm 2020, Đề án về đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giám định tư pháp; kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo việc xây dựng và triển khai thực hiện Đề án quy hoạch phát triển nghề công chứng ở địa phương, đảm bảo dự báo chính xác tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương để có định hướng lâu dài trong phát triển nghề công chứng; ban hành Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 của Chính phủ về tư vấn pháp luật; khẩn trương hoàn thành và trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản, triển khai thực hiện tốt Nghị định này sau khi được Chính phủ ban hành; tổ chức tổng kết 4 năm thi hành Pháp lệnh Giám định tư pháp, Hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện Luật Công chứng và Nghị định 79/2007/NĐ-CP; phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam xây dựng Luật Trọng tài thương mại; nghiên cứu, chuẩn bị cho việc đề xuất xây dựng Luật Giám định tư pháp, Luật Đấu giá tài sản, sửa đổi Luật Công chứng, Luật Luật sư.

Cơ quan Tư pháp chủ động, tích cực tham mưu cho chính quyền địa phương thực hiện tốt các việc sau:

- Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng; chuyển giao thẩm quyền chứng thực các hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, bất động sản từ UBND sang cho các tổ chức hành nghề công chứng ở các địa phương phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa bàn; chú trọng tuyên truyền về vai trò của hoạt động công chứng trong việc đảm bảo an toàn pháp lý cho các giao dịch, hợp đồng, nhất là các giao dịch, hợp đồng liên quan đến bất động sản; tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của Văn phòng công chứng, kịp thời phát hiện xử lý vi phạm; có kế hoạch cụ thể để đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chứng viên.

- Củng cố, kiện toàn tổ chức Đảng trong tổ chức luật sư; tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp, theo dõi, phát hiện và kịp thời chấn chỉnh các biểu hiện lệch lạc, tiêu cực trong hoạt động luật sư; hỗ trợ về tổ chức và hoạt động của các Đoàn luật sư; xây dựng và ban hành Chiến lược phát triển đội ngũ luật sư trên địa bàn, gửi Bộ để tập hợp làm căn cứ xây dựng Chiến lược chung về phát triển nghề luật sư của cả nước.

- Triển khai thực hiện Quyết định số 74/2009/QĐ-TTg ngày 07/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về  chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp.

- Thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước về đấu giá tài sản, nhất là về bán đấu giá quyền sử dụng đất và tài sản công; xây dựng Đề án về việc triển khai thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản, đảm bảo quản lý thống nhất mọi hoạt động bán đấu giá tài sản tại địa phương; thực hiện tốt việc bán đấu giá tài sản là tang vật vi phạm hành chính theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi).

Thứ sáu, thực hiện các nhiệm vụ của Ngành trong Chương trình trọng tâm của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương năm 2009 (theo Kế hoạch ban hành kèm theo Quyết định 824/QĐ-BTP ngày 20/4/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); chuẩn bị tốt cho buổi làm việc của Đồng chí Chủ tịch nước, Trưởng Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp (CCTP) Trung ương với Bộ Tư pháp về công tác tư pháp và cải cách tư pháp (dự kiến trong tháng 8/2009); báo cáo Thường trực Ban Chỉ đạo CCTP Trung ương về các Đề án xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ pháp luật, Đề án Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp, tình hình triển khai thực tế Đề án thí điểm Thừa phát lại tại Tp. Hồ Chí Minh; hoàn thành và trình các Đề án về việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi hành án, Đề án đảm bảo trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các cơ quan, đơn vị thuộc ngành Tư pháp giai đoạn 2011-2015, Đề án quy hoạch trụ sở làm việc và kho vật chứng của cơ quan Thi hành án dân sự được tổ chức theo khu vực.

Thứ bảy, tiếp tục chú trọng đổi mới phương thức quản lý, chỉ đạo, điều hành; các cơ quan, đơn vị xây dựng kế hoạch công tác (quý, tháng, tuần) một cách khoa học, cụ thể, xác định ưu tiên hợp lý trong triển khai các nhiệm vụ trọng tâm; đổi mới căn bản và thực hiện thống nhất công tác thống kê trong toàn Ngành. Lãnh đạo cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu chủ động, sát sao, phát huy tinh thần trách nhiệm trong quản lý, chỉ đạo, điều hành triển khai nhiệm vụ; giảm bớt hội họp, tăng cường đi cơ sở để nắm tình hình và kịp thời chỉ đạo giải quyết những khó khăn, vướng mắc cho địa phương.

Tăng cường thực hiện các Quy chế làm việc của Bộ, Quy chế văn hóa công sở. Văn phòng Bộ đẩy mạnh việc kiểm tra, hướng dẫn, đôn đốc, giám sát việc thực hiện các Quy chế này.

Xây dựng và triển khai Kế hoạch thực hiện Chỉ thị của Bộ trưởng về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Ngành, nhất là trong hoạt động chỉ đạo, điều hành; rà soát, công bố và thống nhất áp dụng danh mục văn bản quản lý, điều hành chỉ sử dụng hình thức văn bản điện tử; tăng cường việc tổ chức họp, giao ban bằng hình thức điện tử đa phương tiện (trực tuyến); tiếp tục cải tiến và ứng dụng hiệu quả phần mềm quản lý văn bản, hồ sơ công việc, cơ sở dữ liệu pháp luật; xây dựng và triển khai ứng dụng các phần mềm phục vụ quản lý nhà nước về quốc tịch, hộ tịch, lý lịch tư pháp, luật sư.

