Thông tư 102/2006/TT-BQP của Bộ Quốc phòng về việc hướng dẫn thực hiện chỉ thị số 36/2005/CT-TTg ngày 17/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục chỉ đạo xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Thông tư 102/2006/TT-BQP
Cơ quan ban hành: | Bộ Quốc phòng | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 102/2006/TT-BQP | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Thông tư | Người ký: | Phạm Văn Trà |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 31/05/2006 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | An ninh trật tự, An ninh quốc gia |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Thông tư 102/2006/TT-BQP
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
THÔNG TƯ
CỦA BỘ
QUỐC PHÒNG SỐ 102/2006/TT-BQP NGÀY 31 THÁNG 5 NĂM 2006 HƯỚNG DẪN THỰC
HIỆN CHỈ THỊ SỐ 36/2005/CT-TTG NGÀY 17/10/2005
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ TIẾP
TỤC CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG CƠ SỞ VỮNG
MẠNH TOÀN DIỆN ĐỂ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
NHIỆM VỤ
QUỐC PHÒNG, AN NINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Căn
cứ Chỉ thị số 36/2005/CT-TTg ngày 17 tháng 10 năm
2005 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp
tục chỉ đạo xây dựng cơ sở vững
mạnh toàn diện để đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh (QP-AN) trong tình hình mới,
Bộ Quốc phòng hướng dẫn triển khai
thực hiện như sau:
1.
Tổ chức quán triệt và xây dựng kế hoạch
thực hiện Chỉ thị
Các cấp, các ngành, các địa
phương nghiên cứu quán triệt sâu sắc và tổ
chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chỉ
thị của Thủ tướng Chính phủ về
tiếp tục chỉ đạo xây dựng cơ sở
vững mạnh toàn diện để đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình
mới; trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch
cụ thể, có biện pháp sát với tình hình của
địa phương, cơ sở nhằm đạt cho
dược mục tiêu cơ bản của nhiệm vụ
xây dựng cơ sở là "Giữ vững sự ổn
định về chính trị; kinh tế, văn hóa xã hội
phát triển; đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân được cải thiện, có
nếp sống văn hóa lành mạnh, QP-AN vững mạnh,
góp phần làm thất bại chiến lượt
"Diễn biến hòa bình", bạo loạn lật
đổ của các thế lực thù địch, sẵn
sàng đối phó thắng lợi với các tình huống có
thể xảy ra ở địa phương, cơ
sở".
2.
Xây dựng cơ sở vững mạnh về chính trị,
xây dựng "thế trận lòng dân" vững
chắc.
Để xây dựng cơ sở
vững mạnh về chính trị, xây dựng "thế trận
lòng dân" vững chắc, cấp ủy, chính quyền các
cấp cần tổ chức quán triệt, tuyên truyền
sâu rộng chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước tới mọi cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân; trước hết là đội
ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở để có nhận thức đúng,
tự giác chấp hành đường lối chính sách
của đảng, pháp luật Nhà nước, nhằm
thường xuyên củng cố xây dựng lòng tin của
nhân dân đối với sự lãnh dạo của Đảng.
Đây là một trong những vấn đề có tính
chiến lược, là nhiệm vụ thường xuyên
cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của
cả hệ thống chính trị.
a) Quán triệt, xây dựng kế
hoạch và triển khai thực hiện có hiệu quả
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
"Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị ở cơ sở xã, phường,
thị trấn". Trong đó, lấy xây dựng chi
bộ trong sạch vững mạnh là then chốt. Phải
thường xuyên chăm lo xây dựng củng cố các
tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính
trị ở xã, phường, thị trấn, thôn, ấp,
làng, bản vững mạnh, đủ sức giải
quyết những vấn đề phức tạp ở
cơ sở. Tập trung nâng cao chất lượng
hoạt động của các ban, ngành, đoàn thể
ở các thôn, ấp, buôn, làng, bản. Đây là nội dung
có ý nghĩa quyết định đến phát triển
kinh tế xã hội, bảo đảm QP-AN và giữ
được trật tự an toàn xã hội ở cơ sở.
