NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
SỐ 03/2003/NQ-HĐTP NGÀY 18 THÁNG 4 NĂM 2003 HƯỚNG DẪN
THI HÀNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LỆNH THỦ TỤC
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ vào Luật tổ
chức Toà án nhân dân;
Để thi hành đúng và
thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
QUYẾT NGHỊ:
1. Về quy định "Người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại lần đầu"
"Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu" quy
định tại Điều 2 Pháp lệnh là cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức đã ra
một trong những quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc hoặc
có một trong những hành vi hành chính quy định tại Điều 11 Pháp lệnh.
2. Về quy định tại Điều 2 Pháp lệnh
Theo quy định tại Điều 2 Pháp lệnh thì khi thuộc một trong
các trường hợp sau đây, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án căn cứ vào quy
định tương ứng tại các điểm 3, 5 và 6 Điều 31 Pháp lệnh để trả lại đơn kiện:
a. Người khởi kiện chưa khiếu nại với người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại lần đầu;
b. Người khởi kiện đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần đầu, nhưng chưa hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu
và cũng chưa có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu;
c. Chưa có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu đối với
khiếu nại quyết định kỷ luật buộc thôi việc;
d. Đã khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
tiếp theo và đã có quyết định giải quyết khiếu nại của người đó.
3. Quyết định hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu
Toà án giải quyết vụ án hành chính
Quyết định hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu Toà
án giải quyết vụ án hành chính phải là quyết định hành chính lần đầu. Ngoài
những quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành lần đầu trong khi giải quyết,
xử lý những việc cụ thể thuộc thẩm quyền của mình, thì những quyết định hành
chính sau đây cũng được coi là quyết định hành chính lần đầu:
a. Sau khi ban hành quyết định hành chính nhưng chưa có
khiếu nại, cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước đã ban hành quyết định hành chính đó ban hành một quyết
định hành chính khác thay thế quyết định hành chính trước, thì quyết định mới
được ban hành này là quyết định hành chính lần đầu;
b. Sau khi ban hành quyết định hành chính nhưng chưa có
khiếu nại, cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước đã ban hành quyết định hành chính đó ban hành một quyết
định hành chính khác sửa đổi, bổ sung một số điểm của quyết định hành chính
trước, thì phần của quyết định hành chính trước không bị sửa đổi, huỷ bỏ và
quyết định sửa đổi, bổ sung một số điểm của quyết định hành chính trước đều là
quyết định hành chính lần đầu;
Cần lưu ý là đối với hai trường hợp a và b trên đây nếu các
quyết định sau được ban hành sau khi cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước đã nhận được đơn khiếu nại và các
quyết định đó là kết quả giải quyết khiếu nại, thì các quyết định sau là quyết
định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không phải là quyết định hành chính lần
đầu;
c. Sau khi người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp
theo hoặc Toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính ra quyết
định huỷ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính bị khiếu nại hoặc bị khởi
kiện; giao cho cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước giải quyết lại vụ việc đối với phần hoặc toàn bộ quyết
định hành chính đã bị huỷ và kết quả giải quyết lại là cơ quan hành chính nhà
nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước đã ra quyết
định hành chính mới, thì quyết định mới này là quyết định hành chính lần đầu;
d. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo ngoài
việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính bị khiếu nại, còn quyết
định về một hoặc một số vấn đề hoàn toàn mới chưa có trong quyết định bị khiếu
nại, thì phần quyết định về một hoặc một số vấn đề hoàn toàn mới này là quyết
định hành chính lần đầu.
Ví dụ: Khi xử lý
vi phạm hành chính, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính 400.000 đồng. Người bị xử phạt khiếu nại lần đầu và Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cấp xã giữ nguyên quyết định xử phạt vi phạm hành chính đó. Người
bị xử phạt khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo là
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Kết quả giải quyết khiếu nại tiếp theo là
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ngoài việc quyết định giữ nguyên quyết định
xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, còn quyết định
tịch thu phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính. Trong trường hợp này
quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện tịch thu phương tiện được sử
dụng để vi phạm hành chính là quyết định hành chính lần đầu.
đ. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo ra
quyết định huỷ quyết định hành chính do cơ quan hoặc người ra quyết định đó
không có thẩm quyền. Người có thẩm quyền ra quyết định hành chính mới giải
quyết vụ việc đó, thì quyết định mới này là quyết định hành chính lần đầu.
