Nghị quyết 06/2006/NQ-CP của Chính phủ về phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 4 năm 2006
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết 06/2006/NQ-CP
Cơ quan ban hành: | Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 06/2006/NQ-CP | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 04/05/2006 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Lĩnh vực khác |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Nghị quyết 06/2006/NQ-CP
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
NGHỊ QUYẾT
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ
06/2006/NQ-CP NGÀY 4 THÁNG 5 NĂM 2006
PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ
THƯỜNG KỲ THÁNG 4 NĂM 2006
Trong
các ngày 26, 27 và 28 tháng 4 năm 2006, Chính phủ họp phiên
thường kỳ tháng 4, bàn và quyết nghị các vấn
đề sau đây:
1.
Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch
và Đầu tư trình Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010.
Mục
tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2006 - 2010
được xác định là: đẩy nhanh tốc
độ tăng trưởng kinh tế, đạt
được chuyển biến quan trọng về nâng cao
chất lượng, hiệu quả và tính bền vững
của sự phát triển; tăng tích luỹ, tạo
nền tảng đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; cải
thiện rõ rệt đời sống vật chất,
văn hoá và tinh thần của nhân dân; sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020; giữ vững
ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia; nâng cao vị thế
nước ta trong khu vực và trên trường quốc tế.
Kế
hoạch 5 năm 2006 - 2010 được xây dựng trên
cơ sở tiếp tục phát huy những thuận
lợi rất cơ bản và những bài học rút ra
từ những thành tựu của 20 năm đổi
mới đất nước, nhất là những bài
học về giải phóng và phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất, huy động mọi
tiềm năng, nguồn lực của đất
nước, kết hợp với đẩy mạnh thu
hút đầu tư nước ngoài, hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường, giữ vững ổn
định về chính trị và tận dụng thời
cơ, xu thế hoà bình, hợp tác phát triển của
thế giới và khu vực; quan tâm giải quyết
tốt hơn các vấn đề xã hội, đẩy
mạnh giáo dục đào tạo, khoa học và công
nghệ, trong đó đặc biệt quan tâm đào tạo
nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng suất, chất
lượng lao động, duy trì tốc độ tăng
trưởng cao và bền vững.
Giao
Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp thu các ý
kiến tại phiên họp, hoàn chỉnh dự thảo
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2006 - 2010; Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và
Đầu tư thừa uỷ quyền Thủ
tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình
Quốc hội Kế hoạch trên.
Bộ
Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối
hợp với các Bộ, cơ quan liên quan dự thảo Nghị
quyết của Chính phủ ban hành Chương trình hành
động của Chính phủ về thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X và Kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, trình
Chính phủ tại phiên họp tháng 6 năm 2006, sau khi Kế
hoạch này được Quốc hội thông qua.
Căn
cứ vào Kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 được
Quốc hội thông qua, các Bộ, ngành và địa
phương cụ thể hoá thành kế hoạch 5 năm
của ngành và địa phương phù hợp với
mục tiêu và định hướng của Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của
cả nước.
2.
Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường trình Kế hoạch sử dụng đất
5 năm 2006 - 2010.
Trong
giai đoạn 5 năm 2001 - 2005, nước ta đã cơ
bản hoàn thành các chỉ tiêu về kế hoạch sử
dụng đất đã được Quốc hội
thông qua. Chuyển sang giai đoạn 2006 - 2010, trước
yêu cầu về công cuộc đẩy mạnh công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất
nước, việc khai thác, sử dụng có hiệu
quả tài nguyên đất đai ngày càng có vai trò quan
trọng. Trong khi đó, hệ thống quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất của nước ta
vẫn chưa hoàn chỉnh, chất lượng quy
hoạch thấp; phương án quy hoạch chưa bám sát tính
hiệu quả về kinh tế, xã hội và tác
động môi trường; công tác quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất ở một số
địa phương còn tuỳ tiện.