b) Thường xuyên chăm lo công
tác đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng
đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn,
thôn, ấp, buôn, làng, bản vững mạnh theo Quyết
định số 03/2004/QĐ-TTg ngày 07/01/2004 của Thủ
tướng Chính nhủ về Định hướng quy hoạch
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức xã,
phường, thị trấn đến năm 2010,
nhất là đối với vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc ít người. Coi trọng
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; không
ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, tư
tưởng, đạo đức cách mạng cho cán
bộ, đảng viên ở cơ sở. Đội
ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự
gần dân, đi sâu, đi sát nhân dân, lắm chắc tâm
tư nguyện vọng và kịp thời giải quyết
những kiến nghị chính đáng của nhân dân; làm
tốt việc tuyên truyền vận động, thuyết
phục làm cho nhân dân hiểu và tự giác chấp hành đúng
đường lối chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
Tập trung củng cố,
kiện toàn đội ngũ cán bộ cơ quan và các ngành,
đoàn thể ở cơ sở. Tổ chức tuyển chọn
đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn,
nghiệp vụ theo tinh thần Nghị định số
114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về Cán
bộ, công chức xã, phường, thị trấn và
Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của
Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng
và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan Nhà
nước. Đội ngũ cán bộ nói chung, đặc
biệt các đồng chí cán bộ chủ chốt và đảng
viên phải được quán triệt đầy
đủ, đồng thời là người gương
mẫu thực hiện nghiêm túc mọi chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng về
kinh tế - xã hội, QP-AN. Cán bộ chủ trì, chủ
chốt, đảng viên phải được bồi
dưỡng kiến thức QP-AN theo nội dung,
chương trình qui định cho từng đối
tượng.
Thực hiện tốt công tác
đào tạo bồi dưỡng, quy hoạch xây dựng
đội ngũ cán bộ xã, phường, thị
trấn vững mạnh bằng nhiều hình thức và
giải pháp phù hợp; chủ động tích cực
tạo nguồn cán bộ cơ sở từ các đối
tượng là con em các gia đình cách mạng, những sinh
viên đã tốt nghiệp đại học, cao
đẳng, các trường phổ thông nội trú,
những thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ trong lực
lượng vũ trang trở về địa phương
c) Đẩy mạnh việc xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở, mở rộng phát huy
quyền làm chủ của nhân dân đi đôi với
giữ gìn kỷ cương, pháp luật của Nhà
nước; tổ chức cho nhân dân thực hiện
quyền làm chủ, tham gia giám sát các hoạt động
của tổ chức đảng, chính quyền và các
đoàn thể nhân dân một cách thiết thực; tăng
cường củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân, nhất là ở những nơi có đông
đồng bào tôn giáo, đồng bào dân tộc ít
người. Tập trung xây dựng, từng bước
hoàn thiện hệ thống quy chế, quy định và làm
rõ mối quan hệ làm việc giữa các tổ chức trong
hệ thống chính trị ở cơ sở; đẩy
mạnh cuộc vận động "Toàn dân đoàn
kết xây đời sống văn hóa ở khu dân cư",
chú trọng xây dựng và hoàn thiện các quy ước,
luật tục.... trong cộng đồng dân cư ở
các thôn, làng, ấp, bản; kịp thời giải
quyết những vướng mắc phát sinh trong nội
bộ nhân dân không để những mâu thuẫn nhỏ tích
tụ lâu ngày không được giải quyết, trở
thành điểm nóng.
3.
Đẩy mảnh phát triển kinh tế xã hội,
kết hợp chặt chẽ củng cố QP - AN với
phát triển kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh hiện nay, xu
thế hội nhập, cạnh tranh, phát triển kinh
tế của các nước trên thế giới đang
diễn ra quyết liệt, sự tụt hậu xa hơn
về kinh tế dễ dẫn đến mất ổn
định về chính trị, xã hội, hạn chế
khả năng củng cố QP-AN cũng như bảo
vệ độc lập chủ quyền đất
nước. Vì vậy, điều kiện quyết
định là phải phát triển kinh tế - xã hội
với nhịp độ nhanh, bền vững, bảo
đảm sự ổn định chính trị, gắn
với chống các tiêu cực xã hội, xây dựng đời
sống văn hoá tinh thần lành mạnh là nền tảng
để tăng cường củng cố QP-AN ở
cơ sở.
