CHỈ THỊ
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ
01/2006/CT-TTG
NGÀY 09 THÁNG 01 NĂM 2006 VỀ VIỆC ĐẨY MẠNH
THỰC HIỆN
CÁC CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP NGƯỜI TÀN TẬT TRONG TÌNH HÌNH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI HIỆN NAY
Trong thời gian
qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật nhằm triển khai thực hiện các chính sách
trợ giúp người tàn tật. Trách nhiệm của các
cơ quan nhà nước, xã hội và gia đình đối
với người tàn tật; quyền và nghĩa vụ
của người tàn tật đã được quy
định tương đối đầy đủ,
tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động trợ giúp
người tàn tật, góp phần cải thiện, nâng cao
đời sống vật chất cũng như tinh
thần của đa số người tàn tật. Một
số Bộ, ngành, địa phương đã tích
cực triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ
người tàn tật trong các lĩnh vực: xóa đói,
giảm nghèo, dạy nghề và tạo việc làm, khám,
chữa bệnh, tạo điều kiện thuận
lợi cho người tàn tật tiếp cận các công
trình công cộng v.v... nhờ vậy, đời sống
của phần lớn những người tàn tật
được cải thiện rõ rệt, vị thế
của người tàn tật ngày càng được khẳng
định trong các hoạt động kinh tế - xã
hội ở nước ta.
Tuy nhiên, trong 7 năm qua, quá trình
thực hiện các chính sách trợ giúp người tàn
tật còn nhiều bất cập, một số quy
định của pháp luật về người tàn
tật vẫn chưa thực sự đi vào cuộc
sống. Các quy định của pháp luật liên quan
đến chính sách đối với người tàn
tật còn thiếu và chưa đồng bộ, không cụ
thể và chưa chú trọng nghiên cứu đề ra các
biện pháp hiệu quả trong khâu tổ chức thực
hiện. Nhận thức của cộng đồng, gia
đình, một số cấp chính quyền và chính bản
thân người tàn tật ở nhiều nơi chưa
thật đúng mực; tỷ lệ trẻ khuyết
tật/tàn tật được học văn hóa tại
các trường, lớp theo mô hình hòa nhập còn thấp;
các mô hình giáo dục chuyên biệt hiệu quả chưa
cao; việc tiếp cận các công trình công cộng của
một bộ phận những người tàn tật còn có
nhiều trở ngại, khó khăn. Còn tồn tại không
ít những trường hợp người tàn tật có
hoàn cảnh khó khăn chưa được hưởng
chính sách trợ cấp, trợ giúp mặc dù có đủ
điều kiện theo quy định. Tình hình phát triển
kinh tế - xã hội hiện nay ở nước ta kéo theo
những biến động về giá cả sinh hoạt và
tiền lương - thu nhập, trong khi các chính sách trợ
giúp người tàn tật chưa được
điều chỉnh kịp thời, làm cho đời
sống của người tàn tật đã khó khăn
lại càng khó khăn hơn.
Để
khắc phục những tồn tại nêu trên, tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách
trợ giúp người tàn tật trong giai đoạn phát
triển kinh tế - xã hội hiện nay; đồng
thời thực hiện nghiêm chỉnh cam kết của
Chính phủ Việt Nam về 7 lĩnh vực ưu tiên
trong Thập kỷ thứ II với mục đích thúc
đẩy sự tham gia đầy đủ và bình
đẳng của người tàn tật ở khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương, Thủ tướng Chính phủ
chỉ thị:
1. Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội
a. Tiếp tục rà soát, đánh giá kết
quả triển khai thực hiện Pháp lệnh về
người tàn tật và các văn bản quy phạm pháp
luật liên quan; chủ trì, phối hợp với các
Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất biện
pháp sửa đổi, bổ sung hoặc trình cơ quan có
thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các chính sách
trợ giúp đối với người tàn tật.
b. Xây dựng và trình Thủ tướng Chính
phủ đề án hỗ trợ người tàn tật
giai đoạn 2006 - 2010; tổ chức thực hiện
đề án sau khi được phê duyệt.
c. Đôn đốc Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
tạo điều kiện cho người tàn tật nghèo
tiếp cận và thụ hưởng Chương trình
mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn
2006 - 2010.
d. Hướng dẫn các cơ quan chức
năng của các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương thành lập và sử dụng Quỹ
việc làm cho người tàn tật; đẩy mạnh
các hoạt động dạy nghề và tạo việc làm
cho người tàn tật theo hướng học nghề
và truyền nghề; xây dựng các chương trình dạy
nghề dành riêng cho người tàn tật.
2. Bộ Văn
hóa - Thông tin
Đẩy mạnh việc tuyên truyền nâng
cao nhận thức về vấn đề khuyết
tật, tàn tật và người tàn tật nhằm phổ
biến rộng rãi các biện pháp phòng ngừa tàn tật và
tạo điều kiện để người tàn
tật tham gia các hoạt động văn hóa phù hợp.