Để
thực hiện có hiệu quả việc huy động nguồn
lực đất đai cho yêu cầu phát triển bền
vững của đất nước, công tác quy hoạch
và kế hoạch sử dụng đất giai đoạn
5 năm 2006 - 2010 phải được tăng
cường chỉ đạo chặt chẽ trên phạm
vi cả nước và từng cấp địa
phương. Kế hoạch sử dụng đất 5
năm 2006 - 2010 phải quán triệt quan điểm
tiết kiệm và hiệu quả; có chính sách hạn
chế việc sử dụng diện tích đất
trồng lúa nước đã hoàn chỉnh hệ thống
thuỷ lợi ở vùng đồng bằng cho việc xây
dựng khu công nghiệp, khu đô thị; dành quỹ
đất phù hợp cho nhu cầu xây dựng cơ sở hạ
tầng xã hội như trường học, bệnh
viện, công trình văn hoá, thể thao; khuyến khích và
hỗ trợ việc đưa diện tích đất trống,
đồi núi trọc, đất ngập nước, đất
hoang hoá vào sử dụng cho các mục đích phát triển
kinh tế - xã hội của từng cấp địa phương
và của cả nước; tăng cường công tác
tuyên truyền, phổ biến quy hoạch sử dụng
đất, gắn với công tác giáo dục pháp luật
về đất đai; tiếp tục đổi mới
chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định
cư để bảo đảm tiến độ thu hồi
đất phục vụ quốc phòng, an ninh và phát triển
kinh tế; có chính sách bảo vệ lợi ích chính đáng,
ổn định đời sống, việc làm của người
bị thu hồi đất.
Giao
Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp thu các ý kiến
tại phiên họp, hoàn chỉnh dự thảo Kế
hoạch sử dụng đất 5 năm 2006 - 2010; Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường thừa
ủy quyền Thủ tướng Chính phủ trình
Quốc hội Kế hoạch này.
3.
Chính phủ nghe Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam trình Đề án chính sách tín dụng đối với khu
vực 2, khu vực 3 miền núi, hải đảo, vùng đồng
bào Khơ me sinh sống tập trung, thương nhân miền
núi và các xã thuộc Chương trình 135 (gọi chung là vùng
khó khăn).
Chủ
trương hỗ trợ đối với vùng khó khăn
là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước
ta. Giai đoạn 2006 - 2010, chính sách hỗ trợ cần
phải tiếp tục cả về các lĩnh vực xã
hội, phát triển sản xuất và xây dựng cơ
sở hạ tầng nhằm thúc đẩy các vùng này phát
triển.
Để
tiếp tục tách tín dụng chính sách ra khỏi tín
dụng thương mại, tạo điều kiện cho
các ngân hàng thương mại nhà nước chuyển sang
kinh doanh theo cơ chế thị trường, Chính phủ nhất
trí chuyển nhiệm vụ cho vay ưu đãi đối
với các tổ chức kinh tế và hộ sản
xuất, kinh doanh thuộc vùng khó khăn từ các ngân hàng
thương mại nhà nước sang để Quỹ
Hỗ trợ phát triển và Ngân hàng Chính sách xã hội
thực hiện (không bàn giao dư nợ cũ).
Giao
Bộ Tài chính chủ trì xem xét, bổ sung các chương
trình, dự án, ngành nghề của các tổ chức kinh
tế cần ưu đãi tại vùng khó khăn vào danh
mục các dự án quy định trong Nghị định
của Chính phủ về tín dụng đầu tư phát
triển; đồng thời, trình Thủ tướng Chính
phủ cơ chế cho vay đối với các hộ
sản xuất, kinh doanh (không thuộc hộ nghèo) tại các
vùng khó khăn để Ngân hàng Chính sách xã hội có cơ
sở thực hiện.
Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính bố trí
nguồn vốn để Quỹ Hỗ trợ phát
triển và Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện chính
sách tín dụng ưu đãi đối với các vùng khó
khăn.
4. Chính
phủ nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính trình Đề
án tín dụng đầu tư phát triển, tín dụng
xuất khẩu và việc thành lập Ngân hàng Phát triển
Việt Nam.
Giao
Bộ Tài chính tiếp thu các ý kiến tại phiên họp; tham
khảo ý kiến của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Bộ Thương mại, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam và Đoàn đàm phán của Chính
phủ về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) và các cơ quan liên
quan khác về Danh mục các dự án, mặt hàng vay vốn
tín dụng đầu tư phát triển, tín dụng
xuất khẩu của nhà nước; bảo đảm
cụ thể, công khai minh bạch, dễ thực hiện,
phù hợp với các quy định của WTO và cam kết
của Việt Nam trong các điều ước quốc
tế; dự thảo Nghị định về tín dụng
đầu tư phát triển và tín dụng xuất
khẩu, trình Thủ tướng Chính phủ.