a) Các cấp, các ngành và các
địa phương cần thường xuyên quán
triệt nắm vững 2 nhiệm vụ chiến
lược "xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc". Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8
(Khóa IX) về "Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới" và Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X, nâng cao trách
nhiệm tổ chức thực hiện; chủ
động tổ chức điều tra, khảo sát,
lập kế hoạch cụ thể bảo đảm phát
triển kinh tế - xã hội gắn với củng
cố QP-AN ở địa phương có hiệu quả;
góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế,
tiềm lực QP-AN ngay từ cơ sở. Coi trọng
việc vận dụng, cụ thể hóa các chủ
trương, chính sách, chỉ thị, nghị quyết
của Đảng phù hợp với tình hình địa
phương, cơ sở; kết hợp chặt giữa
phát triển kinh tế và giải quyết các vấn
đề xã hội với tăng cường QP-AN;
chăm lo phát triển sự nghiệp y tế, giáo dục,
xóa đói giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
b) Chính quyền các cấp cần
nghiên cứu đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đúng hướng, gắn phát triển
sản xuất với xây dựng quan hệ sản
xuất mới, phù hợp với điều kiện, tình
hình địa phương và bảo vệ môi
trường sinh thái; đẩy mạnh xóa đói giảm
nghèo, nâng cao đời sống vật chất, đời
sống tinh thần của nhân dân, nhất là vùng kháng
chiến cũ, vùng biên giới, vùng đồng bào dân
tộc ít người. Phải lấy đơn vị xã,
phường, thôn, ấp, buôn, làng, bản là địa bàn
triển khai thực hiện các dự án vừa và nhỏ
để thiết thực phát triển kinh tế xã
hội, xây dựng cơ sở hạ tầng phục
vụ cho đời sống của nhân dân địa phương.
Đối với những nơi có đông đồng bào
dân tộc ít người, các xã vùng biên giới cần làm
tốt công tác tuyên truyền vận động, giúp đỡ
nhân dân phát triển sản xuất, ổn định
đời sống, không nghe bọn xấu xúi giục, kích
động; phối hợp với các đồn biên phòng,
các lực lượng vũ trang trên địa bàn bảo vệ
vững chắc độc lập chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước.
c) Phát triển kinh tế - xã
hội phải đi đôi với tăng cường
tiềm lực quốc phòng - an ninh; vừa bảo
đảm yêu cầu nhiệm vụ xây dựng phát
triển kinh tế - xã hội trong thời bình, vừa
đáp ứng yêu cầu khi có chiến tranh xảy ra. Trong
lập quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của
các ngành, các địa phương trên lĩnh vực
sản xuất công nghiệp, văn hóa, du lịch.....
phải chú trọng tới QP - AN, bảo đảm
vừa đạt được yêu cầu tăng
trưởng kinh tế vừa đáp ứng yêu cầu
bảo đảm về QP-AN của địa
phương, cơ sở và quốc gia. Các cấp, các ngành,
các địa phương ngay lừ thời bình phải
tổ chức điều tra, khảo sát năng lực các
cơ sở công nghiệp trên địa bàn đề
lựa chọn, lên phương án xây dựng, sẵn sàng
chuyển các dây chuyền sản xuất công nghiệp
phục vụ dân sinh sang sản xuất các mặt hàng
phục vụ cho QP-AN khi cần thiết, đồng thời
góp phần từng bước phát triển ngành công
nghiệp quốc phòng của đất nước. Xây
dựng kế hoạch động viên kinh tế, xã
hội nhằm bảo đảm cho nhu cầu quốc phòng,
quân sự đáp ứng cho nhiệm vụ xây dựng,
hoạt động tác chiến của khu vực phòng
thủ bảo vệ Tổ quốc. Phối hợp
với cơ quan quân sự địa phương
để đánh giá, lập quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội kết hợp vớì QP - AN
trên các vùng chiến lược, từng khu vực, từng
địa bàn và lập kế hoạch động viên
nền kinh tế quốc dân đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ quốc phòng trong mọi tình huống.
