Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Công văn 7359/BYT-BM-TE của Bộ Y tế về việc củng cố mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
- Báo lỗi
- Gửi liên kết tới Email
- In tài liệu
- Chia sẻ:
- Chế độ xem: Sáng | Tối
- Thay đổi cỡ chữ:17
- Chú thích màu chỉ dẫn
thuộc tính Công văn 7359/BYT-BM-TE
Cơ quan ban hành: | Bộ Y tế | Số công báo: | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 7359/BYT-BM-TE | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Công văn | Người ký: | Nguyễn Bá Thủy |
Ngày ban hành: | 28/10/2010 | Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Y tế-Sức khỏe |
tải Công văn 7359/BYT-BM-TE
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
BỘ Y TẾ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 7359/BYT-BM-TE | Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 2010 |
Kính gửi: Đồng chí Giám đốc Sở Y tế các tỉnh/thành phố
Trong những năm qua, công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ - trẻ em ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu: các chỉ tiêu cơ bản của Chiến lược Quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản giai đoạn 2001 – 2010 đều thực hiện đạt và vượt. Việt Nam cũng thực hiện đạt Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) về giảm tử vong trẻ em, về cải thiện sức khỏe bà mẹ vào năm 2010 và hoàn toàn có thể đạt các mục tiêu này vào năm 2015.
Tuy nhiên, công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản cũng đang đứng trước những thách thức như: sự khác biệt về tình trạng sức khỏe, bệnh, tật và tử vong cũng như tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ, trẻ em giữa các vùng miền; cơ sở vật chất và trang thiết bị còn chưa đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS) chất lượng ngày càng cao và đa dạng của nhân dân; mạng lưới tổ chức CSSKSS ở một số địa phương còn chưa ổn định; cán bộ làm công tác CSSKSS còn thiếu và yếu, đặc biệt là ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa…
Để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước giao cho Ngành Y tế về công tác CSSKSS cũng như cam kết của Nhà nước Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện các Mục tiêu thiên niên kỷ, Bộ Y tế đề nghị Giám đốc các Sở Y tế các tỉnh/thành phố:
- Tăng cường đầu tư nguồn lực, trang thiết bị, cơ sở làm việc cho Trung tâm CSSKSS tỉnh để Trung tâm có thể hoạt động, thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ được giao là đơn vị đầu mối về chuyên môn kỹ thuật về CSSKSS của tỉnh.
Đối với các tỉnh đặc biệt khó khăn, cần chủ động xây dựng đề án đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị cho TTCSSKSS tỉnh trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt để có cơ sở kêu gọi đầu tư, hỗ trợ.
- Quan tâm chỉ đạo củng cố, kiện toàn mạng lưới CSSKSS từ tỉnh tới huyện, xã, thôn bản; đặc biệt là kiện toàn, ổn định tổ chức mạng lưới y tế đến huyện trên cơ sở các quy định của các văn bản hiện hành: Quyết định số 26/2005/QĐ-BYT ngày 9 tháng 9 năm 2005 của Bộ Y tế, Thông tư liên tịch số 03/2008/TTLT-BYT-BNV ngày 25 tháng 4 năm 2008 của liên Bộ Y tế - Nội vụ và Thông tư số 05/2008/TT-BYT ngày 14 tháng 5 năm 2008 của Bộ Y tế.
Bộ Y tế không có chủ trương sáp nhập Khoa Chăm sóc sức khỏe sinh sản thuộc Trung tâm Y tế/Y tế Dự phòng huyện với Trung tâm Dân số/Kế hoạch hóa gia đình huyện. Đây là 2 đơn vị có chức năng, nhiệm vụ khác biệt như đã quy định tại Thông tư liên tịch số 03/2008/TTLT-BYT-BNV ngày 25 tháng 4 năm 2008 của liên Bộ Y tế - Nội vụ. Đối với một số tỉnh đã tiến hành sáp nhập, cần củng cố, ổn định lại Khoa/Đội Chăm sóc SKSS tuyến huyện để đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ đã được quy định.
- Đối với các tỉnh ở các vùng miền núi, cần củng cố các khoa sản/ngoại sản của các bệnh viện đa khoa tuyến huyện để bệnh viện tuyến huyện (trừ các huyện ở gần thành phố/thị xã) có thể mổ đẻ và thực hiện cấp cứu sản khoa, nhi khoa. Bố trí có đủ nữ hộ sinh hoặc y sỹ sản nhi hoạt động ở các trạm y tế xã. Ở những nơi có tỷ lệ sản phụ đẻ tại nhà còn cao, bên cạnh việc tuyên truyền vận động, khuyến khích sản phụ đến đẻ tại cơ sở y tế, cần quan tâm triển khai các loại hình đào tạo cô đỡ thôn bản hoặc đào tạo cán bộ y tế thôn bản biết về quản lý thai và đỡ đẻ sạch, đỡ đẻ an toàn bao gồm cả việc phát hiện và chuyển biến kịp thời các trường hợp thai có nguy cơ nhằm giảm tai biến sản khoa, giảm tử vong mẹ và tử vong trẻ sơ sinh.
Trong quá trình thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc, đề nghị báo cáo về Bộ Y tế (Vụ Sức khỏe Bà mẹ - trẻ em) để tổng hợp báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Nơi nhận: - Theo danh sách; | KT. BỘ TRƯỞNG |