Công văn 03/VKS của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thống nhất đường lối xử lý một số trường hợp cụ thể thuộc các tội phạm về ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • Tiếng Anh
  • Hiệu lực
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Nội dung MIX

    - Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…

    - Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.

  • Tải về
Mục lục
Tìm từ trong trang
Tải văn bản
Văn bản tiếng việt
Lưu
Theo dõi văn bản

Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.

Báo lỗi
Ghi chú

thuộc tính Công văn 03/VKS

Công văn 03/VKS của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thống nhất đường lối xử lý một số trường hợp cụ thể thuộc các tội phạm về ma túy
Cơ quan ban hành: Viện kiểm sát nhân dân tối caoSố công báo:Đang cập nhật
Số hiệu:03/VKSNgày đăng công báo:Đang cập nhật
Loại văn bản:Công vănNgười ký:Phạm Sĩ Chiến
Ngày ban hành:03/01/2000Ngày hết hiệu lực:Đang cập nhật
Áp dụng:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản để xem Ngày áp dụng. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Lĩnh vực: Hành chính
Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Ghi chú
Ghi chú: Thêm ghi chú cá nhân cho văn bản bạn đang xem.
Hiệu lực: Đã biết
Tình trạng: Đã biết

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
______________

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

________________

Số: 03/VKS
Trích yếu: v/v Hướng dẫn thống nhất đường lối xử lý một số trường hợp cụ thể thuộc các tội phạm về ma túy

Hà Nội, ngày 03 tháng 01 năm 2000


 

Kính gửi:

- Các viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
- Viện kiểm sát quân sự Trung ương
- Các đơn vị: vụ 2C; VKSXXPT 1, 2, 3; Vụ 3.

 

Để chủ động tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc khi việc áp dụng quy định của Chương VIIa BLHS và Thông tư liên tịch số 01, 02 và giải quyết các vụ án về ma túy, VKSNDTC đã tổ chức cuộc Hội thảo cấp chuyên viên liên ngành với sự tham gia của đại diện các đơn vị liên quan thuộc Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Y tế và đại diện của 8 VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Hội nghị thống nhất nhận định những vướng mắc đã được nêu ra trong Hội nghị có nguồn gốc từ những quy định của một số điều luật thuộc Chương VIIa BLHS, một số điểm hướng dẫn thuộc Thông tư liên tịch số 01, 02, nên đề nghị VKSNDTC có văn bản kiến nghị với Quốc hội, liên ngành Trung ương nghiên cứu, sửa đổi cho phù hợp với thực tế của cuộc đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma túy và sớm có văn bản hướng dẫn trong ngành Kiểm sát những vấn đề đã được Hội nghị thống nhất.

Trong khi chưa có hướng dẫn mới của liên ngành Trung ương, khi áp dụng các Thông tư liên tịch số 01, 02 để giải quyết các vụ án về ma túy, VKS các cấp cần nhận thức và áp dụng thống nhất một những vấn đề sau:

1. Về tội danh:

a. Về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

Căn cứ theo quy định của Điều 185 (i) BLHS và hướng dẫn của Thông tư 02 thì: Người phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy bao gồm các đối tượng phạm tội là người không nghiện ma túy, và những người nghiện ma túy, nên khi giải quyết những vụ án thuộc loại tội này trước hết cần phải xác định được bản chất của sự việc. Đó thực chất là việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy hay chỉ là những người nghiện ma túy tụ tập với nhau sử dụng trái phép chất ma túy?

Đối với những người nghiện ma túy có quan hệ quen biết tụ tập nhau để sử dụng trái phép chất ma túy. Nguồn ma túy và dụng cụ tiêm chích là do góp tiền mua hoặc luân phiên nhau bỏ tiền mua (nay người này, mai người khác), địa điểm tụ tập sử dụng ma túy không cố định, thì chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 185 (i) BLHS nếu đối tượng nào trong số họ có thêm một trong các điều kiện quy định tại tiết g điểm 2 thông tư liên tịch số 02.

b. Về tội sử dụng trái phép chất ma túy

Chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người sử dụng trái phép chất ma túy về tội danh theo Điều 185 (l) BLHS khi họ có đủ 2 điều kiện luật định mà còn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy.

Điều kiện “đã được giáo dục nhiều lần” phải được thể hiện trong hồ sơ vụ án và được tính kể từ khi thi hành xong quyết định xử lý hành chính bằng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định, theo quy định của Điều 74 và 75 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.

c. Về tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy

Để có thể truy cứu TNHS đối với người có hành vi cưỡng bức, lôi kéo theo quy định của Điều 185 (m) thì người bị cưỡng bức, lôi kéo phải được xác định là người không có nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy.

d. Về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy

Theo quy định của Thông tư 02 thì người chứa chấp phải biết người khác là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng khi họ mượn hoặc thuê địa điểm để trực tiếp sử dụng trái phép chất ma túy nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ, mà vẫn cho họ mượn hoặc thuê, thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 185 (k) BLHS.

đ. Về tội mua bán trái phép chất ma túy

Theo quy định của Thông tư liên tịch số 01, 02 thì chỉ truy tố tội mua bán trái phép chất ma túy khi chứng minh được động cơ, mục đích là để bán hoặc thanh toán, trao đổi.

Nếu không chứng minh được mục đích bán trái phép, nhưng số lượng chất ma túy thu được từ họ lớn hơn mức cho phép xử lý bằng biện pháp hành chính, thì theo thông tư liên tịch số 01, 02 phải truy tố họ về hành vi tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy.

