Quyết định 291/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020 tại Việt Nam
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Quyết định 291/2006/QĐ-TTg
Cơ quan ban hành: | Thủ tướng Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 291/2006/QĐ-TTg | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Quyết định | Người ký: | Nguyễn Tấn Dũng |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 29/12/2006 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày hết hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Tài chính-Ngân hàng |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Quyết định 291/2006/QĐ-TTg
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
QUYẾT ĐỊNH
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 291/2006/QĐ-TTg NGÀY 29 THÁNG 12 NĂM 2006
PHÊ DUYỆT
ĐỀ ÁN THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
GIAI ĐOẠN
2006 - 2010 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020
TẠI VIỆT NAM
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ
chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam số 01/1997/QH10 ngày 12 tháng 12 năm
1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam số 10/2003/QH11 ngày 17 tháng 6 năm 2003;
Căn cứ
Luật các Tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12
tháng 12 năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật các Tổ chức
tín dụng số 20/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004;
Xét
đề nghị của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam tại tờ trình số 7604/TTr-NHNN ngày 05 tháng 9 năm 2006,
QUYẾT ĐỊNH :
Điều
1. Phê duyệt Đề án thanh toán không dùng
tiền mặt giai đoạn 2006
- 2010 và định hướng đến năm 2020
tại Việt Nam kèm theo Quyết định này.
Điều
2. Giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các
Bộ, ngành, địa phương liên quan phối hợp
tổ chức triển khai xây dựng và thực hiện
các đề án thành phần sau:
1. Đề án hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán của
nền kinh tế (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ
trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan thực
hiện từ năm 2006 đến năm 2010);
2. Nhóm đề án thanh toán không
dùng tiền mặt trong khu vực công, bao gồm các
đề án thành phần:
a) Quản lý chi
tiêu trong khu vực Chính phủ bằng phương tiện
thanh toán không dùng tiền mặt (Bộ Tài chính chủ trì,
phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng và
thực hiện từ năm 2007 đến năm 2010);
b) Trả
lương qua tài khoản (Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ,
Bộ Tài chính xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ
ban hành Chỉ thị trả lương cho cán bộ, công
chức qua tài khoản trong năm 2007, thực hiện
từ năm 2007 đến năm 2010);
c) Chi trả
trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã
hội qua tài khoản (Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam thực hiện từ năm 2007
đến năm 2010).
3. Đề án thanh toán không dùng
tiền mặt trong khu vực doanh nghiệp (Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với
Bộ Thương mại thực hiện từ năm
2007 đến năm 2010);
4. Nhóm đề án thanh toán không
dùng tiền mặt trong khu vực dân cư, bao gồm các
Đề án thành phần (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên
quan xây dựng và thực hiện từ năm 2007
đến năm 2010):
a) Phát triển
các phương tiện, dịch vụ thanh toán không dùng
tiền mặt đáp ứng nhu cầu của dân cư và
phù hợp với tiến trình hội nhập;
b) Phát triển
mạng lưới chấp nhận các phương
tiện thanh toán không dùng tiền mặt.
5. Nhóm đề án phát triển
các hệ thống thanh toán, bao gồm các đề án thành
phần (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì,
phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và
thực hiện từ năm 2007 đến năm 2010):
a) Hoàn thiện và phát triển
hệ thống thanh toán liên ngân hàng;
b) Xây dựng trung tâm thanh toán bù
trừ tự động phục vụ cho các giao dịch
bán lẻ;
c) Xây dựng trung tâm chuyển
mạch thẻ thống nhất;
d) Kết nối hệ
thống thanh toán bù trừ và quyết toán chứng khoán
với hệ thống thanh toán liên ngân hàng quốc gia.
6. Đề án hỗ trợ
thanh toán không dùng tiền mặt, bao gồm các đề án
thành phần:
a) Thông tin, tuyên
truyền và phổ biến kiến thức về thanh toán
không dùng tiền mặt (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
chủ trì, phối hợp với các cơ quan thông tin
đại chúng xây dựng và thực hiện từ năm
2007 đến năm 2010);
b) Thúc đẩy
thanh toán không dùng tiền mặt bằng các chính sách
thuế, phí trong lĩnh vực thanh toán; giá thuê đất,
thuê mặt bằng cho các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán (Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam xây dựng và thực hiện từ
năm 2007 đến năm 2009);
c) Khuyến khích
thanh toán không dùng tiền mặt bằng chính sách thuế giá
trị gia tăng (Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp
với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xây dựng và
thực hiện từ năm 2007 đến năm 2009);
d) Xây dựng
cơ chế tính phí dịch vụ thanh toán hợp lý (Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì xây dựng và
thực hiện từ năm 2007 đến năm 2008).
Điều
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ
trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các
Bộ, ngành, địa phương liên quan và các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán triển khai
thực hiện các đề án thành phần để
thực hiện các mục tiêu, định hướng và
giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt
ở Việt Nam mà Đề án đã đề cập;
hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và tổng hợp
tình hình thực hiện và triển khai theo định
kỳ hàng năm, báo cáo Thủ tướng Chính phủ;
tổ chức sơ kết tình hình thực hiện vào
cuối năm 2008 và tổng kết vào cuối năm 2010.
Điều
4. Quyết định này có hiệu
lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Điều
5. Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng
cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết
định này./.
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng
ĐỀ ÁN
THANH TOÁN KHÔNG DÙNG
TIỀN MẶT
GIAI ĐOẠN
2006 - 2010 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020
(Ban hành kèm theo Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg
ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Thủ
tướng Chính phủ)
I. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG
HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Những thành tựu đổi
mới và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai
đoạn 2001 - 2005
Trong giai
đoạn 2001 - 2005 hoạt động thanh toán ngân hàng có
sự chuyển biến mạnh mẽ. Nhiều
phương tiện thanh toán và dịch vụ thanh toán
mới, hiện đại, tiện ích ra đời,
đáp ứng được nhiều loại nhu cầu
của người sử dụng dịch vụ thanh toán,
với phạm vi tiếp cận mở rộng tới các
đối tượng cá nhân và dân cư. Những
bước phát triển gần đây trong lĩnh vực
thanh toán ngân hàng thể hiện, như sau:
-
Tỷ trọng tiền mặt so với tổng
phương tiện thanh toán có xu hướng giảm
dần: Năm 1997 là 32,2%; năm 2001 là 23,7%; năm 2004 là
20,3%, năm 2005 là 19% và đến tháng 3 năm 2006 là 18,5%
;
- Từ nền
tảng thanh toán hoàn toàn thủ công (mọi giao dịch thanh
toán đều dựa trên cơ sở chứng từ
giấy) chuyển dần sang phương thức xử lý
bán tự động sử dụng chứng từ
điện tử, đến nay các giao dịch thanh toán
được xử lý điện tử chiếm tỷ
trọng khá lớn. Thời gian xử lý hoàn tất một
giao dịch được rút ngắn từ hàng tuần
trước đây, nay chỉ còn vài phút (đối với
các khoản thanh toán khác hệ thống, khác địa bàn),
chỉ trong vòng vài giây hoặc tức thời (đối
với các khoản thanh toán trong cùng hệ thống,
hoặc cùng địa bàn);
- Dịch vụ tài khoản cá nhân của
hệ thống ngân hàng thương mại phát triển khá
nhanh. Số lượng tài khoản cá nhân trong toàn hệ
thống ngân hàng cuối năm 2004 tăng gần 10 lần
so với năm 2000 (từ 135 nghìn tài khoản lên tới 1
triệu 297 nghìn tài khoản). Số lượng tài
khoản cá nhân đến cuối năm 2004 là 2 triệu;
năm 2005 đã tăng lên 5 triệu tài khoản với
số dư khoảng 20.000 tỷ đồng. Tốc
độ tăng trung bình mỗi năm khoảng 150%
về số tài khoản và 120% về số dư. Có
được kết quả như trên là do nhiều
yếu tố tác động như: môi trường pháp lý
trong lĩnh vực thanh toán ngân hàng có những thay
đổi theo hướng phù hợp hơn, mạng
lưới điểm giao dịch phục vụ khách hàng
của các ngân hàng được mở rộng, thanh toán
điện tử liên ngân hàng được triển khai
có hiệu quả,… Nhưng có một số lý do chính
trực tiếp thúc đẩy sự gia tăng tài
khoản cá nhân trong thời gian qua, đó là: các ngân hàng
thương mại đã có nhiều nỗ lực trong quá
trình phát triển cơ sở hạ tầng kỹ
thuật nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thanh toán của khách hàng; chú trọng phát
triển đa dạng và phong phú các sản phẩm dịch
vụ ngân hàng hiện đại, đặc biệt là các dịch vụ ngân hàng bán lẻ
với những ứng dụng công nghệ tin học tiên
tiến; bắt đầu quan tâm đến công tác
tiếp thị, tuyên truyền quảng cáo, khuyến mãi cho
các sản phẩm dịch vụ của mình khi đưa
ra thị trường. Một số ngân hàng còn chủ
động tiếp cận với các doanh nghiệp có
đông nhân viên với mức thu nhập ổn định
để thực hiện dịch vụ trả
lương qua tài khoản ngân hàng;
- Đối tượng tham gia cung ứng dịch
vụ thanh toán không còn giới hạn ở các ngân hàng, Kho
bạc Nhà nước mà còn có cả các tổ chức khác
không phải ngân hàng như Công ty dịch vụ tiết
kiệm bưu điện. Thị trường dịch vụ
thanh toán trở nên cạnh tranh hơn, không chỉ giữa
các ngân hàng mà còn giữa ngân hàng và các tổ chức không
phải ngân hàng làm dịch vụ thanh toán. Mỗi một mô
hình tổ chức có những đặc trưng riêng,
lợi thế riêng và chiến lược khách hàng riêng, theo
đó mà các nhu cầu khác nhau của từng loại
đối tượng khách hàng được đáp
ứng;
- Ứng dụng công nghệ và đầu
tư trang thiết bị hạ tầng cơ sở
phục vụ cho các dịch vụ thanh toán ngân hàng
đặc biệt phát triển mạnh kể từ 2002.