Đồng
ý thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam trên cơ
sở sắp xếp lại Quỹ Hỗ trợ phát
triển để thực hiện cả hai nhiệm
vụ tín dụng đầu tư phát triển và tín
dụng xuất khẩu. Các nhiệm vụ của Ngân hàng
Phát triển Việt Nam về huy động vốn, thanh
toán, quản lý và xử lý nợ xấu, rủi ro tín
dụng,... cũng như tổ chức, bộ máy cần
được quy định phù hợp với yêu cầu
và phạm vi hoạt động của ngân hàng.
5. Chính phủ nghe Bộ
trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình
Báo cáo về công tác quản lý và sử dụng vốn
đầu tư thuộc ngân sách nhà nước.
Giai đoạn 2001 - 2005,
nhờ đổi mới cơ chế chính sách và hoàn
thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nền
kinh tế nước ta đã huy động
được nhiều nguồn vốn trong và ngoài
nước cho đầu tư phát triển, góp phần
quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi các
mục tiêu kinh tế, xã hội đã đề ra. Trong
đó, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà
nước có vai trò quan trọng trong việc phát triển
hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo môi
trường để thu hút nguồn vốn của các
thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển, từng
bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp
phần thực hiện các mục tiêu xã hội hoá, xoá
đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, công tác quản
lý và sử dụng vốn đầu tư thuộc ngân
sách nhà nước đang tồn tại nhiều yếu
kém. Công tác lập quy hoạch, phê duyệt kế hoạch,
thẩm định đầu tư, kiểm tra, quản
lý vốn ngân sách, vốn hỗ trợ phát triển (ODA),
cơ chế đấu thầu... thiếu đồng
bộ, không rõ trách nhiệm và thiếu sự phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức
năng, thậm chí còn bị buông lỏng dẫn
đến tình trạng đầu tư kém hiệu quả,
lãng phí và thất thoát.
Nhằm sớm
khắc phục những tồn tại về quản lý và
sử dụng vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà
nước, cần tăng cường công tác xây dựng quy
hoạch và quản lý quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, quy hoạch phát triển ngành; ban hành các chế
tài đủ mạnh để nâng cao trách nhiệm của
các chủ thể tham gia hoạt động đầu
tư và xây dựng; tiếp tục cải cách hành chính trong
đầu tư xây dựng và đấu thầu, chống
hiện tượng "khép kín" trong đầu tư
xây dựng; đồng thời, tăng cường tổ
chức kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các vi phạm
về quản lý và sử dụng vốn.
Giao Bộ Kế
hoạch và Đầu tư tiếp thu các ý kiến tại
phiên họp, hoàn chỉnh Báo cáo về công tác quản lý và
sử dụng vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà
nước; chủ trì, phối hợp với các Bộ,
ngành, địa phương, trình Chính phủ ban hành
Nghị định về công tác quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội; hướng dẫn các Bộ, ngành,
địa phương theo chức năng, nhiệm vụ
của mình thực hiện các biện pháp cần thiết
để chấn chỉnh tồn tại, quản lý hiệu
quả việc sử dụng nguồn vốn đầu
tư thuộc ngân sách nhà nước gắn với
Chương trình hành động thực hành tiết
kiệm, phòng chống tham nhũng.
6. Chính phủ nghe Bộ
trưởng Bộ Công nghiệp trình Báo cáo về di dân, tái
định cư thuỷ điện Tuyên Quang.
Công
trình thuỷ điện Tuyên Quang hoàn thành sẽ mang lại
lợi ích quan trọng, cùng với các nhà máy thuỷ
điện Hoà Bình, Sơn La, Thác Bà điều hoà nguồn
nước khu vực Tuyên Quang, đồng bằng Sông
Hồng vào mùa lũ cũng như mùa kiệt và bổ sung
nguồn điện lớn cho nền kinh tế. Thuỷ
điện Tuyên Quang thuộc công trình trọng điểm
quốc gia, có số dân di chuyển tái định cư
lớn, cần phải báo cáo Ủy ban Thường vụ
Quốc hội thông qua về chủ trương
trước khi Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng
thể về di dân tái định cư.
Giao
Bộ Công nghiệp chủ trì, phối hợp với các
cơ quan liên quan tiếp thu các ý kiến tại phiên
họp, hoàn chỉnh Báo cáo về di dân, tái định
cư thuỷ điện Tuyên Quang, trình Thủ
tướng Chính phủ xem xét, quyết định
việc trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
7. Chính phủ nghe Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình
Đề án về tổ chức, nhiệm vụ,
quyền hạn và quy chế hoạt động của Ban
Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham
nhũng.