 

 

 

Nơi nhận:

- Ban Bí thư ;

- Thủ tướng Chính phủ; để

- Phó TTg Trương Vĩnh Trọng; báo

- Văn phòng Trung ương Đảng; cáo

- Văn Phòng Chính phủ;

- Bộ trưởng;

- Các Thứ trưởng;

- Các đơn vị thuộc Bộ;

- STP các tỉnh, TP trực thuộc TW;

- THADS các tỉnh, TP trực thuộc TW;

- Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng;

- Lưu: VT, TH.

 

KT. BỘ TRƯỞNG

THỨ TRƯỞNG THƯỜNG TRỰC

(Đã ký)

 

 

 

 

Hoàng Thế Liên

 



[1]Hội nghị triển khai công tác tư pháp năm 2009 vinh dựđược đón tiếpThủ tướng Chính phủ đến dự và phát biểu chỉ đạo.Những ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ có ý nghĩa quan trọng, trước hết là trong việc xác định trọng tâm, trọng điểm công tác năm 2009; tìm ra những giải pháp đồng bộ, khả thi, tạo chuyển biến mạnh trên các mặt công tác.

 

[2]Quyết định số 161/QĐ-TTg ngày 09/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật, pháp lệnh của Chính phủ năm 2009

[3]Nghị định số 24/2009/NĐ-CP,Chỉ thị số 636/CT-TTg.

[4]Tính đến ngày 22/7/2009, Bộ đã hoàn thành và trình 16/19 văn bản, đề ánthuộc thẩm quyền ban hành, phê duyệt củaBan Bí thư, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương,Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ(2 dự án luật, 14 đề án, văn bản khác), đạt 84,2%.

[5]Tại tỉnh Đồng Tháp, hàng năm UBND thành lập đoàn kiểm tra về công tác ban hành VBQPPL và xử lý vi phạm hành chính, có sự tham gia của Sở Tư pháp (năm 2009 đang tiến hành kiểm tra); từ năm 2003 UBND Tỉnh đã chỉ đạo và giao Sở Tư pháp phối hợp với các cơ quan chuyên môn kiểm tra (hàng tháng, quý), theo dõi việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính.

[6]Tính đến ngày 25/6/2009, Bộ đã tiếp nhận 2.180 văn bản do các Bộ, ngành, địa phương gửi để kiểm tra theo thẩm quyền; qua kiểm tra phát hiện 292 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật. Các địa phương thực hiện kiểm tra 174.659 văn bản, trong đó phát hiện 2.061 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, đã kiến nghị xử lý 1.756 văn bản.

[7]Tính đến ngày 22/7/2009, các đơn vị thuộc Bộ đãhoàn thành và trình18/73văn bản, đề án thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ, đạt gần 25%%, giảm 7% so với cùng kỳ năm 2008.

[8]Tínhđến ngày 25/6/2009, Bộ đã thẩm định xong 139 văn bản quy phạm pháp luật trên tổng số 172 văn bản được yêu cầu, đạt 75% (giảm 19% so với cùng kỳ năm 2008); góp ý 329 văn bản trên tổng số 466 văn bản được yêu cầu, đạt 70% (giảm 6% so với cùng kỳ năm 2008); các cơ quan Tư pháp địa phương đã thẩm định 10.232 văn bản.

[9]Quyết định số 858/QĐ-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ngày 27/4/2009 về việc phân bổ chỉ tiêu thực hiện nhiệm vụ thi hành án dân sự năm 2009.

[10]Hoàn thành và trình Chính phủ: Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành về cơ cấu tổ chức, cán bộ của cơ quan Thi hành án dân sự, Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án, Nghị định quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 13/7/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 58/NĐ - CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án.

[11]Công văn  số 231/BTP-THA ngày 17/7/2009

[12]Kết thúc năm 2008, 08 cơ quan THADS thiếu thủ trưởng; 6 tháng đầu năm 2009, 08 cơ quan THADS thiếu thủ trưởng, tình trạng thiếu thủ trưởng cơ quan THADS không giảm so với cuối năm 2008.

[13]Tính đến nay, 22/26 đơn vị thuộc Bộ đã có Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức.

[14]Từ đầu năm 2009 đến nay, Lãnh đạo Bộ đã có các chuyến công tác tại 41 địa phương; riêng Bộ trưởng Hà Hùng Cường đã thăm và làm việc với 23 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ướng về công tác tư  pháp và THADS. Sau các chuyến công tác, Bộ đều đã có Thông báo ý kiến kết luận của Bộ trưởng để các địa phương triển khai thực hiện.

[15]Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã có các buổi làm việc với Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo TANDTC, VKSNDTC, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính.

[16]Xem Phụ lục I

Ghi chú
LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Nội dung văn bản đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

văn bản cùng lĩnh vực

văn bản mới nhất

loading
×
×
×
Vui lòng đợi