Số lượng máy giao dịch tự động ATM, các
thiết bị POS và mạng lưới đơn vị
chấp nhận thẻ ngân hàng phát triển nhanh.
Đến tháng 6 năm 2006, lượng ATM tại hệ
thống ngân hàng là 2.154 máy (so với 101 máy năm 2002),
số lượng đơn vị chấp nhận
thẻ khoảng 12.000 (so với 8.789 đơn vị
chấp nhận thẻ năm 2003);
- Xu hướng liên doanh liên kết giữa các ngân hàng
đã hình thành, giúp cho nhiều ngân hàng thương mại
nhỏ vượt qua những hạn chế về
vốn đầu tư vào công nghệ và trang thiết
bị phục vụ cho hệ thống thanh toán. Việc
liên doanh liên kết trong phát hành và thanh toán thẻ trở
thành một yếu tố không nhỏ góp phần vào sự
tăng trưởng lượng thẻ phát hành ra lưu
thông gần đây.
2. Những
hạn chế trong thanh toán không dùng tiền mặt tại
Việt Nam và các nguyên nhân
a) Các mặt hạn chế:
- Nhìn chung, thanh toán bằng tiền mặt còn rất
phổ biến trong nền kinh tế. Tiền mặt
vẫn là phương tiện thanh toán chiếm tỷ
trọng lớn trong khu vực doanh nghiệp và chiếm
đại đa số trong các giao dịch thanh toán của
khu vực dân cư. Đánh giá này thể hiện qua
khảo sát thực trạng thanh toán năm 2003, kết
quả cho thấy: tại 750 doanh nghiệp Việt Nam
ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam thì các doanh nghiệp
tư nhân có trên 500 công nhân có khoảng 63% số giao dịch
của họ được tiến hành qua hệ
thống ngân hàng; những doanh nghiệp có ít hơn 25 công
nhân thì tỷ lệ này là 47%; với doanh nghiệp nhà
nước mới chỉ hơn 80% giao dịch
được thực hiện qua ngân hàng; hầu hết
các doanh nghiệp cả nhà nước lẫn tư nhân
đều trả lương bằng tiền mặt.
Tại các hộ kinh doanh thì 86,2% số hộ kinh doanh
vẫn chi trả hàng hoá bằng tiền mặt; 75% số
hộ kinh doanh chi trả dịch vụ bằng tiền
mặt; 72% số hộ kinh doanh tư nhân nộp thuế
bằng tiền mặt;
- Số người sử dụng dịch vụ ngân
hàng chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, lao
động ở khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài, nhân viên công sở có thu nhập cao và
ổn định. Đại đa số dân cư, công
chức, viên chức thuộc khu vực chính phủ, lao
động thuộc các doanh nghiệp vừa và nhỏ
chưa tiếp cận với các phương tiện và
dịch vụ thanh toán;
- Hạ tầng cơ sở và trang
thiết bị kỹ thuật phục vụ cho hoạt
động thanh toán còn nghèo nàn và kém hiệu quả. Có 2.154
ATM số lượng phân bổ chủ yếu ở các
thành phố lớn, các khu công nghiệp. Với dân số
nước ta hơn 80 triệu dân thì bình quân 45.000 dân có 1
ATM. Lượng ATM như vậy quá thấp nếu so
với các quốc gia láng giềng (Trung Quốc: 19.000
dân/ATM, Singapore: 2.638 dân/ATM). Hơn nữa, các máy ATM lại
chỉ có khả năng phục vụ cho một nhóm
nhỏ ngân hàng, chứ không có khả năng sử dụng
chung cho nhiều ngân hàng như thực tế ở
nhiều nước hiện nay, làm cho mạng lưới
máy rút tiền tự động càng hạn chế phạm
vi phục vụ. Với các thiết bị tại
điểm bán (POS) cũng chung tình trạng như vậy.
Luôn có tình trạng một đơn vị chấp nhận
thẻ cùng tồn tại nhiều thiết bị POS
của các ngân hàng khác nhau để phục vụ cho các
giao dịch bằng thẻ. Điều này thu hẹp
đáng kể phạm vi sử dụng các phương
tiện thanh toán không dùng tiền mặt so với nhiều
quốc gia trong khu vực hiện nay, ngay cả khi mật
độ thiết bị tương đương
như ở các nước đó;
- Chất lượng, tiện ích và tính đa dạng
về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
chưa phong phú. Khả năng đáp ứng nhu cầu
của nhiều loại đối tượng sử
dụng còn hạn chế. Các phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt chưa đạt được
tính tiện ích và phạm vi thanh toán để có thể thay
thế cho tiền mặt. Phương thức giao dịch
chủ yếu tiếp xúc trực tiếp và mặt
đối mặt. Để được nhận
một sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, các
chủ thể tham gia thường phải đến các điểm
giao dịch của ngân hàng. Phương thức giao
dịch từ xa, dựa trên nền tảng công nghệ
thông tin hiện đại như giao dịch qua internet, qua
mobile, homebanking... chưa phát triển hoặc mới
chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ hẹp;
- Tính
cạnh tranh trên thị trường dịch vụ ở
mức thô sơ và phát triển dưới mức tiềm
năng. Cạnh tranh bằng thương hiệu, chất
lượng dịch vụ chưa phổ biến. Các
tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, thay vì sáng
tạo ra sản phẩm
mới hoặc tạo ra giá trị gia tăng trên sản
phẩm cùng loại trên thị trường, lại
chỉ tập trung vào yếu tố giá cả nhằm
đánh bại đối thủ cạnh tranh. Điều
này không chỉ làm tổn hại tới chính lợi
nhuận của các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán trong hoạt động dịch vụ thanh
toán, mà còn tổn hại tới sự gắn kết
giữa chính bản thân ngân hàng và khách hàng, khi mà khách hàng
không nhận thấy sự khác biệt giữa các sản
phẩm của những ngân hàng khác nhau, vì vậy mà họ
dễ dàng từ bỏ một sản phẩm dịch
vụ mang thương hiệu này để đến
với một sản phẩm có thương hiệu
khác;
- Các
dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt chỉ
tập trung phát triển tại các đô thị lớn, khu
công nghiệp và khu chế xuất. Thiếu các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoạt
động mang tính chuyên nghiệp, phục vụ cho
một số đối tượng, một số
lĩnh vực hoặc vùng sâu, vùng xa, nông thôn và các
địa phương có nền kinh tế kém phát
triển;
- Phí
dịch vụ thanh toán còn khá cao và khó chấp nhận
đối với những giao dịch thanh toán mức trung
bình, đặc biệt đối với các giao dịch
liên ngân hàng và liên tỉnh. Ngoài ra, một số
phương tiện thanh toán khi sử dụng khách hàng còn
phải trả thêm phụ phí so với việc sử
dụng tiền mặt;
- Hệ
thống thanh toán cốt lõi là hệ thống thanh toán liên
ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước, mặc dù
được cải thiện rất nhiều sau khi hoàn
tất giai đoạn I của Dự án hiện
đại hệ thống thanh toán, nhưng vẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu gia tăng về
hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng. Theo
thiết kế ban đầu, hệ thống thanh toán liên
ngân hàng có khả năng xử lý 4.500 giao dịch/ngày.
Nhưng từ khi đi vào hoạt động đến
này, hệ thống thường xuyên lâm vào tình trạng quá
tải với số lượng giao dịch bình quân lên
tới 10.000 giao dịch/ngày;
-
Đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn trong lĩnh
vực thanh toán chưa đáp ứng được yêu
cầu về trình độ chuyên môn, tác phong phục
vụ và đạo đức nghề nghiệp.
b)
Các nguyên nhân gây nên những hạn
chế:
- Thói quen và
nhận thức: Sau đổi mới ngành ngân hàng, toàn
bộ những yêu cầu quản lý tiền mặt áp
dụng trước đó được loại bỏ.
Tiền mặt trở thành một công cụ thanh toán không
hạn chế về đối tượng và phạm vi
sử dụng. Hầu hết chi phí liên quan đến
tiền mặt trong lưu thông như in ấn, phát hành, thu
huỷ, vận chuyển, bảo quản, an ninh là chi phí xã
hội và do Nhà nước phải chịu. Cá nhân
người thanh toán chỉ phải chịu phần chi phí
nhỏ trong đó (kiểm đếm, vận chuyển),
trong khi đó tiền mặt có điểm ưu việt
rất lớn là thanh toán tức thời và vô danh, thủ
tục đơn giản. Vì vậy, tiền mặt đã
trở thành một công cụ rất được ưa
chuộng trong thanh toán và từ lâu đã trở thành thói quen
khó thay đổi của người tiêu dùng và nhiều
doanh nghiệp. Thói quen sử dụng tiền mặt trong
thanh toán hiện nay là lực cản lớn trong việc
phát triển thanh toán không dùng tiền mặt;
- Thiếu động cơ kinh tế đủ
mạnh để khuyến khích thanh toán không dùng tiền
mặt: đối với nhiều đối tượng
giao dịch, các công cụ và dịch vụ thanh toán không dùng
tiền mặt không chứng tỏ có lợi ích hơn
hẳn về kinh tế so với
tiền mặt. Ngược lại, thanh toán không dùng
tiền mặt còn phải trả phí cho ngân hàng, thậm chí
còn bị tính giá cao hơn (đối với một số
đơn vị chấp nhận thẻ), không
được chào đón tại các quầy thanh toán...