Ví dụ: Khi xử lý
vi phạm hành chính, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính 10 triệu đồng và tịch thu phương tiện được sử dụng để vi phạm
hành chính có giá trị 5 triệu đồng. Người bị xử phạt khiếu nại lần đầu và Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã giữ nguyên quyết định xử phạt vi phạm hành chính
đó. Người bị xử phạt khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
tiếp theo là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Kết quả giải quyết khiếu nại
tiếp theo là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định huỷ bỏ quyết định xử
phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã vì vi phạm thẩm
quyền xử lý vi phạm hành chính quy định tại Điều 28 Pháp lệnh Xử lý vi phạm
hành chính. Căn cứ vào Điều 29 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cấp huyện ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới (có thể về
nội dung cơ bản giống như nội dung quyết định xử phạt vi phạm hành chính của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã). Trong trường hợp này quyết định xử phạt vi
phạm hành chính của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện là quyết định hành chính
lần đầu.
4. Hành vi hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu Toà
án giải quyết vụ án hành chính
Theo quy định tại điểm 2 Điều 4 và Điều 11 Pháp lệnh thì
hành vi hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án
hành chính bao gồm các hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người
có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ
trong các việc hoặc các lĩnh vực được quy định tại các điểm 2, 3, 5, 6, 7, 8 và
9 Điều 11 Pháp lệnh và trong các việc hoặc các lĩnh vực khác mà pháp luật có
quy định
5. Việc xác định người bị kiện trong vụ án hành chính
Theo quy định tại điểm 6 Điều 4 Pháp lệnh thì người bị kiện
là cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện; do đó, để xác định đúng
người bị kiện khi nào là cá nhân, khi nào là cơ quan nhà nước, tổ chức thì phải
căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ việc đó.
Ví dụ: Có hai
quyết định hành chính bị khiếu kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính
và đều do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ký (một quyết định về xử phạt vi
phạm hành chính và một quyết định thu hồi đất của hộ gia đình). Căn cứ vào quy
định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết các vụ việc này thì người bị kiện
trong vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính là
cá nhân Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện (Điều 29 Pháp lệnh Xử lý vi phạm
hành chính), còn người bị kiện trong vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định
thu hồi đất của hộ gia đình là Uỷ ban nhân dân cấp huyện (Điều 24 và Điều 26
Luật Đất đai).
Cần chú ý là người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nước quy định tại Điều 4 Pháp lệnh là người có chức vụ, chức danh cụ thể và
theo quy định của pháp luật thì người có chức vụ, chức danh đó mới có thẩm
quyền ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính. Mặc dù một quyết
định hành chính hoặc một hành vi hành chính do một người cụ thể (ông Nguyễn Văn
A, bà Trần Thị X...) ký hoặc thực hiện nhưng việc người đó ký quyết định hành
chính hoặc thực hiện hành vi hành chính đó phải dưới danh nghĩa một chức vụ,
chức danh có thẩm quyền (ví dụ: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện..., Trưởng Công
an phường...); do đó, chỉ có thể gọi quyết định hành chính đó, hành vi hành
chính đó của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện..., của Trưởng Công an phường...;
mà không thể gọi quyết định hành chính đó, hành vi hành chính đó của một người
cụ thể (ông Nguyễn Văn A, bà Trần Thị X...). Vì vậy, trong trường hợp người ra
quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính đã chuyển công tác đi nơi khác
hoặc về hưu... mà quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó bị khiếu
kiện, thì người được bầu, được cử, được bổ nhiệm... thay chức vụ, chức danh của
người đó phải kế thừa quyền và nghĩa vụ, có nghĩa họ chính là người bị kiện.
6. Việc giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong vụ
án hành chính
Theo quy định tại Điều 3 (đoạn 1) Pháp lệnh thì người khởi
kiện vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại. Thiệt
hại trong trường hợp này là thiệt hại thực tế do có quyết định hành chính,
quyết định kỷ luật buộc thôi việc hoặc hành vi hành chính gây ra. Nếu người
khởi kiện vụ án hành chính có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại thì có nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ. Trong trường hợp cần thiết Toà án có thể thu thập thêm chứng
cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác. Trong trường hợp người
khởi kiện vụ án hành chính có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại chưa có thể cung
cấp chứng cứ được, thì tách phần giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại để
giải quyết sau trong một vụ án dân sự khác theo thủ tục chung khi đương sự có
yêu cầu.