* Xử lý đối với người bán ma túy trái phép nhưng còn có những hành vi khác như sau:

- Nếu sau khi mua ma túy người nghiện lên cơn nghiện và mượn luôn địa điểm của người bán để hút, chích. Dụng cụ là của người nghiện mang theo thì ngoài việc truy tố người bán về tội “mua bán trái phép chất ma túy” còn phải truy tố người bán thêm về tội “chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 185 (k), nếu đó là lần đầu tiên. Hoặc phải truy tố về tội “tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” nếu hành vi đó được lặp đi, lặp lại nhiều lần.

- Nếu sau khi bán, người bán cho người nghiện sử dụng tại địa điểm của mình, dụng cụ chích, hút là của người bán thì dù là lần đầu tiên cũng phải truy tố thêm tội “tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 185 (i) BLHS.

2. Về chất ma túy, trọng lượng chất ma túy, giám định chất ma túy:

Để đảm bảo tính khách quan, khoa học trong đấu tranh chống tội phạm và tránh những vi phạm không đáng có, trong từng vụ án có thu giữ được chất ma túy cần phải giám định về chất ma túy, trọng lượng ma túy trước khi quyết định xử lý cụ thể.

Với đối tượng làm giả chất ma túy để buôn bán, trao đổi khi xử lý bằng biện pháp hình sự, thì xem xét trách nhiệm hình sự về hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tài sản của công dân theo quy định của Điều 157 BLHS. Nếu khi giám định các chất làm giả ma túy đó có hàm lượng ma túy, mặc dù tỷ lệ ma túy thấp vẫn phải xử lý đối tượng đó theo các điều luật tương ứng thuộc Chương VIIa BLHS - Các tội phạm về ma túy.

3. Về các tình tiết theo luật định:

a. Tình tiết “phạm tội nhiều lần”

Trường hợp khi bị can khai ra các lần phạm tội trước đó, nếu không xác định được, mà chỉ căn cứ vào lời khai nhận tội của bị can thì chưa đủ cơ sở để xử lý và áp dụng tình tiết này. Lời khai nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ khi nó phù hợp với các chứng cứ khác trong vụ án.

b. Tình tiết “tái phạm, tái phạm nguy hiểm”

Theo hướng dẫn của tiết b điểm 4 mục II phần B Thông tư 01 và tại điểm b mục 9 Thông tư 02, thì người nào tàng trữ trái phép hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy có trọng lượng thuốc phiện dưới một gam (1g) hoặc heroin dưới không phẩy một gam (0,1g)… chỉ bị truy cứu TNHS khi họ đã bị kết án về một trong các tội phạm về ma túy được quy định trong bộ luật hình sự, nhưng chưa được xóa án. Nếu trước đó họ chỉ bị kết án một hoặc nhiều lần về tội phạm khác (trong phần các tội phạm) mà không phải về một trong các tội phạm về ma túy, thì họ vẫn không bị truy cứu TNHS về tội tàng trữ trái phép hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy.

Trong trường hợp họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì việc xác định họ có thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm hay không để truy tố họ theo khoản 1 hay theo khoản 2 Điều 185 (c) hoặc theo khoản 1 hay khoản 2 Điều 185 (d) không phải căn cứ vào số lần họ đã bị kết án, nhưng chưa được xóa án mà phải căn cứ vào Điều 40 BLHS để xem xét cụ thể.

Ví dụ 1: Một người đã bị kết án một năm tù theo khoản 1 Điều 185 (l) về tội “sử dụng trái phép chất ma túy” và chưa được xóa án, nay lại tàng trữ 0,5 kg thuốc phiện, thì trong trường hợp này theo quy định tại khoản 1 Điều 40 BLHS họ chỉ là tái phạm. Do đó họ chỉ bị truy tố theo khoản 1 Điều 185 (c). Tình tiết tái phạm chỉ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với họ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 39 BLHS.

Ví dụ 2: Một người đã bị kết án ba năm tù theo khoản 1 Điều 185 (đ) về tội “mua bán trái phép chất ma túy” và chưa được xóa án, nay tàng trữ trái phép 0,5 kg thuốc phiện, thì trong trường hợp này theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 40 BLHS họ là tái phạm nguy hiểm. Do đó, họ phải bị kết án theo điểm n khoản 2 Điều 185 (c).

Ví dụ 3: Một người đã bị kết án một năm tù theo khoản 1 Điều 109 về tội “cố ý gây thương tích” và chưa được xóa án, thì lại bị kết án một năm tù theo khoản 1 Điều 185 (l) về tội “sử dụng trái phép chất ma túy” và cũng chưa được xóa án, nay lại tàng trữ trái phép 0,5gam thuốc phiện, thì trường hợp này theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 40 BLHS họ là tái phạm nguy hiểm. Do đó họ phải bị truy tố theo điểm n khoản 2 Điều 185 (c).

Ngoài những vấn đề đã được hướng dẫn cụ thể trên đây, còn một số vấn đề khác mà các địa phương, đơn vị phản ánh chưa được giải quyết, Viện kiểm sát nhân dân tối cao sẽ tiếp tục nghiên cứu để hướng dẫn hoặc có kiến nghị với các ngành hữu quan để thống nhất hướng dẫn hoặc tập hợp để kiến nghị sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch; sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự.

 

Nơi nhận:
- Như trên;
- Đ/c Viện trưởng (thay b/c);
- Bộ Công an, TANDTC (để biết);
- Lưu VP, Vụ 2C, HS

KT. VIỆN TRƯỞNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
PHÓ VIỆN TRƯỞNG




Phạm Sỹ Chiến

 

Ghi chú
LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Nội dung văn bản đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

văn bản cùng lĩnh vực

văn bản mới nhất

×
×
×
Vui lòng đợi