- Kinh tế không chính thức phát triển: đây là
nền kinh tế xuất phát từ đặc điểm
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo quy mô
nhỏ, lẻ, với loại hình này thì khả năng
tiếp nhận phương tiện thanh toán không dùng
tiền mặt là rất khó khăn. Ngoài ra, một bộ
phận rất lớn của nền kinh tế không chính
thức là kinh tế ngầm liên quan tới hoạt
động buôn lậu, trốn thuế, gian lận
thương mại, tham nhũng..., luồng luân chuyển
tiền tệ phục vụ các hoạt động này có
thể rất lớn. Đối với những người
tham gia các giao dịch này, cho dù phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt có thuận tiện thì đó vẫn
không phải là phương tiện thanh toán được
lựa chọn, xuất phát từ nhu cầu che dấu
nguồn gốc giao dịch và danh tính của đối
tượng tham gia;
- Hành lang pháp lý trong lĩnh
vực thanh toán chưa hoàn thiện, mặc dù trong thời
gian vừa qua hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán
đã cải thiện nhiều, song vẫn được
đánh giá là chưa đầy đủ và đồng
bộ, đặc biệt là những vấn đề liên
quan đến thanh toán điện tử và thương
mại điện tử. Ví dụ như đối
với giao dịch điện tử, chưa đủ
cơ sở để các ngân hàng tổ chức triển
khai các kênh giao dịch điện tử vì chưa tạo
được một cơ chế tổng hợp
điều chỉnh hoạt động thương
mại điện tử trong ngành ngân hàng, chưa có sự
chấp nhận đồng bộ giao dịch điện
tử, chứng từ điện tử giữa các cơ
quan quản lý Nhà nước có liên quan (như Tổng cục
Thuế, Tổng cục Hải quan,…). Ngày 19 tháng 11 năm
2005 vừa qua Luật Giao dịch điện tử đã
được Quốc hội thông qua, đây là một
bước tiến mới mang tính đột phá của
Việt Nam trong ứng dụng công nghệ thông tin
để phát triển kinh tế xã hội. Nó tạo nên
một nền tảng hành lang pháp lý cho các nghiệp vụ,
dịch vụ ngân hàng hiện đại, tạo
điều kiện cho ngân hàng tham gia sâu rộng vào các
hoạt động thương mại điện tử,
cung cấp các dịch vụ thanh toán cho các chủ thể
tham gia kinh doanh trực tuyến trên mạng trong phạm vi
toàn xã hội. Tuy nhiên, để luật này đi vào
cuộc sống là cả một quá trình phấn đấu
không chỉ của riêng ngành ngân hàng mà của toàn xã hội.
Hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến
lĩnh vực thanh toán vẫn còn những điểm
cần phải tiếp tục được chỉnh
sửa, thay thế để có thể phù hợp với
thông lệ quốc tế và nhu cầu của người
sử dụng. Một số văn bản còn thể
hiện nhiều bất cập và chưa phù hợp với
sự phát triển của nền kinh tế thị
trường. Ngoài ra, với tốc độ phát triển
mạnh mẽ về công nghệ thông tin và sự ra
đời của hàng loạt các sản phẩm dịch
vụ ngân hàng, nền tảng pháp lý cần được
hoàn chỉnh gấp để bao hàm cả các loại hình
tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán không
phải là ngân hàng, các tổ chức công nghệ thông tin cung
ứng những sản phẩm, dịch vụ hỗ
trợ cho các ngân hàng, các tổ chức làm dịch vụ
thanh toán, chẳng hạn như những công ty cung cấp
giải pháp công nghệ qua mạng Internet, các công ty kinh doanh
dịch vụ thẻ, các tổ chức chuyên làm dịch
vụ thanh toán bù trừ...
- Vốn đầu tư
vừa thiếu, vừa được sử dụng kém
hiệu quả: từ giác độ các ngân hàng
thương mại, vấn đề lớn nhất trong
phát triển hoạt động thanh toán là những hạn
chế về vốn đầu tư. Vốn đầu
tư đòi hỏi phải rất lớn và thời gian
thu hồi vốn dài hạn. Vì vậy, chỉ có những
ngân hàng lớn, có tiềm lực mạnh về tài chính,
chủ yếu là các ngân hàng thương mại Nhà
nước hiện nay mới có khả năng tập trung
đầu tư lớn về trang thiết bị phục
vụ cho hoạt động thanh toán. Các ngân hàng nhỏ
chủ yếu chọn cách chia sẻ mạng lưới
với các ngân hàng lớn. Tuy nhiên, khả năng chia sẻ
mạng lưới và hạ tầng kỹ thuật khác
giữa các ngân hàng còn hạn chế, do các ngân hàng chưa
tìm được tiếng nói chung để đi
đến thoả thuận kết nối thống
nhất nhằm chia sẻ hạ tầng kỹ thuật;
- Cơ cấu tính phí dịch
vụ thanh toán còn bất hợp lý, thể hiện ngay
cả các giao dịch thanh toán qua ngân hàng nhà nước,
cũng như trong nội bộ tổ chức tín dụng;
- Trình độ cán bộ
phục vụ cho hoạt động thanh toán rất
bất cập, chủ yếu do công tác đào tạo cơ
bản cũng như chuyên sâu trong lĩnh vực thanh toán
chưa đáp ứng được yêu cầu. Thực
tế này không chỉ phổ biến ở các ngân hàng
thương mại, mà ngay cả ở Ngân hàng Nhà
nước là cơ quan chịu trách nhiệm về
quản lý Nhà nước trong thanh toán;
- Thông tin tuyên truyền chưa
được định hướng đúng đắn:
công tác thông tin tuyên truyền chưa được quan tâm,
chú trọng. Những mục tiêu chiến lược,
định hướng và các chính sách lớn để phát
triển hoạt động thanh toán chưa
được công bố đầy đủ cho công chúng.
Vì vậy, không chỉ người dân mà thậm chí
nhiều doanh nghiệp còn rất ít hiểu biết
hoặc hiểu biết mơ hồ về các dịch
vụ thanh toán và phương tiện thanh toán không dùng
tiền mặt. Ngoài ra, các
phương tiện thông tin đại chúng đôi khi còn
phản ánh thiên lệch, khai thác những yếu
điểm, lỗi kỹ thuật hoặc những
yếu tố tiêu cực mang tính cá biệt để
đưa lên công luận, khiến cho thông tin đến
với những người tiêu dùng thường một
chiều, thậm chí sai lạc, gây mất lòng tin vào một
công cụ thanh toán nào đó ngay từ khi mới bắt đầu
phát triển;
- Thiếu sự phối
hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành hữu
quan, chính quyền địa phương các cấp trong
việc tạo ra môi trường kinh tế, xã hội
thuận lợi cho việc phát triển thanh toán không dùng
tiền mặt.
II. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH
HƯỚNG PHÁT TRIỂN THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
TẠI VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
1.
Mục tiêu tổng thể
Đề án được đặt trong mối quan
hệ với kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội theo kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 của Chính
phủ và phù hợp với Đề án phát triển ngành
ngân hàng đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020, nhằm tạo sự chuyển
biến mạnh về chất và lượng trong thanh toán
không dùng tiền mặt với các mục tiêu: đáp
ứng nhu cầu thanh toán của nền kinh tế với
các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt an
toàn, hiệu quả, sử dụng thuận tiện, có
khả năng từng bước thay thế tiền
mặt trong lưu thông; tăng cường năng lực
cạnh tranh của các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán trên thị trường; góp phần thực
thi có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia; nâng
cao hiệu quả giám sát của các cơ quan quản lý nhà
nước, minh bạch hóa nền kinh tế, góp phần
tích cực vào công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; thúc
đẩy đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam; đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế. Phấn đấu đạt
được môi trường thanh toán hiện
đại, an toàn, hiệu quả và vững chắc về
cơ sở pháp lý ở Việt Nam vào năm 2020.
2.
Một số chỉ tiêu về hoạt động thanh
toán đến năm 2020
- Đến cuối năm 2010 đạt mức phát
hành 15 triệu thẻ, 70% các trung tâm thương mại,
siêu thị, nhà hàng, khách sạn, cửa hàng tự chọn
v.v… lắp đặt các thiết bị chấp nhận
thanh toán thẻ. Phấn đấu đến năm 2020
con số này đạt lần lượt là 30 triệu
thẻ và 95%.
- Đến năm 2010 tỷ lệ tiền
mặt/tổng phương tiện thanh toán không quá 18%.
Đến năm 2020 tỷ lệ này phấn đấu
khoảng 15%.
- Đạt mức 20 triệu tài khoản
cá nhân vào cuối năm 2010; 70% cán bộ hưởng lương ngân sách và
50% công nhân lao động trong khu vực doanh nghiệp,
tư nhân thực hiện trả lương qua tài
khoản. Đến năm 2020 đưa những con
số này lên lần lượt là 45 triệu tài khoản cá
nhân (bình quân mỗi người có 0.5 tài khoản - ở
một số nước phát triển mỗi người
hiện có hơn 1 tài khoản); 95% cán bộ hưởng
lương ngân sách và 80% lao động được
trả lương qua tài khoản.
- Đạt mức 80% các
khoản thanh toán giữa các doanh nghiệp với nhau
thực hiện qua tài khoản tại Ngân hàng đến
cuối năm 2010 và đạt 95% đến năm 2020.