d) Các cấp, các ban, ngành,
địa phương cần tiếp tục quan triệt
và tổ chức thực hiện có hiệu quả Luật
Quốc phòng và các văn bản hướng dẫn thi hành
kèm theo; Nghị định số 119/2004/NĐ-CP ngày
11/5/2004 của Chính phủ về công tác quốc phòng ở
các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ và các địa phương. Quán triệt sâu
sắc chủ trương xây dựng cơ sở vững
mạnh toàn diện là vấn đề có tính chiến
lược lâu dài, là nhiệm vụ thường xuyên
của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống
chính trị. Cần tập trung xây dựng thế trận
QP - AN; kết hợp QP - AN với kinh tế, kinh tế với
QP - AN. Các địa bàn trọng điểm cần kết
hợp với thực hiện các chương trình quốc
gia theo các quyết định của Thủ tướng
Chính phủ vê phát triển kinh tế xã hội các xã
đặc biệt khó khăn, miền núi và vùng sâu, vùng xa.
Khi hoạch định các chính sách, giải pháp kinh tế -
xã hội, cũng như các chính sách đối nội,
đối ngoại phải chú ý đến hiệu quả
chính trị xã hội, hiệu quả kinh tế và ảnh
hưởng của các chính sách đó đến nhiệm
vụ QP - AN của đất nước. Trong xem xét và
giải quyết mọi vấn đề không
được phiến diện, cực đoan, một
chiều, được về kinh tế nhưng an ninh
quốc gia bị tổn hại, có lợi cho địa
phương trước mắt nhưng thiệt hại cho đất nước
về lâu dài.
Cần tăng cường
việc củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh,
bảo đảm trật tự an toàn xã hội để
tạo ra môi trường hòa bình, ổn định,
hợp tác cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Ngược lại kinh tế có nhịp độ tăng
trưởng tốt góp phần ổn định tình hình xã
hội, tạo điều kiện củng cố QP-AN,
đó cũng là phương hướng, biện pháp
thiết thực phòng, chống "Diễn biến hòa
bình", bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch ở địa phương,
cơ sở.
e) Các ngành, các địa
phương phối hợp chặt chẽ với Bộ
Quốc phòng trong việc xây dựng và phát triển các khu
kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược,
trọng điểm; triển khai thực hiện có
hiệu quả các đề án xây dựng cơ sở
vững mạnh toàn diện góp phần xây dựng các
tỉnh, thành phố và các địa phương thành khu vực
phòng thủ vững chắc.
4.
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ở
cơ sở, chỉ đạo phối hợp giữa các
lực lượng góp phần giữ vững ổn
định chính trị đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế củng cố QP - AN.
Cấp ủy chính quyền các
cấp, các ban, ngành, đoàn thể thực sự quan tâm
để nâng cao chất lượng tổng hợp và
sức mạnh chiến đấu của lực
lượng vũ trang địa phương. Trong đó,
tập trung xây dựng cơ quan quân sự, biên phòng, công an
địa phương vững mạnh toàn diện về
mọi mặt, đủ sức làm tham mưu giúp cấp
ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo
tổ chức thực hiện công tác QP-AN. Chú ý bố trí
lực lượng vũ trang phù hợp với thực
tiễn và nhiệm vụ của từng địa
phương; trước mắt cần thực hiện
tốt một số nội dung sau:
a) Thường xuyên tuyên truyền
giáo dục sâu rộng cho mọi cấp, mọi ngành, mọi
người hiểu biết về Luật Quốc phòng,
Luật An ninh quốc gia, Luật Nghĩa vụ quân
sự; xác định rõ nghĩa vụ và trách nhiệm
của công dân đối với việc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng
mới, thực hiện tốt công tác tuyển chọn gọi
công dân nhập ngũ. Tiếp tục nâng cao chất
lượng công tác tuyển sinh quân sự, ưu tiên cho con
em đồng bào dân tộc ít người đi học các
trường trong Quân đội và thực hiện chính sách
cử tuyển. Các địa phương gắn nhiệm
vụ tuyển quân, tuyển sinh với nhiệm vụ xây
dựng lực lượng dự bị động viên và
góp phần tạo nguồn cán bộ cơ sở vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng
đặc biệt khó khăn.
b) Lực lượng dự
bị động viên (DBĐV) phải được
thường xuyên theo dõi, đăng ký, quản lý chặt
chẽ, chính xác về số lượng, chất
lượng, quản lý được biến động
quân dự bị. Thực hiện tốt việc sắp
xếp, biên chế, tổ chức các đơn vị
DBĐV và quản lý chặt chẽ tại cơ sở. Tập
trung xây dựng các đơn vị DBĐV, sẵn sàng động
viên khi chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu
cao, các đơn vị làm nhiệm vụ A2, nhất là các
đơn vị ở địa bàn trọng điểm.