Giao Văn phòng Chính
phủ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên
quan tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, tiếp
tục hoàn chỉnh Đề án này; gửi phiếu
lấy ý kiến Thành viên Chính phủ, trình Thủ
tướng Chính phủ xem xét, quyết định
việc trình Bộ Chính trị cho ý kiến và trình Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị
quyết về vấn đề này.
8. Chính
phủ nghe Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trình
dự thảo Pháp lệnh Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Pháp lệnh về lực
lượng dự bị động viên.
Cùng với Luật
Nghĩa vụ quân sự, Pháp lệnh về lực
lượng dự bị động viên và các văn
bản hướng dẫn thi hành đã tạo ra hành lang
pháp lý để tổ chức thực hiện nhiệm
vụ động viên. Qua mười năm triển khai
thực hiện, công tác xây dựng và huy động lực
lượng dự bị động viên góp phần
tăng cường lực lượng quốc phòng
vững mạnh. Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
của đất nước, Pháp lệnh về lực
lượng dự bị động viên đã bộc
lộ những hạn chế cần phải sửa
đổi cho phù hợp.
Việc bổ sung,
sửa đổi Pháp lệnh phải quán triệt Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X về xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân để thực hiện chiến lược
bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự
thống nhất với Luật Nghĩa vụ quân sự
và các luật, pháp lệnh hiện hành có liên quan; tạo
cơ sở pháp lý cho việc khắc phục những khó
khăn vướng mắc, nâng cao chất lượng xây
dựng lực lượng dự bị động viên,
cùng với quân đội chính quy đáp ứng yêu cầu
củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc
công cuộc xây dựng đất nước trong giai
đoạn mới.
Giao Bộ Quốc phòng
chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn
phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu các ý
kiến tại phiên hợp, hoàn chỉnh Pháp lệnh
Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Pháp lệnh về lực lượng dự bị
động viên, trình Thủ tướng Chính phủ
quyết định việc trình Ủy ban Thường
vụ Quốc hội.
9. Chính phủ xem xét đề nghị
của Bộ Quốc phòng và nhất trí cho phép Binh đoàn
16 (Bộ Quốc phòng) được vay đủ 100%
vốn tín dụng ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ
phát triển để thực hiện Dự án Khu kinh
tế quốc phòng EaSúp (Đắk Lắk). Giao
Quỹ Hỗ trợ phát triển thực hiện, giúp Binh
đoàn sớm khắc phục khó khăn; Bộ Quốc
phòng kiểm tra, hướng dẫn Binh đoàn 16 thực
hiện việc sử dụng và quản lý vốn vay theo
đúng quy định của pháp luật.
10. Chính
phủ đã xem xét vấn đề xử lý vướng
mắc trong việc cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng
đất ở khi bán nhà thuộc sở hữu nhà
nước theo Nghị định số 61/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 05 tháng 7 năm 1994, do Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình.
Thực hiện Nghị
định số 61/NĐ-CP ngày 05 tháng 7 năm 1994 của
Chính phủ, đến nay nhiều địa phương
đã cơ bản hoàn thành việc bán nhà ở thuộc
sở hữu nhà nước cho người đang thuê. Việc
cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở
và quyền sử dụng đất ở cho người mua
được đại đa số nhân dân đồng tình.
Tuy nhiên, tại một số địa phương có quỹ
nhà ở thuộc sở hữu nhà nước lớn, tình hình
quản lý phức tạp, việc triển khai bán nhà ở
còn chậm, thủ tục cấp giấy chứng nhận
còn vướng mắc...Chính phủ nhất trí chỉ
đạo các địa phương đẩy nhanh tiến
độ và tiến tới dứt điểm công tác bán nhà
ở thuộc sở hữu nhà nước cho người
đang thuê trong năm 2006.
Việc cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền
sử dụng đất ở cho người mua nhà thuộc
sở hữu nhà nước tiếp tục
được áp dụng theo mẫu Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất
ở theo Nghị định số 60/CP ngày 05 tháng 7 năm
1994 đến khi có quy định mới của Chính phủ.
11. Về dự
thảo Nghị định chính sách khuyến khích phát
triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công
lập: Chính phủ nhất trí chưa quy định
việc phân biệt các cơ sở cung ứng dịch
vụ vì mục đích lợi nhuận với không vì
mục đích lợi nhuận trong Nghị định này.
Giao Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính tiếp tục
nghiên cứu các tiêu chí phân loại, nội dung ưu đãi
cụ thể đối với các cơ sở hoạt
động cung ứng dịch vụ không vì mục đích
lợi nhuận.