3. Định hướng phát triển
thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam đến
năm 2020
a) Phát triển thanh toán không dùng tiền
mặt phải phù hợp với trình độ phát
triển của nền kinh tế, hạ tầng kỹ
thuật công nghệ và hệ thống thanh toán. Các giải
pháp xây dựng trong Đề án không mang tính hành chính, áp
đặt, gây tác động tiêu cực kìm hãm sự phát
triển các hoạt động kinh tế - xã hội;
b) Phát triển thanh toán không dùng tiền
mặt đặt trong mối quan hệ cân bằng
giữa lợi ích chung của cộng đồng và
lợi ích của người sử dụng dịch
vụ thanh toán, của các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán; những biện pháp hỗ trợ của
Nhà nước chỉ mang tính chất ngắn hạn,
nhằm tạo ra bước đột phá ban đầu
cho sự phát triển thanh toán không dùng tiền mặt;
c) Các giải pháp phát triển thanh toán không
dùng tiền mặt hướng tới việc sử
dụng các biện pháp kinh tế là chủ yếu nhằm
huy động các nguồn lực của khu vực tư
nhân để đầu tư phát triển thanh toán không
dùng tiền mặt. Nguồn lực của Nhà nước
chỉ được sử dụng trong trường
hợp nguồn lực của tư nhân không đủ
lớn hoặc cho những dự án mang tính chiến lược
lâu dài, hình thành cơ sở nền tảng để thúc
đẩy sự phát triển chung của toàn bộ các
hoạt động thanh toán của nền kinh tế.
III. CÁC GIẢI PHÁP CỤ
THỂ ĐỂ PHÁT TRIỂN THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN
MẶT GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt
động thanh toán của nền kinh tế (Ngân
hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các Bộ,
ngành liên quan thực hiện từ năm 2006 đến
năm 2010):
- Hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý, bao gồm các luật, quy định liên
quan đến các chủ thể tham gia thanh toán nói chung trong
nền kinh tế cũng như hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng. Định
hướng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý bao gồm: phân
định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các bên
tham gia hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt,
trên cơ sở đó kiểm soát rủi ro pháp lý thích
hợp; bảo đảm phù hợp với các chuẩn
mực thông lệ quốc tế được các
định chế tài chính, tiền tệ quốc tế khuyến
nghị hoặc được áp dụng chung ở
nhiều quốc gia khác; tạo lập một môi
trường cạnh tranh công bằng, bảo đảm
khả năng tiếp cận thị trường và
tiếp cận dịch vụ đối với các chủ
thể có chức năng tương tự như nhau; hình
thành cơ chế bảo vệ khách hàng hữu hiệu và
bảo đảm quy trình giải quyết tranh chấp
hiệu quả và khách quan; hạn chế thanh toán bằng
tiền mặt đối với những đối
tượng có sử dụng quỹ ngân sách nhà nước
nhằm tăng khả năng kiểm soát việc sử
dụng nguồn ngân sách.
- Rà soát, bổ sung, chỉnh sửa cơ chế chính
sách, các văn bản liên quan đến hoạt
động thanh toán của các tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán phù hợp với lộ trình
thực hiện những cam kết quốc tế về
lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng như Hiệp
định thương mại Việt Mỹ (BTA),
Hiệp định AFTA, Hiệp định khung về
thương mại, dịch vụ ASEAN (AFAS) và những cam
kết với Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO).
- Xây dựng, sửa đổi, bổ sung các luật,
văn bản dưới luật của Chính phủ, Ngân
hàng Nhà nước một cách đồng bộ, nhất
quán và hoàn chỉnh về lĩnh vực thanh toán để
tạo điều kiện phát triển các dịch vụ,
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt,
đặc biệt là các dịch vụ, phương
tiện thanh toán hiện đại dựa trên việc
ứng dụng công nghệ thông tin, đồng thời
từng bước hạn chế thanh toán bằng tiền
mặt, cụ thể:
+ Sửa đổi một số quy
định trong Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật
các Tổ chức tín dụng,
bao gồm vấn đề thanh toán tiền mặt,
mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước, tổ
chức và tham gia hệ thống thanh toán của các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán và những quy
định khác liên quan đến các hệ thống thanh
toán, trên có sở đó tạo khuôn khổ pháp lý chung
để phát triển thanh toán không dùng tiền mặt;
+ Đối với các giao dịch thanh toán
từ xa qua các thiết bị điện tử như
thanh toán qua điện thoại di động, Internet .v.v…,
hoàn thiện cơ sở pháp lý hiện hành nhằm tạo
điều kiện về mặt cơ chế, chính sách cho
loại hình thanh toán này phát triển;
+ Ban hành Nghị định của Chính
phủ về thanh toán bằng tiền mặt (2006);
+ Ban hành Chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ về trả lương qua tài
khoản (2007);
+ Ban hành văn bản hướng dẫn
Luật Giao dịch điện tử về giao dịch
điện tử trong hoạt động ngân hàng (2007);
+ Ban hành Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ về việc miễn,
giảm thuế cho việc nhập khẩu máy móc, thiết
bị phục vụ cho hoạt động của các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán (2007);
+ Ban hành Thông tư liên tịch giữa Ngân
hàng Nhà nước và Bộ Tài chính về việc hỗ
trợ phí cho các tổ chức, cá nhân trong việc sử
dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt (2007);
+ Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ về việc ưu đãi giá thuê
đất, thuê mặt bằng cho các tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán (2007).
- Củng cố và phát huy vai trò của bộ máy quản
lý nhà nước bằng cách tăng cường chức
năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức
của bộ phận chuyên trách lập cơ chế chính
sách chung để phát triển hoạt động thanh toán
tại Ngân hàng Nhà nước, phát triển Ban Thanh toán thành
Vụ Thanh toán để có
thể thực hiện đầy đủ những yêu
cầu này, bao gồm:
+ Sửa đổi, bổ sung Nghị
định 52/2003/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2003 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong đó bổ
sung thêm Vụ Thanh toán thuộc Ngân hàng Nhà nước (2007)
là đơn vị chịu trách nhiệm quản lý nhà
nước trong lĩnh vực thanh toán;
+ Kiện toàn bộ máy tổ chức, nhân sự, quy
định rõ chức năng, nhiệm vụ của
Vụ Thanh toán. Tăng cường cán bộ có trình
độ, kinh nghiệm trong lĩnh vực thanh toán, đào
tạo các cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực thanh toán;
+ Phát huy vai trò của Hội đồng thanh toán
để các thành viên Hội đồng có cơ hội
tham gia ý kiến với Ngân hàng Nhà nước khi xây
dựng chiến lược, định hướng, chính
sách phát triển thanh toán cũng như trong quá trình xây
dựng các văn bản quy phạm pháp luật của Ngân
hàng Nhà nước.
2. Phát
triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực công
a) Quản
lý chi tiêu trong khu vực Chính phủ bằng phương tiện
thanh toán không dùng tiền mặt (Bộ Tài chính chủ trì, phối
hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư xây dựng và thực
hiện từ năm 2007 đến năm 2010)
- Triển khai thí điểm (2007 -
2008): chọn một cơ
quan trung ương để thực hiện thí
điểm, phối hợp với một tổ chức
thẻ quốc tế có uy tín và kinh nghiệm phát triển
thẻ thương mại trong khu vực chính phủ, trên
cơ sở phân tích lợi ích/chi phí của việc quản
lý chi tiêu tài chính bằng giải pháp thẻ thương
mại và các kết quả phân tích có tính định
lượng, thực hiện lập dự án quản lý chi
tiêu của Ngân hàng Nhà nước thông qua việc sử
dụng thẻ thương mại. Đề xuất
phương án thực hiện trên cơ sở thoả
thuận với ngân hàng đối tác về cơ sở
hạ tầng kỹ thuật, mạng lưới
đơn vị chấp nhận thẻ phục vụ cho
giải pháp (dự kiến trình Thống đốc
phương án triển khai trong năm 2007).
- Tổng kết,
đánh giá tình hình triển khai thí điểm để rút
kinh nghiệm, trên cơ sở đó trình Chính phủ ra
Chỉ thị chính thức triển khai đến các bộ
ngành khác.
- Triển
khai chính thức (từ sau 2008).
- Mở rộng đối
tượng thực hiện, bao gồm các Bộ, cơ
quan ngang Bộ và các Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố,
Sở, Ban ngành địa phương lớn... với
sự tham gia của các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán.
- Phấn
đấu đến cuối năm 2010, tất cả các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cấp chính quyền
tỉnh, thành phố đều thực hiện chi tiêu công
bằng phương tiện thanh toán không dùng tiền
mặt. Từ 2011 - 2020 sẽ triển khai mở rộng
đến các đối tượng là Sở, Ban, ngành, các
cấp chính quyền huyện, xã trên phạm vi toàn quốc.
b) Trả
lương qua tài khoản (Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ,
Bộ Tài chính xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ
ban hành Chỉ thị trả lương cho cán bộ, công
chức qua tài khoản trong năm 2007, thực hiện từ
năm 2007 đến năm 2010):
- Yêu cầu trả lương vào tài khoản
đối với các cán bộ, công chức, viên chức làm
việc trong bộ máy nhà nước; khuyến khích
người lao động trong các doanh nghiệp nhận
lương và chi tiêu qua tài khoản.
Giai đoạn 1 (từ năm 2007 - 2008):
- Đối tượng triển khai,
giới hạn ở một số cơ quan Trung
ương như Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính,
Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Tư pháp,
Bộ Thương mại, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội; doanh nghiệp nhà nước
và một số doanh nghiệp lớn khác, các khu chế
xuất, khu công nghiệp sử dụng nhiều lao
động; một số chính quyền địa
phương như Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, một số Sở, Ban,
ngành có điều kiện như
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng,
Đà Nẵng....