Ví dụ: Một người
khiếu kiện yêu cầu Toà án giải quyết huỷ bỏ quyết định hành chính tịch thu
phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính, đồng thời yêu cầu đòi bồi
thường thiệt hại do một số bộ phận của phương tiện đó bị mất, bị hư hỏng hoặc
thu nhập thực tế bị mất do phương tiện đang bị giữ. Nếu Toà án xét thấy quyết
định tịch thu phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là trái pháp luật
và xét thấy yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của người khiếu kiện là có căn cứ
(do người khiếu kiện cung cấp đấy đủ chứng cứ, có người làm chứng....), thì Toà
án quyết định huỷ quyết định hành chính đó, đồng thời quyết định về việc bồi
thường thiệt hại; nếu người khiếu kiện chưa chứng minh được phương tiện đó bị
mất, bị hư hỏng những bộ phận nào, thu nhập thực tế bị mất là những khoản nào,
thì Toà án chỉ quyết định huỷ quyết định hành chính đó và dành phần giải quyết
yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại để giải quyết trong một vụ án dân sự khác theo
thủ tục chung khi đương sự có yêu cầu.
7. Việc giải quyết trong trường hợp người bị kiện sửa đổi
hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu
kiện.
Theo quy định tại Điều 3 (đoạn 4) và Điều 20 Pháp lệnh thì
trong quá trình giải quyết vụ án hành chính người bị kiện có quyền sửa đổi hoặc
huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện;
do đó, trong quá trình giải quyết vụ án hành chính mà người bị kiện có quyết
định sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi
việc bị khiếu kiện thì Toà án cần thông báo cho người khởi kiện biết và cần
phân biệt:
a. Nếu người khởi kiện đồng ý với quyết định sửa đổi hoặc
huỷ bỏ đó và rút đơn kiện, thì Toà án căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 41 Pháp
lệnh ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án;
b. Nếu người khởi kiện không đồng ý với quyết định sửa đổi
hoặc huỷ bỏ đó và không rút đơn kiện, thì Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo
thủ tục chung. Trong trường hợp này Toà án phải xem xét tính hợp pháp của quyết
định bị khiếu kiện và quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định bị khiếu kiện
để tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà có quyết định đúng pháp luật.
8. Về khái niệm "công trình, vật kiến trúc kiên cố
khác" quy định tại điểm 2 Điều 11 Pháp lệnh
a. "Công trình" phải là vật chắc chắn, bền vững mà
việc xây dựng nó công phu, phải có khoa học, kỹ thuật hoặc nghệ thuật. Ví dụ:
một bức tượng đài; một hệ thống phục vụ nuôi trồng thuỷ sản...
b. "Vật kiến trúc kiên cố khác" là ngoài nhà ở,
công trình thì vật kiến trúc kiên cố khác phải 1à vật được xây dựng chắc chắn
và bền vững có giá trị sử dụng lâu dài.
Ví dụ: giếng nước, nhà để ôtô, nhà thờ, tường xây làm hàng
rào gắn với nhà ở, nhà xưởng, kho tàng...
c. Không phân biệt giá trị nhà ở, công trình, vật kiến trúc
kiên cố khác từ bao nhiêu trở lên, nếu có khiếu kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ Toà án mới thụ lý
giải quyết, mà chỉ cần xác định đúng đó là nhà ở, công trình, vật kiến trúc
kiên cố khác thì Toà án phải thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.
9. Về quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh
vực quản lý đất đai
Quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực
quản lý đất đai quy định tại điểm 5 Điều 11 Pháp lệnh bao gồm các quyết định
hành chính, hành vi hành chính quy định tại điểm 1 và 2 Điều 4 Pháp lệnh trong
việc thực hiện nội dung quản lý đất đai quy định tại Điều 13 và các điều luật
tương ứng khác của Luật Đất đai.
Quyết định của Uỷ ban nhân dân giải quyết tranh chấp đất đai
là quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai và đương sự có quyền
khởi kiện vụ án hành chính theo thủ tục chung.