Giao Văn phòng Chính
phủ tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, hoàn
chỉnh dự thảo Nghị định về chính sách
khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng
dịch vụ ngoài công lập, trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành.
12. Về
việc thực hiện chính sách đối với lao
động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp
nhà nước năm 2006: Hiện nay, trước yêu cầu
đẩy nhanh tiến độ sắp xếp và đổi
mới doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ nhất
trí từ ngày 01 tháng 01 năm 2006 tiếp tục áp dụng chính
sách hỗ trợ lao động dôi dư do sắp xếp
lại doanh nghiệp nhà nước như quy định
tại Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng
4 năm 2002 đã được sửa đổi, bổ
sung tại Nghị định số 155/2004/NĐ-CP ngày 10
tháng 8 năm 2004 của Chính phủ.
13. Về dự thảo Nghị định quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Giáo dục, do Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo trình; dự
thảo Nghị định hướng dẫn đầu
tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt
Nam, do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và
Đầu tư trình: Giao các Bộ chủ trì tiếp
tục hoàn chỉnh các dự thảo Nghị định
trên, gửi phiếu lấy ý kiến Thành viên Chính phủ, trình
Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành.
14. Chính
phủ đã xem xét Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, báo
cáo về kết quả giao ban sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và đầu tư tháng 4 và 4 tháng đầu
năm 2006 do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và
Đầu tư trình; Báo cáo tình hình thương mại
tháng 4 năm 2006 do Bộ Thương mại trình; Báo cáo về
công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại tố cáo
quý I/2006 do Tổng Thanh tra Chính phủ trình.
Trong tháng 4 và 4 tháng
đầu năm 2006, kinh tế nước ta tiếp
tục phát triển theo chiều hướng tích cực: giá
trị sản xuất công nghiệp tăng cao, sản
xuất nông nghiệp phát triển ổn định,
dịch cúm gia cầm được khống chế có
hiệu quả; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu
dịch vụ tăng so với cùng kỳ năm
trước; lượng khách du lịch quốc tế
đến Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu,
đặc biệt là khu vực đầu tư
nước ngoài tiếp tục tăng; thu hút vốn
đầu tư nước ngoài, thu ngân sách nhà nước
tăng, bảo đảm các nhu cầu chi thường
xuyên, chi cho đầu tư phát triển, chi thanh toán các nghĩa
vụ, nợ đến hạn; giá cả thị
trường tiếp tục ổn định. Các hoạt
động văn hoá xã hội, giữ gìn an ninh trật
tự tiếp tục được duy trì tốt.
Bên cạnh kết
quả tích cực đã đạt được trong
tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2006, nền kinh tế nước
ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều
thách thức, một số sản phẩm công nghiệp
khả năng cạnh tranh thấp, giá cả nhiều
mặt hàng chịu tác động của giá thị
trường thế giới, thời tiết diễn
biến bất thường gây ảnh hưởng tới
sản xuất và đời sống của nhân dân, tình hình
trật tự an toàn giao thông tuy đã có tiến bộ
nhưng số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng còn nhiều,
tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, tham
nhũng lãng phí, tệ nạn xã hội... vẫn chưa
được ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả.
Để hoàn thành
tốt kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2006, thiết thực chào mừng thành công Đại
hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ X, Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, điạ
phương bám sát các diễn biến tình hình thực
tế, chỉ đạo nghiêm túc, triệt để việc
thực hiện Nghị quyết số 01/2006/NQ-CP ngày 16
tháng 01 năm 2006 của Chính phủ về những giải
pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành
thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân
sách nhà nước năm 2006; đẩy mạnh sản
xuất, thực hiện các biện pháp tiết kiệm,
giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản
phẩm hàng hoá và dịch vụ; đẩy mạnh
xuất khẩu, kiểm soát giá cả thị
trường, kiềm chế tăng giá; chấn chỉnh
quản lý đầu tư, sử dụng ngân sách. Tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc
thực hiện các dự án đầu tư, bảo
đảm yêu cầu về tiến độ và chất
lượng thực hiện. Tổ chức tốt công tác
tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo;
không để xảy ra tình trạng khiếu kiện
phức tạp, kéo dài, vượt cấp.
Các Bộ, ngành,
địa phương chủ động xây dựng
chương trình hành động cụ thể thực
hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X của Bộ, ngành và địa
phương mình./.
TM.
CHÍNH PHỦ
THỦ
TƯỚNG
Phan Văn Khải