- Ngân hàng Nhà nước sẽ phối
hợp với các Bộ, ngành và Ủy ban Nhân dân tỉnh,
thành phố lên kế hoạch triển khai thực
hiện, đồng thời phối hợp với các ngân
hàng thương mại nghiên cứu và xác định
khả năng đáp ứng nhu cầu của các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán và lựa
chọn được một số tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán chính có khả năng
để triển khai giai đoạn 1.
Giai đoạn 2. Triển khai mở
rộng (từ năm 2008 - 2010)
- Mở rộng tới các đối
tượng chưa triển khai giai đoạn 1 trên
phạm vi 64 tỉnh, thành phố trên toàn quốc (giới
hạn ở mức thị xã trở lên) với sự tham
gia của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán.
- Phấn đấu đến cuối
năm 2010 tất cả các cơ quan, đơn vị
hưởng lương từ ngân sách nhà nước và 70%
các loại hình doanh nghiệp tại các thành phố,
tỉnh (từ cấp thị xã trở lên) đều
sử dụng dịch vụ ngân hàng để trả
lương cho cán bộ, nhân viên.
c) Chi trả
trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã
hội qua tài khoản (Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì,
phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
thực hiện từ năm 2007 đến năm 2010).
-
Đưa dịch vụ ngân hàng và dịch vụ thanh toán
đến các đối tượng có trình độ
thấp, vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thông qua việc chi
trả trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ
cấp xã hội qua tài khoản, cụ thể:
+ Tạo thuận lợi nhất cho đối
tượng khi rút tiền, chuyển tiền, thanh toán các
dịch vụ (điện thoại, điện
nước, …) và mua sắm hàng hoá. Trong trường
hợp đối tượng già yếu, đi lại khó
khăn thì đơn vị thực hiện dịch vụ
này có trách nhiệm chi trả bằng tiền mặt
tại nhà cho đối tượng;
+ Không thu
bất kỳ khoản tiền nào của đối
tượng khi thực hiện phương thức chi
trả này;
+
Đảm bảo các thủ tục quyết toán chi trả
theo quy định;
- Lộ
trình thực hiện:
Năm 2007:
+ Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội phối hợp
với Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và các cơ quan
Lao động - Thương binh và Xã hội một số
tỉnh, thành phố nghiên cứu, xây dựng ban hành thí
điểm cơ chế chi trả trợ cấp ưu
đãi xã hội và trợ cấp xã hội qua tài khoản;
+ Lựa
chọn tổ chức thực hiện dịch vụ thanh
toán đáp ứng đầy đủ, tốt nhất các
mục tiêu, yêu cầu của việc chi trả trợ
cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã hội qua
tài khoản;
+ Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội phối hợp
với thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,
thành phố Đà Nẵng để triển khai thực
hiện thí điểm;
+ Tổ
chức tập huấn cơ chế thí điểm cho cán
bộ chuyên môn của các cơ quan có liên quan và đối
tượng của các phường thực hiện thí
điểm.
Năm 2008:
+ Thực hiện thí điểm công tác chi trả qua tài
khoản 06 tháng (từ ngày 01 tháng 01 năm 2008
đến ngày 30 tháng 6 năm 2008);
+ Tổng
kết rút kinh nghiệm việc tổ chức thực
hiện thí điểm vào quý IV năm 2008.
Từ 2009:
Triển
khai tất cả các quận (thuộc thành phố), các
thị xã, thành phố thuộc tỉnh có đủ
điều kiện thực hiện.
3. Phát triển thanh toán không dùng tiền
mặt trong khu vực doanh nghiệp (Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Thương mại
thực hiện từ năm 2007 đến năm 2010)
-
Trang bị kiến thức, thông tin cho doanh nghiệp về
những đặc điểm, tiện ích, rủi ro
của từng loại phương tiện thanh toán và
dịch vụ thanh toán, trên cơ sở đó các doanh
nghiệp lựa chọn các đối tượng,
phạm vi và chủng loại của sản phẩn
dịch vụ thanh toán phù hợp với nhu cầu của
mình; Ngân hàng và các tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán tạo thuân lợi trong việc mở tài khoản,
tạo ra sự gắn kết giữa các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán với các chủ thể
kinh doanh trong việc cung cấp dịch vụ trọn gói,
phát triển các loại hình thanh toán điện tử
như B2B, B2C v.v…;
- Yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước thực
hiện thanh toán không dùng tiền mặt trong phạm vi,
đối tượng nhất định; có chính sách
cụ thể đối với chủ thể kinh doanh
để khuyến khích thanh toán qua ngân hàng;
- Tập trung phát triển các dịch vụ thanh toán
điện tử, tạo điều kiện để
các doanh nghiệp phát triển thương mại
điện tử.
Lộ trình thực hiện cụ thể như sau:
- Nghiên cứu xác định nhu cầu và khả năng
thanh toán không dùng tiền mặt của các doanh nghiệp,
trước mắt tập trung vào các tập đoàn và các
Tổng công ty lớn và tiến hành trên 3 thành phố
lớn là Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí
Minh, từ đó đề ra biện pháp thích hợp
(2007);
-
Nghiên cứu để ban hành quy định về việc
các giao dịch thanh toán giữa doanh nghiệp với doanh
nghiệp phải thực hiện qua ngân hàng trên phạm vi
toàn quốc; hầu hết các trung tâm thương mại,
các cửa hàng lớn ở
thành thị đều phải có thiết bị chấp
nhận thẻ; phát triển thanh toán điện tử phù
hợp với kế hoạch tổng thể phát triển
thương mại điện tử giai đoạn 2006 -
2010 của Thủ tướng Chính phủ (2008 - 2010).
4. Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu
vực dân cư (Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với
các đơn vị liên quan xây dựng và thực hiện
từ năm 2007 đến năm 2010).
- Phát triển các
phương tiện, dịch vụ thanh toán không dùng
tiền mặt hiện đại theo hướng tăng
số lượng, chất lượng và chủng
loại của các sản phẩm dịch vụ thanh toán
với độ tin cậy cao và với giá cả phù
hợp; nghiên cứu và tập trung phát triển các sản
phẩm dịch vụ có hàm lượng trí tuệ và công
nghệ cao, phù hợp với sự phát triển công
nghệ thông tin; xây dựng quy trình nghiệp vụ,
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong
thanh toán; ứng dụng các phần mềm chuẩn mua
của nước ngoài, xúc tiến xây dựng các phần
mềm trong nước có tính mở và dễ sử
dụng; tạo lập và
phát triển các chuẩn mực chung phù hợp với thông
lệ quốc tế;
- Cải thiện các
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt
truyền thống như séc, lệnh chi, nhờ thu theo
hướng thúc đẩy nhanh tốc độ thanh toán, đơn
giản hóa thủ tục sử dụng, bảo
đảm tính an toàn và bảo mật trên cơ sở
ứng dụng kỹ thuật công nghệ hiện
đại trong khâu xử lý giao dịch;
- Thực hiện các
biện pháp để tăng tính an toàn và bảo mật
trong việc sử dụng các phương tiện thanh
toán, đặc biệt là các phương tiện thanh toán
điện tử hiện đại như thẻ thanh
toán, như yêu cầu áp dụng các chuẩn mực kỹ
thuật có độ an toàn cao đối với các nhà cung
ứng dịch vụ thanh toán, hoàn thiện khuôn khổ pháp
lý liên quan theo hướng rõ ràng, minh bạch về
quyền và trách nhiệm của các bên, đề xuất
xây dựng các tổ chức chuyên trách tập hợp và cung
cấp thông tin liên quan đến các phương tiện
thanh toán bị mất cắp, bị gian lận…; tăng
cường vai trò giám sát của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đối với các phương tiện thanh
toán và hệ thống thanh toán;
- Tạo lập
được sự hiểu biết và cung cấp thông tin
cơ bản và đầy đủ về những
lợi ích, chi phí cũng như rủi ro gắn với
mỗi loại phương tiện hoặc dịch vụ
thanh toán nào đó, theo đó khách hàng tự do tiếp
cận và lựa chọn sản phẩm dịch vụ và
phương tiện thanh toán phù hợp với nhu cầu
của mình;
-
Khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán tập trung
đầu tư cơ sở hạ tầng máy móc thiết
bị phục vụ cho các giao dịch thanh toán hiện
đại, tập trung chủ yếu cho dịch vụ
thẻ và tạo điều kiện phát triển thanh toán
qua internet, mobile. Tiếp cận nhanh chóng với công
nghệ hiện đại trên thế giới theo cách
thức "đi tắt, đón đầu". Trong quá trình
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện
đại cần gắn với công nghệ, chuẩn
mực và các quy định có tính nguyên tắc phù hợp
với chuẩn mực và thông lệ quốc tế;
- Gia
tăng các tiện ích đi kèm dịch vụ, phương
tiện thanh toán hiện đại, dần thay thế
dịch vụ đơn mục đích bằng những
dịch vụ đa mục đích (như sử dụng
thẻ cho nhiều mục đích như thanh toán, chi
trả hóa đơn định kỳ, vấn tin, rút
tiền mặt…thay cho việc sử dụng thẻ
chỉ để rút tiền mặt).
b) Phát triển mạng lưới
chấp nhận các phương tiện thanh toán không dùng
tiền mặt:
-
Tăng cường việc chấp nhận các
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt trong
thanh toán của các tổ chức, cá nhân bằng việc
tăng cường mạng lưới chấp nhận
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt theo
tiến trình phát triển của hệ thống thương
mại dịch vụ để hỗ trợ các giao
dịch thanh toán mặt đối mặt, cũng như
giao dịch thanh toán từ xa trong thương mại điện
tử phục vụ cho các giao dịch thanh toán mua hàng hóa,
dịch vụ không mang tính định kỳ tại khách
sạn, nhà hàng, siêu thị... Phát triển mạng
lưới chấp nhận phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt tại điểm bán: Tập trung
phát triển mạng lưới đơn vị chấp
nhận thẻ (ĐVCN) ở hệ thống phân phối
hàng hoá bán lẻ hiện đại (bao gồm các siêu
thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tự chọn v.v...), ngành dịch vụ
khách sạn, nhà hàng, hàng không. Đến năm 2010, 70% trung
tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tự
chọn và 60% nhà hàng, khách sạn lớn tại các tỉnh,
thành phố trọng điểm sẽ trở thành ĐVCN
thẻ và các phương tiện thanh toán hiện
đại. Từ năm 2011 đến năm 2020 triển
khai mở rộng trên phạm vi toàn quốc;
-
Phát triển các thỏa thuận thanh toán cho các giao dịch
thanh toán định kỳ qua tài khoản như thanh toán
tiền điện, nước, phí dịch vụ công
cộng, bảo hiểm... Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam phối hợp với các tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán tiếp cận trực tiếp
tới các cơ quan chủ quản các ngành nêu trên
để phát triển thanh toán bằng ủy nhiệm thu.