10. Về quy định tại điểm 7 Điều 11 Pháp lệnh
Khi thi hành quy định tại điểm 7 Điều 11 Pháp lệnh cần chú ý
là Toà án chỉ có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính đối với khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng mua,
tịch thu tài sản được ban hành hoặc thực hiện sau ngày 02/10/1991 (ngày Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng nay là Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
297/CT).
11. Về quy định tại điểm 10 Điều 11 Pháp lệnh
Quy định tại điểm 10 Điều 11 Pháp lệnh cần được hiểu là
ngoài các vụ án hành chính quy định tại các điểm từ điểm 1 đến điểm 9 Điều 11
Pháp lệnh, nếu trong một văn bản quy phạm pháp luật nào đó có quy định việc
khiếu kiện để yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật về thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính đối với loại quyết định hành chính, hành vi
hành chính nào đó, thì khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính đó là vụ án hành chính quy định tại điểm 10 Điều 11 Pháp lệnh và thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án theo thủ tục chung. Vì vậy, khi có khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính mà không thuộc một trong các trường
hợp quy định tại các điểm từ điểm 1 đến điểm 9 Điều 11 Pháp lệnh, thì Toà án cần kiểm tra xem đã có văn bản quy phạm pháp
luật nào về lĩnh vực đó quy định quyền khiếu kiện quyết định hành chính, hành
vi hành chính đó theo quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính hay không. Nếu có văn bản quy phạm pháp luật quy định thì Toà án căn
cứ vào điểm 10 Điều 11 Pháp lệnh và quy định tương ứng của văn bản quy phạm
pháp luật đó để thụ lý giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục chung; nếu chưa
có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định thì Toà án căn cứ vào điểm 1 Điều 31
Pháp lệnh trả lại đơn kiện cho người khởi kiện.
Theo quy định của một số văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành đã tổng hợp được thì các khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính sau đây thuộc trường hợp quy định tại điểm 10 Điều 11 Pháp lệnh và là vụ
án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo thủ tục chung:
a. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên
quan đến việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp (trong việc cấp văn bằng bảo hộ,
trong việc đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá theo Thoả ước Madrid, trong việc
công nhận nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng) hoặc trong việc cấp li xăng không tự
nguyện (Điều 27 và khoản 5 Điều 51 Nghị
định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công
nghiệp và đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 06/2001/NĐ-CP ngày
01/02/2001 của Chính phủ);
b. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
trong việc cấp giấy chứng nhận bản quyền tác giả (khoản 3, khoản 4 Điều 26 và
Điều 33 Nghị định số 76/CP ngày 29/11/1996 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một
số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự);
c. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
trong việc phê duyệt Hợp đồng chuyển giao công nghệ (Điều 36 Nghị định số
45/1998/NĐ-CP ngày 01/07/ 1998 của Chính phủ quy định chi tiết về chuyển giao
công nghệ);
d. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đối
với việc từ chối công chứng, chứng thực không đúng với quy định của pháp luật
(Điều 69 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công
chứng, chứng thực);
đ. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi vi phạm pháp
luật về hành chính của cơ quan hải quan, công chức hải quan theo quy định của
pháp luật (khoản 3 Điều 54 Nghị định số 101/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hải quan về thủ tục
hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan);
e. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân tỉnh đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ nhiệm hoặc
Chủ tịch Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư đối với quyết định của
Ban chủ nhiệm hoặc của Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư (khoản 2
Điều 41 Pháp lệnh Luật sư);
g. Khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và
bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính (Điều 119 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành
chính).
12. Việc xác định thẩm quyền của Toà án và người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo
Để thi hành đúng quy định tại khoản 1 Điều 13 Pháp lệnh về
thẩm quyền, trước hết cần xem xét quyết định hành chính, hành vi hành chính đó
liên quan đến một người hay nhiều người (từ hai người trở lên). Tuỳ từng trường
hợp cụ thể mà việc xác định thẩm quyền giải quyết của Toà án hay của người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo được thực hiện như sau:
a. Nếu quyết định hành chính, hành vi hành chính đó chỉ có
liên quan đến một người mà người đó vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án
có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp
theo và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo chưa có quyết định
giải quyết khiếu nại, thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án. Toà án
thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung, đồng thời thông báo cho người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo biết và yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ giải
quyết khiếu nại cho Toà án (nếu có). Nếu đến trước thời điểm Toà án thụ lý vụ
án đã có quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại tiếp theo, thì Toà án căn cứ vào điểm 6 Điều 31 Pháp lệnh trả lại đơn kiện cho người khởi kiện.