Thực hiện phân cấp cụ
thể việc bảo đảm hậu cần, vũ khí,
trang bị kỹ thuật, tài chính..... và dự trữ cho
nhiệm vụ động viên. Chuẩn bị chu đáo
mọi mặt, bảo đảm cho lực lượng
DBĐV luôn đáp ứng yêu cầu sẵn sàng động
viên, sẵn sàng chiến đấu, đối phó với
mọi tình huống, kể cả tình huống bạo
loạn có can thiệp vũ trang từ bên ngoài và chiến
tranh xâm lược quy mô lớn.
Xây dựng đội ngũ sĩ
quan dự bị và lực lượng dự bị
động viên có đủ số lượng và bảo
đảm chất lượng. Tăng cường các
biện pháp tạo nguồn, bảo đảm đồng
bộ về cơ cấu có biện pháp quản lý, đào
tạo, bồi dưỡng, từng bước nâng tỷ
lệ xếp đúng chuyên nghiệp quân sự, đáp
ứng yêu cầu biên chế, tổ chức.
Để nâng cao chất
lượng toàn diện cho lực lượng DBĐV
phải tiếp tục nghiên cứu cải tiến nội
dung, phương pháp tổ chức huấn luyện quân
nhân dự bị, huấn luyện phân đội DBĐV;
tập trung chủ yếu là đội ngũ sĩ quan,
chuyên môn kỹ thuật, huấn luyện tạo nguồn
và các đối tượng nòng cốt khác trong đơn
vị DBĐV. Coi trọng huấn luyện phân đội
đối với các đơn vị DBĐV có đủ
điều kiện, đặc biệt coi trọng
huấn luyện phân đội DBĐV để sẵn
sàng thực hiện nhiệm vụ A2 và nhiệm vụ động
viên ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao.
c) Tiếp tục quán triệt và
tổ chức thực hiện Pháp lệnh Dân quân tự
vệ, tổ chức đăng ký công dân trong độ
tuổi, tuyển chọn kết nạp vào lực
lượng dân quân tự vệ bảo đảm chất
lượng ngay từ đầu vào; chú trọng rà soát
lực lượng hiện có để củng cố tổ
chức, thực hiện luân phiên, duy trì số
lượng, quy mô phù hợp với tình hình từng vùng,
từng địa phương cơ sở. Củng
cố, nâng cao chất lượng các phân đội phòng không
dân quân tự vệ hiện có, tổ chức xây dựng
phân đội DQTV phòng không, Dân quân cơ động, Dân quân
thường trực theo chỉ thị của Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng.
Các bộ ngành,
địa phương có doanh nghiệp liên doanh với
nước ngoài tiến hành rà soát lại lực
lượng tự vệ, nghiên cứu xác định
số lượng, quy mô tổ chức phù hợp với tính
chất sản xuất kinh doanh của từng loại
hình. Những nơi còn vướng mắc do cơ chế
chính sách hoặc quy định chưa phù hợp.... cần
lập kế hoạch phối hợp chặt chẽ với
cơ quan quân sự địa phương, khảo sát,
nghiên cứu phương án đề xuất, kiến
nghị với cơ quan có liên quan để tổ
chức xây dựng lực lượng tự vệ.
Thực
hiện huấn luyện dân quân tự vệ theo
phương châm "cơ bản, thiết thực và
chất lượng" sát với thực tế; thực hành
huấn luyện theo đúng chương trình quy định
cho từng đối tượng. Chú trọng huấn
luyện cho cán bộ lực lượng dân quân tự vệ
thường trực, cơ động, lực
lượng binh chủng phù hợp với tổ chức,
trang bị và sở trường cách đánh của DQTV. Chỉ
đạo triển khai huấn luyện diễn tập
theo phương án, diễn tập phòng chống khắc
phục hậu quả thiên tai và các sự cố khác. Duy trì
tuần tra canh gác, nâng cao chất lượng hiệu
quả hoạt động của dân quân tự vệ và thường
xuyên phối hợp với lực lượng khác góp
phần bảo vệ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở
địa phương, cơ sở.
d) Mọi hoạt động
phối hợp thực hiện nhiệm vụ QP - AN,
trật tự an toàn xã hội ở cơ sở phải đặt
dưới sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp, về mọi mặt của cấp ủy
đảng, sự điều hành của chính quyền các
cấp, sự chỉ đạo của cấp trên
trực tiếp, phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn dân, của cả hệ thống chính trị,
trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt.