5. Phát triển các hệ thống thanh toán (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và thực
hiện từ năm 2007
đến năm 2010):
a) Hoàn thiện và phát
triển hệ thống thanh toán liên ngân hàng (Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam thực hiện:
- Thiết kế mở rộng
phạm vi triển khai giai đoạn 2 Dự án hiện
đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán do WB tài
trợ và phát triển các hệ thống thanh toán quan
trọng có tính hệ thống theo các chuẩn mực
quốc tế được Ngân hàng Thanh toán quốc
tế (BIS) khuyến nghị nhằm giảm thiểu
rủi ro hệ thống, tăng cường hiệu
quả trong điều hành chính sách tiền tệ quốc
gia. Các hệ thống thanh toán liên ngân hàng và hệ thống
thanh toán quan trọng khác phải được đầu
tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
hoặc nguồn vay ODA, do Ngân hàng Nhà nước vận
hành, quản lý và giám sát. Các hệ thống thanh toán nội
bộ của từng tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán cần được đầu tư và
hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu phát
triển của thị trường dịch vụ thanh toán;
- Tập trung phát triển hệ
thống thanh toán liên ngân hàng (TTLNH) vì đây là hệ
thống thanh toán xương sống của nền kinh
tế. Việc thiết kế mở rộng hệ
thống đáp ứng nhu cầu cho các thành viên phải phù
hợp với các chuẩn quốc tế áp dụng chung cho
các hệ thống thanh toán và quyết toán. Các giải pháp
phần mềm hệ thống cần đảm bảo
độc lập giữa xử lý số liệu và
truyền dữ liệu, đảm bảo tính bảo
mật hệ thống, tích hợp dữ liệu và
tính liên tục trong hoạt động v.v…;
- Phát triển hệ thống ngân
hàng cốt lõi (core banking) của Ngân hàng Nhà nước bao
gồm các module ứng dụng nhiều tiện ích,
trước mắt tập trung vào module kế toán tập
trung để nâng cao tính hiệu quả của hệ
thống TTLNH;
- Hệ thống TTLNH có giao
diện với các hệ thống thanh toán bán lẻ, hệ
thống quyết toán chứng khoán và ngoại hối khi
những hệ thống này sẵn sàng, thực hiện
quyết toán tổng tức thời (RTGS) và quyết toán
ròng trong ngày cũng như quyết toán DVP (chuyển giao kèm
theo thanh toán);
- Hệ thống thanh toán
điện tử Kho bạc Nhà nước cần
được kết nối với hệ thống TTLNH
để tăng tính hiệu quả và thuận tiện cho
quan hệ thanh toán giữa hệ thống kho bạc và ngân
hàng;
- Hệ thống thanh toán của
các tổ chức tín dụng cần được kết
nối với hệ thống TTLNH qua cổng giao diện;
- Nâng cấp liên tục hệ
thống TTLNH (cả phần cứng và phần mềm
ứng dụng) để đáp ứng nhu cầu phát
triển của nền kinh tế từ nay đến
năm 2020, thực hiện đánh giá hệ thống TTLNH
theo định kỳ để có giải pháp nâng cấp
và mở rộng hệ thống. Có thể được
thực hiện dưới hình thức huy động
vốn ODA và đề nghị Chính phủ đưa vào
danh mục các dự án huy động vốn ODA;
- Phấn đấu đến
năm 2010, tất cả các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước
tỉnh, thành phố sẽ kết nối với hệ
thống TTLNH để cung cấp các dịch vụ thanh
toán trên địa bàn (quyết toán ròng, quyết toán
tổng tức thời và quyết toán DVP);
- Đến năm 2009, phấn
đấu để các hệ thống thanh toán bù trừ
bán lẻ và hệ thống thanh toán điện tử Kho
bạc Nhà nước có thể kết nối với
hệ thống TTLNH để thực hiện quyết toán
vốn trong ngày của các hệ thống đó tại
Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
- Năm 2008, thực hiện
kết nối giữa hệ thống TTLNH với hệ
thống thanh toán bù trừ và quyết toán chứng khoán.
b) Xây dựng trung tâm
thanh toán bù trừ tự động phục vụ cho các
giao dịch bán lẻ (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
thực hiện):
- Phát triển hệ thống thanh
toán bán lẻ, trung tâm thanh toán bù trừ bán lẻ trên cơ
sở khuyến khích sự tham gia góp vốn và vận hành
của khu vực tư nhân trên cơ sở đáp ứng
các quy định của Ngân hàng Nhà nước nhằm
giảm thiểu rủi ro hệ thống và đảm
bảo sự hoạt động ổn định, an toàn
của hệ thống tài chính. Ngân hàng Nhà nước
sẽ thực hiện việc quản lý và giám sát các
hệ thống này;
- Thiết lập Trung tâm Thanh toán
bù trừ tự động Quốc gia (TTBTQG) tại Hà
Nội thực hiện xử lý bù trừ hối
phiếu/séc, vận hành hệ thống Bank Giro và giao
diện với trung tâm chuyển mạch thẻ thống
nhất. Trung tâm TTBTQG sẽ kết nối trực tiếp
và có giao diện với hệ thống thanh toán điện
tử liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
vận hành. Trung tâm TTBTQG đóng vai trò là trung tâm xử lý
thông tin thanh toán bù trừ và gửi lệnh TTBT về Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam để Ngân hàng Nhà
nước thực hiện quyết toán giao dịch cho các
ngân hàng thông qua tài khoản của các ngân hàng mở tại
Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qua
hệ thống TTLNH.
Đối với các hoạt
động cụ thể của Trung tâm TTBTQG, định
hướng chung là phát triển và ứng dụng công
nghệ hiện đại (điện tử) trong xử
lý thanh toán bù trừ các công cụ thanh toán. Các hoạt
động của Trung tâm TTBTQG bao gồm: (1) vận hành
hệ thống bù trừ séc/hối phiếu; (2) vận hành
hệ thống Giro (ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu
cho việc thanh toán định kỳ các khoản tiền
như điện, nước, điện thoại, phí bảo
hiểm, thanh toán thẻ tín dụng v.v...), (3) có thể
vận hành hệ thống chuyển mạch thẻ ngân
hàng, (4) vận hành hệ thống thanh toán thương
mại điện tử (B2C, B2B...) và (5) vận hành các
hệ thống thanh toán bù trừ khác. Lộ trình triển
khai cụ thể như sau:
+ Thuê chuyên gia tư vấn hoặc
đề nghị hỗ trợ kỹ thuật để
lập dự án thành lập trung tâm thanh toán bù trừ
tự động ACH;
+ Thành lập Ban trù bị xây
dựng Dự án thành lập Trung tâm TTBTQG và xúc tiến các
thủ tục cần thiết để thành lập Trung
tâm, đồng thời xây dựng các quy định về
hoạt động của các tổ chức thanh toán bù
trừ ở Việt Nam;
+ Tổ chức triển khai thành
lập Trung tâm TTBTQG (xây dựng cơ sở hạ
tầng, mua sắm trang thiết bị, giải pháp
phần mềm, nguồn nhân lực, v.v...);
+ Dự kiến Trung tâm TTBT QG chính
thức hoạt động đầy đủ vào năm 2010.
c) Xây dựng trung tâm chuyển mạch
thẻ thống nhất (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
thực hiện):
Xây dựng trung tâm chuyển
mạch thẻ thống nhất, với một
thương hiệu thống nhất, kết nối các
hệ thống máy ATM của các liên minh thẻ hiện hành
thành một hệ thống thống nhất nhằm
tăng tính thuận tiện cho người sử dụng
dịch vụ thẻ ngân hàng, đảm bảo thẻ do
một ngân hàng phát hành có thể sử dụng ở
nhiều máy ATM và POS của các ngân hàng khác, tạo
điều kiện cho các ngân hàng nhỏ với tiềm
lực tài chính hạn chế có thể tham gia vào thị
trường thẻ, đồng thời giảm nhẹ
gánh nặng đầu tư hạ tầng kỹ thuật
cho các ngân hàng lớn cụ thể như sau:
- Năm 2006 - 2007, phát triển và
củng cố các liên minh thẻ hiện có trên cơ sở
bảo đảm tính tích hợp, tính mở của hệ
thống về mặt kỹ thuật để bảo
đảm những điều kiện cần thiết cho
việc kết nối thống nhất;
- Khảo sát, đánh giá hiện trạng
của tất cả các trung tâm chuyển mạch thẻ
đã có và đang có kế hoạch đi vào hoạt
động về các khía cạnh: mức độ
hiệu quả, rủi ro, tính tích hợp, tính mở
của hệ thống về khía cạnh kỹ thuật...