b. Nếu quyết định hành chính, hành vi hành chính đó có liên
quan đến nhiều người mà tất cả những
người đó đều khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, ngoài ra có
người hoặc tất cả những người đó vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại tiếp theo và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo
chưa có quyết định giải quyết khiếu nại, thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền
của Toà án và được thực hiện như trường hợp được hướng dẫn tại điểm a mục 12
này.
c. Nếu quyết định hành chính, hành vi hành chính đó có liên
quan đến nhiều người mà chỉ có một hoặc một số người khởi kiện vụ án hành chính
tại Toà án có thẩm quyền, thì Toà án cần phân biệt như sau:
- Trong trường hợp chỉ có một hoặc một số người khởi kiện vụ
án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, những người khác còn lại không khởi
kiện vụ án hành chính và cũng không khiếu nại đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại tiếp theo thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án. Toà
án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
- Trong trường hợp chỉ có một hoặc một số người khởi kiện vụ
án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, những người khác còn lại tuy không khởi
kiện vụ án hành chính, nhưng lại khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại tiếp theo thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Nếu Toà án chưa thụ lý vụ án thì Toà án
căn cứ vào điểm 6 Điều 31 Pháp lệnh
trả lại đơn kiện cho người khởi kiện; nếu Toà án đã thụ lý vụ án thì Toà án căn
cứ vào điểm g khoản 1 Điều 41 Pháp lệnh ra quyết định đình chỉ việc giải quyết
vụ án hành chính và chuyển hồ sơ vụ án cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại tiếp theo.
13. Việc giải quyết trường hợp Toà án đã thụ lý giải quyết
vụ án hành chính sai (do đây là vụ án khác hoặc thuộc thẩm quyền giải quyết của
Toà án khác)
Trong trường hợp Toà án đã thụ lý giải quyết vụ án hành
chính sai (do đây là vụ án khác hoặc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
khác) thì tuỳ trường hợp mà giải quyết như sau:
a. Nếu trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo
trình tự sơ thẩm mà phát hiện việc giải quyết vụ án này là thuộc thẩm quyền của
mình, nhưng đây không phải là vụ án hành chính mà là vụ án khác (dân sự, kinh
tế, lao động) thì Toà án giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung do pháp luật
tố tụng quy định đối với việc giải quyết vụ án đó, đồng thời thông báo cho các
đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp biết;
b. Nếu trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo
trình tự sơ thẩm mà phát hiện việc giải quyết vụ án này là thuộc thẩm quyền của
Toà án khác, thì Toà án đã thụ lý vụ án căn cứ vào khoản 2 Điều 13 Pháp lệnh
xoá sổ thụ lý, chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền, đổng thời thông báo
cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp biết;
c. Nếu khi xét xử phúc thẩm vụ án hành chính mà phát hiện vụ
án thuộc trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a và b mục 13 này, thì Toà án
cấp phúc thẩm căn cứ vào điểm c Điều 64 Pháp lệnh huỷ bản án, quyết định sơ
thẩm do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và giao hồ sơ vụ án cho Toà án
có thẩm quyền xét xử sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại vụ án theo thủ tục chung
do pháp luật tố tụng quy định đối với việc giải quyết vụ án đó;
d. Nếu khi xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án hành
chính mà phát hiện vụ án thuộc trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a và b
mục 13 này, thì Toà án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm căn cứ vào điểm 3 Điều
72 Pháp lệnh huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật do vi phạm nghiêm
trọng về thủ tục tố tụng và giao hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm để giải quyết sơ thẩm lại vụ án theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng
quy định đối với việc giải quyết vụ án đó.