3. Bộ Giáo
dục và Đào tạo
Xây dựng trình Thủ tướng Chính
phủ chiến lược và kế hoạch hành
động về giáo dục trẻ khuyết tật giai
đoạn 2006 - 2010 và những năm tiếp theo theo
hướng hòa nhập và dựa vào cộng đồng.
Thống nhất việc sử dụng ngôn ngữ ký
hiệu cho người khuyết tật/tàn tật về ngôn
ngữ trong phạm vi cả nước.
4. Bộ Y
tế
a. Xây dựng và triển khai chiến
lược chăm sóc sức khỏe cho người tàn
tật, trong đó chú trọng xây dựng các chương
trình phát hiện sớm dị tật và phục hồi
chức năng cho người tàn tật dựa vào
cộng đồng.
b. Hướng dẫn thực hiện các
chính sách miễn, giảm viện phí đối với
người tàn tật thuộc diện nghèo.
c. Phối hợp với Bộ Giáo dục và
Đào tạo biên soạn chương trình, giáo trình đào
tạo cán bộ chuyên ngành phục hồi chức năng
trong các trường trung học, đại học Y khoa
để áp dụng thống nhất toàn quốc.
d. Chủ trì, phối hợp với Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội tham khảo các
kinh nghiệm quốc tế và của Tổ chức Y
tế thế giới (WHO) xây dựng các tiêu chuẩn, tiêu
chí phân loại các dạng khuyết tật/tàn tật ở
Việt Nam.
5. Ủy ban
Thể dục thể thao
a. Xây dựng chương trình, bài tập và
hướng dẫn người tàn tật tham gia tập
luyện tại cộng đồng.
b. Chỉ đạo Hiệp hội thể
thao người khuyết tật xây dựng phong trào
tập luyện thi đấu thể thao; đề
xuất hình thức khen thưởng hoặc mức khen
thưởng phù hợp với những người tàn
tật có thành tích trong luyện tập và thi đấu
thể thao.
6. Bộ Khoa
học và Công nghệ
Phối hợp với Bộ Bưu chính,
Viễn thông xây dựng các quy định khuyến khích
nghiên cứu, sản xuất và ứng dụng các sản
phẩm phù hợp để hỗ trợ người tàn
tật có khả năng dễ dàng tiếp cận, sử
dụng các dịch vụ truyền thông và công nghệ thông
tin.
7. Bộ Xây
dựng
Chỉ đạo việc xây dựng các công
trình mới, nâng cấp các công trình hiện có theo bộ quy
chuẩn xây dựng công trình công cộng số: QCXDVN 01: 2002
và các bộ tiêu chuẩn số: TCXD Việt Nam
246:2002, TCXD VN 265:2002, TCXD VN 266:2002. Rà soát, sửa đổi
các bộ quy chuẩn nêu trên phù hợp với người
tàn tật.
8. Bộ Giao
thông vận tải
Phối hợp với Bộ Xây dựng,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ
đạo việc thiết kế, xây dựng các công trình
mới, nâng cấp, cải tạo các công trình dành cho
người tàn tật hiện có theo bộ quy chuẩn
đã ban hành. Phối hợp với Bộ Công nghiệp cải
tạo, chế tạo mới các phương tiện giao
thông công cộng để người tàn tật có
điều kiện tiếp cận an toàn và tham gia giao thông
thuận lợi.
9. Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
a. Chỉ đạo các cơ quan chức
năng xác định số lượng, phân dạng
người tàn tật theo quy định và hướng
dẫn của Bộ Y tế, Tổng cục Thống kê và
cơ quan liên quan.
b. Xây dựng kế hoạch và tổ
chức thực hiện các chính sách, chế độ
trợ cấp xã hội, trợ giúp y tế, giáo dục,
học nghề, tạo việc làm, hoạt động
văn hóa, thể thao đối với người tàn
tật theo các quy định của Nhà nước.
10. Trong quá trình
thẩm định, phê duyệt và nghiệm thu các dự án
đầu tư, các Bộ, ngành, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương chỉ
đạo các cơ quan chức năng thực hiện
nghiêm túc các quy chuẩn, tiêu chuẩn để người
tàn tật tiếp cận, thụ hưởng các chính sách
phát triển kinh tế - xã hội và sử dụng các công
trình công cộng.
Thủ tướng Chính phủ đề
nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội phối
hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương để xây
dựng kế hoạch đẩy mạnh việc thực
hiện pháp luật về người tàn tật; vận động
nhân dân tham gia bảo vệ, chăm sóc người tàn
tật, tạo cơ hội cho người tàn tật
tiếp cận được với các chương trình,
các dịch vụ xã hội, hòa nhập được
với cộng đồng.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan
thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và
Thủ trưởng các đơn vị, các tổ chức
liên quan chịu trách nhiệm thi hành Chỉ thị này.
KT.
Thủ tướng
Phó
Thủ tướng
Phạm
Gia Khiêm