để đề xuất giải pháp lựa chọn;
tập trung đầu tư, phát triển trung tâm chuyển
mạch thẻ thống nhất nhằm giải quyết
tình trạng phân tán trong các hệ thống thanh toán thẻ
hiện nay (2007);
- Củng
cố về tổ chức và hệ thống mạng
lưới cơ sở hạ tầng kỹ thuật
của các liên minh thẻ hiện hành để đáp
ứng tốt hơn nhu cầu của người sử
dụng thẻ, cũng như các yêu cầu về chuẩn
mực kỹ thuật và khả năng tích hợp với
hệ thống của Trung tâm TTBT QG khi Trung tâm này đi vào
hoạt động;
- Kết
nối trung tâm chuyển mạch thẻ quốc gia với
Trung tâm TTBT QG (2008 - 2009).
d) Kết
nối hệ thống thanh toán bù trừ và quyết toán chứng
khoán với hệ thống thanh toán liên ngân hàng quốc gia
(Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp
với Bộ Tài chính thực hiện):
- Hoàn
thiện cơ chế thanh toán bù trừ và quyết toán
chứng khoán theo hướng kết nối giữa hệ
thống quyết toán chứng khoán với hệ thống
thanh toán liên ngân hàng quốc gia, nhằm bảo đảm
cơ chế chuyển giao gắn với thanh toán (DVP),
giảm rủi ro trong quyết toán các giao dịch trên
thị trường chứng khoán khi mà các giao dịch này
phát triển với quy mô lớn trong tương lai,
đồng thời bảo đảm hiệu quả cho
hoạt động thị trường mở, cũng
như các giao dịch tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước;
- Thực
hiện kết nối giữa hệ thống thanh toán liên
ngân hàng quốc gia với hệ thống thanh toán bù trừ
và quyết toán chứng khoán, tạo mối liên kết
trực tiếp giữa Sở Giao dịch với Trung tâm
Lưu ký Chứng khoán nhằm bảo đảm sự linh
hoạt, chủ động và hiệu quả trong hoạt
động cho vay tái cấp vốn (bao gồm nghiệp
vụ thị trường mở, chiết khấu và
lưu ký giấy tờ có giá) của Ngân hàng Nhà nước,
góp phần tăng hiệu quả trong điều hành chính
sách tiền tệ quốc gia trên cơ sở thúc
đẩy tính khả dụng và tốc độ luân
chuyển của các giấy tờ có giá được
cầm cố cho hoạt động tái cấp vốn;
- Hoàn
thiện hệ thống thanh toán bù trừ và quyết toán
chứng khoán (bao tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính
phủ, cổ phiếu được niêm yết...) theo
những khuyến nghị của Ủy ban các Hệ
thống Thanh toán và Quyết toán (CPSS) thuộc Ngân hàng Thanh
toán Quốc tế (BIS), xét về dài hạn, khi thị
trường chứng khoán Việt Nam ngày càng phát triển
thì việc chỉ định một ngân hàng thanh toán
(hiện nay là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam) sẽ có những rủi ro nhất định
về khả năng thanh toán do khối lượng giao
dịch tăng cao vượt quá khả năng xử lý
của ngân hàng, gây rủi ro hệ thống, đồng
thời cũng tạo ra sự bất bình đẳng cho
các thành viên tham gia thị trường chứng khoán, cụ
thể là các NHTM khác. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam cần phối hợp với Bộ Tài chính
(Ủy ban Chứng khoán Nhà nước) thực hiện
kết nối hệ thống thanh toán liên ngân hàng với
hệ thống của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán cho
việc bù trừ và quyết toán chứng khoán theo
phương thức chuyển giao chứng khoán kèm thanh toán.
Việc chuyển giao chứng khoán để lưu ký
được thực hiện thông qua tài khoản lưu
ký chứng khoán của các công ty chứng khoán tại Trung
tâm Lưu ký Chứng khoán việc thanh toán tiền
được thực hiện qua tài khoản tại
Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước Việt Nam của
các ngân hàng thương mại nơi công ty chứng khoán
mở tài khoản;
6. Giải pháp hỗ trợ để phát triển thanh
toán không dùng tiền mặt
a) Thông tin, tuyên
truyền và phổ biến kiến thức về thanh toán
không dùng tiền mặt (Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp
với các cơ quan thông tin đại chúng xây dựng và
thực hiện từ năm 2007 đến năm 2010);
Tuyên truyền, quảng bá, phổ biến kiến
thức, cung cấp thông tin để các tổ chức, cá
nhân nắm bắt được các tiện ích và hiểu
rõ về các rủi ro, biện pháp bảo đảm an toàn
trong việc sử dụng các phương tiện,
dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, trên cơ sở đó
lựa chọn phương tiện, dịch vụ thanh
toán phù hợp. Các hình thức tuyên truyền cụ thể
như sau:
- Tuyên truyền trên báo chí: thông qua những tờ báo mà
số lượng độc giả đông đảo
để đăng tải các nội dung cần tuyên
truyền;
- Tuyên truyền qua đài phát thanh và truyền hình:
lựa chọn chương trình và thời gian thích hợp
để thông tin tuyền truyền tới nhiều
người nhất;
- Tuyên truyền trên mạng internet: ở Việt Nam
tốc độ người sử dụng internet gia
tăng nhanh ở các thành phố và thị xã, vì vậy
đây cũng là một kênh tuyên truyền rất hiệu
quả, nội dung tuyên truyền cần đăng tải
trên những website có số lượng người truy
cập nhiều nhất và thường xuyên nhất;
- Các hình thức tuyên truyền khác.
b) Thúc đẩy sự phát triển thanh toán
không dùng tiền mặt bằng các chính sách ưu đãi về
thuế, phí trong lĩnh vực thanh toán; giá thuê đất,
thuê mặt bằng cho các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán (Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xây dựng và thực hiện
từ năm 2007 đến năm 2009):
- Giảm nhẹ gánh nặng đầu tư cho các
tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thông qua
chính sách thuế nhập khẩu đối với các máy
móc thiết bị trực tiếp hình thành nên cơ sở
hạ tầng kỹ thuật để thực hiện
các dịch vụ thanh toán, cung ứng phương tiện
thanh toán, cụ thể: Xây dựng phương án miễn
hoặc giảm thuế nhập khẩu để giảm
nhẹ gánh nặng đầu tư cho các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán khi đầu tư vào
các trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho
hoạt động thanh toán. Phương án miễn
giảm thuế xuất nhập khẩu chỉ có tính
chất ngắn hạn, thực hiện tối đa không
quá 3 năm và sẽ ngừng lại khi giao dịch thanh toán
không dùng tiền mặt đã trở nên tương
đối phổ biến.
c) Khuyến khích thanh
toán không dùng tiền mặt bằng chính sách thuế giá
trị gia tăng (Bộ Tài
chính chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam xây dựng và thực hiện từ
năm 2007 đến năm 2009);
- Tạo dựng thói quen giao
dịch qua ngân hàng của các khách hàng tiềm năng,
với sự khuyến khích ban đầu bằng lợi
ích kinh tế từ việc giảm thuế giá trị gia
tăng đối với các giao dịch thanh toán không dùng
tiền mặt. Xây dựng phương án miễn hoặc
giảm thuế giá trị gia tăng để khuyến
khích các tổ chức, cá nhân thực hiện thanh toán không
dùng tiền mặt, trên cơ sở đó tạo dựng
thói quen giao dịch qua ngân hàng;
- Phương án miễn giảm
thuế giá trị gia tăng chỉ có tính chất ngắn
hạn, thực hiện tối đa không quá 3 năm và
sẽ ngừng lại khi giao dịch thanh toán không dùng
tiền mặt đã trở nên tương đối
phổ biến.