Bảo đảm đoàn kết, phối hợp hiệp
đồng chặt chẽ giữa các lực lượng
trong thực hiện nhiệm vụ. Bảo đảm
chỉ huy, chỉ đạo, điều hành tập trung thống
nhất của từng lực lượng dựa trên
cơ sở chức năng, nhiệm vụ, đối
tượng, trang bị, phương thức và nội dung
hoạt động của từng lực lượng theo
Quyết định số l07/2003/QĐ-TTg ngày 02/6/2003
của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối
hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia,
trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới và các văn
bản hướng dẫn kèm theo; Quyết định số
56/QĐ-BQP ngày 17/5/2005 của Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng về việc ban hành Quy chế hoạt động
của lực lượng dân quân tự vệ.
5. Phát
huy vai trò của các lực lượng, tạo thành sức
mạnh tổng hợp đối với công tác quốc phòng,
an ninh ở cơ sở.
a) Chính quyền các cấp cần
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện về tổ
chức, giải quyết các mối quan hệ để
tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức
thực hiện có hiệu quả chức năng quản
lý nhà nước theo phân cấp. Chỉ đạo các ban, ngành,
đoàn thể phối hợp với lực lượng
công an, quân sự tuyên truyền, vận động giải
thích cho nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác QP – AN, nhất là
hiểu rõ các quy định của pháp luật về
khiếu nại tố cáo, không để bị kích động,
bình tĩnh giải quyết các mâu thuẫn, sự việc
trong khuôn khổ của pháp luật.
b) Cần có nhiều biện pháp tích
cực để phối hợp đồng bộ
giữa các lực lượng, sử dụng các
phương tiện thông tin hiện có ở địa
phương, bằng nhiều biện pháp, hình thức
lồng ghép phù hợp với từng cơ sở
để tổ chức tuyên truyền, quán triệt các
chủ trương chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, nhiệm vụ QP - AN
tới nhân dân, tổ chức tuyên truyền
Luật Quốc phòng, Luật Nghĩa vụ quân sự, Pháp
lệnh Dân quân tự vệ, Pháp lệnh Dự bị động viên...
để mọi người dân cùng nắm và hiểu được,
đồng thời vạch rõ âm mưu thủ đoạn
của các thế lực thù địch và bọn phản
động quốc tế đối với cách mạng
Việt Nam để mỗi người dân là một
chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận văn
hóa, tư tưởng, làm thất bại chiến
lược "Diễn biến hòa binh", bạo
loạn lật đổ của kẻ thù. Bám sát cơ
sở, dựa vào quần chúng nhân dân để nắm tình
hình, phân tích đánh giá tình hình đúng, từ đó có
biện pháp đề phòng, ngăn ngừa sớm những
vấn đề về khiếu kiện, vấn
đề về QP-AN khi mới manh nha, từ đó có
biện pháp chỉ đạo phối hợp đồng
bộ giữa các lực lượng để giải
quyết kịp thời, thấu đáo ngay từ cơ sở
không để lây lan hoặc kéo dài.
c) Chỉ đạo, rút kinh
nghiệm và nâng cao hiệu quả các tổ, đội công
tác được thành lập theo Quyết định
số 123/QĐ-BQP của Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng để phối hợp tốt với các
ban, ngành, cơ quan, tổ chức liên quan, làm tham mưu cho
cấp ủy, chính quyền địa phương xây
dựng cơ sở vững mạnh về chính trị, xây
dựng "thế trận lòng dân" thực sự
vững chắc, làm thất bại mọi âm mưu của
kẻ thù, góp phần xây dựng khu vực phòng thủ
vững chắc.
6.