14. Việc xác định thời điểm để tính thời hạn khởi kiện
Khi thi hành khoản 1 Điều 30 Pháp lệnh cần chú ý là trong
trường hợp người khởi kiện vụ án hành chính do không đồng ý với quyết định giải
quyết khiếu nại lần đâu thì chỉ cần người khởi kiện làm đơn yêu cầu Toà án giải
quyết vụ án hành chính trong thời hạn 30 ngày (đối với vùng sâu, vùng xa, vùng
đi lại khó khăn thì trong thời hạn 45 ngày), kể từ ngày nhận được quyết định
giải quyết khiếu nại lần đầu mà không phụ thuộc vào quyết định giải quyết khiếu
nại lần đầu được ban hành vào thời điểm nào.
15. Về việc Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà
Khoản 3 Điều 43 và Điều 63 Pháp lệnh quy định Viện kiểm sát
phải tham gia phiên toà hoặc phải có ý kiến bằng văn bản đối với một số loại vụ
án hành chính cụ thể, nay theo quy định tại điểm 3 Điều 21 Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân thì khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, Viện kiểm
sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn: "Tham gia các phiên toà và phát biểu
quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án"; do đó, từ
nay trở đi sau khi thụ lý vụ án hành chính, Toà án phải thông báo cho Viện kiểm
sát cùng cấp biết và yêu cầu Viện kiểm sát cùng cấp cử Kiểm sát viên tham gia
phiên toà. Nếu vắng mặt Kiểm sát viên, thì Toà án phải hoãn phiên toà.
16. Về các quyết
định của Toà án trong bản án hành chính sơ thẩm Khoản 2 Điều 49 Pháp lệnh quy
định các nội đung chính của bản án.
Tuy nhiên điểm e khoản 2 này chỉ quy định là "các quyết
định của Toà án" mà không quy định cụ thể là những quyết định nào. Khi xét
xử vụ án hành chính tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà Toà án có thể có một hoặc
một số quyết định sau đây:
a. Bác yêu cầu của người khởi kiện, nếu yêu cầu đó không có
căn cứ pháp luật;
b. Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của người khởi
kiện tuyên huỷ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính trái pháp luật; buộc
cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nước thực hiện trách nhiệm công vụ theo quy định của pháp luật;
c. Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của người khởi
kiện tuyên bố một số hoặc toàn bộ các hành vi hành chính trái pháp luật; buộc
cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nước chấm dứt hành vi hành chính trái pháp luật;
d. Buộc cơ quan hành chính nhà nước bồi thường thiệt hại,
khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do
quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật gây ra;
đ. Chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện tuyên huỷ quyết
định kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật; buộc người đứng đầu cơ quan, tổ
chức thực hiện trách nhiệm công vụ theo quy định của pháp luật; buộc bồi thường
thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân do quyết định kỷ luật
buộc thôi việc trái pháp luật gây ra.
17. Việc đình chỉ giải quyết vụ án hành chính ở giai đoạn
phúc thẩm
Theo quy định tại Điều 62 Pháp lệnh thì trước khi xét xử
phúc thẩm, Toà án có quyền đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định của
Pháp lệnh này. Đồng thời theo quy
định tại điểm đ khoản 2 Điều 64 Pháp lệnh thì Toà án cấp phúc thẩm có quyền:
"Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có
một trong các trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh này"; do đó,
để bảo đảm thống nhất thì trước khi mở phiên toà phúc thẩm nếu có một trong các
trường hợp quy định tại Điều 41 Pháp lệnh, thì Toà án cấp phúc thẩm cũng phải thành
lập Hội đồng xét xử, nếu kết quả xét xử cho thấy đúng có một trong các trường
hợp quy định tại Điều 41 Pháp lệnh thì Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án hoặc
quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án. Cần chú ý là nếu huỷ bản
án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án, thì Toà án cấp phúc thẩm ra bản
án phúc thẩm; nếu huỷ quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án, thì
Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định phúc thẩm.
18. Về hiệu lực thi hành của Nghị quyết
a. Nghị quyết này được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao thông qua ngày 18 tháng 4 năm 2003 và có hiệu lực thi hành sau mười lăm
ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Những hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao được ban hành
trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực về các vấn đề được hướng dẫn trong Nghị
quyết này đều bãi bỏ.
b. Đối với những vụ án hành chính mà Toà án đã thụ lý nhưng
chưa xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm hoặc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm thì
áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết này để giải quyết.
c. Đối với các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành thì không áp dụng
hướng dẫn tại Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm, trừ trường hợp có những căn cứ kháng nghị khác.