d) Xây dựng cơ chế tính phí dịch
vụ thanh toán hợp lý (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
chủ trì xây dựng và thực hiện từ năm 2007
đến năm 2008)
Xây dựng cơ chế tính phí
dịch vụ thanh toán hợp lý, xác định mức phí
áp dụng cho các giao dịch thanh toán liên ngân hàng, trên cơ
sở đó tác động tới toàn bộ cơ cấu
tính phí của các ngân hàng, tổ chức tín dụng,
nhằm tạo lập ra một mức phí hợp lý
đối với người sử dụng dịch
vụ cuối cùng, từng bước tạo lập thói
quen giao dịch qua ngân hàng thông qua chính sách về phí dịch
vụ thanh toán hợp lý, bao gồm:
- Nghiên cứu xây dựng
chương trình tính phí của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam để bảo đảm mức thu phí
dịch vụ thanh toán liên ngân hàng hợp lý, khoa học
để làm cơ sở cho các tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán xây dựng mức phí cho mình (năm
2007);
- Nghiên cứu xem xét xây dựng
mức thu phí đối với hình thức thanh toán
bằng tiền mặt với mục đích khuyến
khích phát triển thanh toán không dùng tiền mặt;
đề xuất một phương thức tính phí
hợp lý có tính chiến lược và theo thông lệ
quốc tế, tương xứng với chất
lượng dịch vụ cung ứng cho khách hàng (năm
2008);
- Nâng cao vai trò của Hiệp
hội Ngân hàng để tổ chức này thể hiện
được vai trò của mình trong việc xây dựng các
quy định chung về việc chia sẻ phí dịch
vụ thanh toán giữa các tổ chức cung ứng cho
việc quy định đối tượng thu và trả
phí cũng như việc chia sẻ phí giữa các ngân hàng,
đảm bảo công bằng cho các ngân hàng và bảo
vệ quyền lợi cho khách hàng;
- Xây dựng quy định cho phép
các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
được trích lại một phần khoản thu
từ phí dịch vụ thanh toán để đầu
tư nâng cấp hệ thống thanh toán nội bộ
của mình;
- Đề nghị Bộ Tài chính xem xét giảm mức
thuế VAT đối với các khoản thu từ phí
dịch vụ thanh toán, tạo điều kiện cho các
tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán tăng
nguồn đầu tư phát triển các sản phẩm
dịch vụ thanh toán;
- Chỉnh
sửa giảm mức thu phí dịch vụ thanh toán liên ngân
hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Quyết
định số 449/2000/QĐ-NHNN2 ngày 20 tháng 10 năm 2000
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam ban hành mức thu phí dịch vụ thanh toán qua ngân hàng)
theo mức phù hợp dung lượng của hệ
thống thanh toán điện tử liên Ngân hàng, hệ thống
chuyển tiền điện tử của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam; Xây
dựng phí thường niên và phí gia nhập đối
với các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
tham gia hệ thống TTĐTLNH do Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam tổ chức, trong đó quy định rõ
mục đích sử dụng, nội dung sử dụng
của các khoản phí này trong quá trình phát triển hệ
thống thanh toán (2006 - 2007);
- Nghiên
cứu chỉnh sửa Quyết định
448/2000/QĐ-NHNN2 ngày 20 tháng 10 năm 2000 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành quy
định về việc thu phí dịch vụ thanh toán qua
ngân hàng cho phù hợp tình hình
thực tế; nghiên cứu xây dựng mức thu phí
đối với thanh toán bằng tiền mặt (2007 - 2008);
-
Điều chỉnh lại mức thu phí dịch vụ
thanh toán liên Ngân hàng phù hợp với tình hình thực tế
dựa trên nguyên tắc đủ bù đắp chi phí (2007 -
2008);
- Xây
dựng chương trình tính phí dịch vụ thanh toán
để có thể xác định mức thu phí dịch
vụ thanh toán theo từng năm (2008).
đ) Tăng cường nguồn nhân lực
để phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện từ năm
2006 đến năm 2010):
- Tăng cường cán bộ có trình độ,
kiến thức, năng lực vào các bộ phận
chịu trách nhiệm lập chính sách và đề xuất
chiến lược, định hướng phát triển
hoạt động thanh toán của nền kinh tế,
về số lượng và chất lượng;
- Có chương trình đào tạo cơ bản và
đào tạo chuyên sâu, nhằm tạo ra các chuyên gia trên
lĩnh vực thanh toán. Đối với các chương
trình đào tạo cơ bản có thể tiến hành ngay
trong nước; tuy nhiên với những kiến thức
chuyên sâu cần tổ chức đào tạo ở
nước ngoài để học tập kinh nghiệm;
- Đào tạo kiến thức về
công nghệ thông tin nói chung và công nghệ ứng dụng
trong thanh toán nói riêng cho các cán bộ làm việc trong lĩnh
vực thanh toán;
- Phối hợp với với các tổ chức
quốc tế, mời chuyên gia giảng dạy và đào
tạo kiến thưc về từng lĩnh vực
của hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt;
- Phối hợp với các ngân hàng thương mại,
lập chương trình khảo sát và thực tập
tại các ngân hàng thương mại nhằm nâng cao
kiến thức thực tiễn cho các cán bộ lập
chính sách của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam;
- Trang bị thiết bị tin học
cho phép truy cập internet cho các đội ngũ cán bộ
chuyên trách trong bộ máy quản lý nhà nước nhằm
tạo điều kiện tiếp cận thông tin, trên
cơ sở đó nắm bắt được xu thế
phát triển của hoạt động thanh toán trên thế
giới phục vụ cho việc lập chiến
lược, chính sách phát triển thanh toán;
- Trong giai đoạn 2006 - 2008, tập trung đào
tạo cơ bản về thanh toán và công nghệ thông tin
cho các cán bộ làm việc trong lĩnh vực quản lý nhà
nước về hoạt động thanh toán; đồng
thời, tập trung đào tạo chuyên gia về lĩnh
vực thanh toán theo các chương trình đào tạo chuyên
sâu ở nước ngoài trước mắt để
nghiên cứu xây dựng chương trình, kế hoạch
thực hiện Đề án;
- Giai đoạn 2008 - 2010, tiếp tục
các chương trình đào tạo mở rộng
đến khu vực doanh nghiệp với mục tiêu
triển khai thực hiện Đề án đến các
chủ thể trong nền kinh tế.
e) Giải
pháp về tài chính phục vụ phát triển thanh toán không
dùng tiền mặt (Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam phối hợp với Bộ Tài
chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư thực hiện):
- Huy động
nguồn vốn trong nước, kết hợp với
nguồn vốn ODA và vay thương mại trên thị
trường vốn quốc tế để đầu
tư, nâng cấp, phát triển các hệ thống thanh toán
cũng như phát triển hoạt động thanh toán không
dùng tiền mặt trong nền kinh tế;
- Nguồn vay ưu đãi tín dụng đầu tư
phát triển nhà nước để đầu tư máy
móc kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ
hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt của các
tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
IV. MỘT SỐ ĐỀ
ÁN, DỰ ÁN CHỦ YẾU ĐỂ THỰC HIỆN
MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THANH TOÁN
KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
Đề án hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt
động thanh toán của nền kinh tế (Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với
các Bộ, ngành liên quan thực hiện từ năm 2006
đến năm 2010).
1. Nhóm đề án phát triển thanh toán không dùng tiền
mặt trong khu vực công, bao gồm các Đề án thành
phần:
a) Quản lý chi tiêu trong khu vực Chính phủ bằng
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt
(Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư xây dựng và thực hiện từ năm 2007
đến năm 2010);
b) Trả lương qua tài khoản (Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với
Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính xây dựng và trình
Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị
trả lương cho cán bộ công chức qua tài khoản
trong năm 2007, thực hiện từ năm 2007
đến năm 2010);
c) Chi trả trợ cấp ưu đãi xã hội và
trợ cấp xã hội qua tài khoản (Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội chủ trì,
phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
thực hiện từ năm 2007 đến năm 2010).
2. Đề án phát triển thanh toán không
dùng tiền mặt trong khu vực doanh nghiệp (Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với
Bộ Thương mại thực hiện từ năm
2007 đến năm 2010);
3. Nhóm đề án phát triển thanh toán
không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư, bao gồm
các Đề án thành phần (Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam chủ trì, phối hợp với các đơn vị
liên quan xây dựng và thực hiện từ năm 2007 đến năm 2010):
a) Phát triển các phương tiện,
dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đáp
ứng nhu cầu của dân cư và phù hợp với
tiến trình hội nhập;
b) Phát triển mạng lưới chấp
nhận các phương tiện thanh toán không dùng tiền
mặt;
4. Nhóm đề án phát triển các hệ
thống thanh toán, bao gồm các Đề án thành phần
(Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và thực
hiện từ năm 2007 đến năm 2010):
a) Hoàn thiện và phát triển hệ
thống thanh toán liên ngân hàng;
b) Xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ
tự động phục vụ cho các giao dịch bán
lẻ;
c) Xây dựng trung tâm chuyển mạch
thẻ thống nhất;
d) Kết nối hệ thống thanh toán bù
trừ và quyết toán chứng khoán với hệ thống
thanh toán liên ngân hàng quốc gia.
5. Đề án hỗ trợ phát triển
thanh toán không dùng tiền mặt, bao gồm các Đề án
thành phần (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài
chính thực hiện):
a) Thông tin, tuyên truyền và phổ biến
kiến thức về thanh toán không dùng tiền mặt (Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp
với các cơ quan thông tin đại chúng xây dựng và
thực hiện từ năm 2007 đến năm 2010);
b) Thúc đẩy sự phát triển thanh
toán không dùng tiền mặt bằng các chính sách ưu đãi
về thuế, phí trong lĩnh vực thanh toán; giá thuê
đất, thuê mặt bằng cho các tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán (Bộ Tài chính chủ trì,
phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xây
dựng và thực hiện từ năm 2007 đến
năm 2009);
c) Khuyến khích thanh toán không dùng tiền
mặt bằng chính sách thuế giá trị gia tăng
(Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam xây dựng và thực hiện từ
năm 2007 đến năm 2009);
Xây dựng cơ chế tính phí dịch
vụ thanh toán hợp lý (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
chủ trì xây dựng và thực hiện từ năm 2007
đến năm 2008).
V. KINH PHÍ NGHIÊN CỨU
ĐỀ ÁN
Kinh phí dành cho việc nghiên cứu, xây dựng Đề
án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006 - 2010
và định hướng đến năm 2020 và các
đề án thành phần (không bao gồm chi phí đầu
tư vào trang thiết bị, cơ sở hạ tầng
để triển khai thực hiện Đề án),
được huy động từ hai nguồn:
- Nguồn ngân sách nhà nước 3.700 triệu
đồng (Ba tỷ, bảy trăm triệu đồng)
được hạch toán vào chi phí nghiệp vụ
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong quá trình xây
dựng, triển khai các đề án thành phần, nếu
có phát sinh thêm những chi phí cần thiết và hợp lý,
giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tài chính
xem xét và quyết định mức chi cụ thể;
- Nguồn hỗ trợ kỹ thuật, trên cơ
sở liên hệ với một số tổ chức tài
chính, tiền tệ quốc tế hoặc các dự án do
chính phủ nước ngoài tài trợ để tìm
kiếm nguồn hỗ trợ kỹ thuật bổ sung
cho việc xây dựng và triển khai Đề án./.
THỦ TƯỚNG
Nguyễn
Tấn Dũng