Bảo đảm ngân sách cho công tác quốc phòng, an ninh
ở cơ sở.
a) Hàng năm căn cứ vào tính
chất, nhiệm vụ, yêu cầu huấn luyện,
hoạt động của lực lượng vũ trang
địa phương, các ban, ngành, cơ quan chuyên môn
phối hợp với cơ quan tài chính lập dự toán
kinh phí bảo đảm cho công tác QP - AN báo cáo Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc trình cấp có thẩm
quyền phê duyệt. Việc lập, chấp hành, quyết
toán ngân sách thực hiện theo đúng quy định
tại Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003
của Chính phủ Quy định chi tiết, hướng
dẫn thực hiện Luật Ngân sách nhà nước;
Nghị định số 10/2004/NĐ-CP ngày 07/01/2004
của Chính phủ Quy định về quản lý sử
dụng ngân sách và tài sản của Nhà nước
đối với một số hoạt động
thuộc lĩnh vực QP-AN và các văn bản
hướng dẫn hiện hành.
b) Việc lập quỹ QP - AN ở
địa phương phải căn cứ vào Nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh;
việc quản lý sử dụng quỹ QP - AN theo quy
định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh. Cơ quan quân sự các cấp chủ trì phối
hợp với Mặt trận Tổ quốc cùng cấp
chỉ đạo, động viên các đoàn thể nhân
dân, các tổ chức kinh tế, xã hội và mọi
tầng lớp nhân dân đóng góp xây dựng quỹ QP - AN
với hình thức thích hợp, đồng thời
quản lý chặt chẽ, chi tiêu đúng mục đích,
đúng nguyên tắc tài chính, đạt hiệu quả
thiết thực, chống tham ô, lãng phí.
c) Các bộ, ngành, cơ quan
đơn vị, địa phương, cơ sở
chỉ đạo cơ quan tài chính lập dự toán kinh
phí chi cho công tác thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng
kết thực hiện Chỉ thị 36/2005/CT-TTg ngày 17/10/2005
của Thủ tướng Chính phủ vào ngân sách chi
thường xuyên hàng năm của bộ, ngành, cơ quan,
tổ chức và địa phương.
7.
Công tác thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng kết.
a) Hàng năm và từng thời
kỳ, các cấp, các ngành, địa phương, cơ
sở phải định kỳ, hoặc đột
xuất kiểm tra, thanh tra việc quán triệt và tổ
chức thực hiện Chỉ thị số 36/2005/CT-TTg
ngày 17/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ qua
đó phát hiện những vấn đề yếu kém
hoặc những biểu hiện vi phạm, những
vấn đề vướng mắc trong tổ chức
thực hiện để báo cáo, giải quyết kịp
thời.
b) Thanh tra Bộ quốc phòng
phối hợp chặt chẽ với thanh tra các bộ, ngành
và các tỉnh hàng năm có kế hoạch tổ chức
thanh tra kết quả quán triệt chỉ đạo,
tổ chức thực hiện Chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ ở các bộ, ngành, địa phương
cơ sở.
c) Hàng năm và từng thời
kỳ các bộ ngành, địa phương, cơ sở
phải tiến hành tổ chức sơ kết, tổng
kết rút kinh nghiệm, biểu dương, khen
thưởng kịp thời những cơ quan, đơn vị, địa
phương, cơ sở và cá nhân thực hiện tốt
Chỉ thị số 36/2005/CT-TTg ngày 17/10/2005 của Thủ
tướng Chính phủ. Năm 2009 các địa
phương tiến hành sơ kết rút kinh nghiệm
để cuối năm 2009 Bộ Quốc phòng giúp Chính phủ
tổ chức sơ kết trong phạm vi toàn quốc.
Thông tư này có hiệu lực sau
15 ngày kể từ ngày đăng Công báo.
Thủ trưởng các Bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, Thủ trưởng các Tổng cục, các cơ
quan đơn vị có liên quan thuộc Bộ Quốc phòng,
Tư lệnh các quân khu, quân chủng, binh chủng và cơ
quan quân sự địa phương các cấp chịu
trách nhiệm thi hành Thông tư này. Trong quá trình thực
hiện nếu có vấn đề gì vướng mắc,
phản ánh kịp thời về cơ quan thường
trực của Bộ Quốc phòng về công tác quốc
phòng ở bộ, ngành và địa phương (Cục Dân
quân tự vệ - Bộ Tổng Tham mưu).
Bộ trưởng
Phạm Văn Trà