Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Công văn 3441/BTP-CCHC của Bộ Tư pháp về báo cáo tổng kết cải cách hành chính Bộ Tư pháp giai đoạn I
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
- Báo lỗi
- Gửi liên kết tới Email
- In tài liệu
- Chia sẻ:
- Chế độ xem: Sáng | Tối
- Thay đổi cỡ chữ:17
- Chú thích màu chỉ dẫn
thuộc tính Công văn 3441/BTP-CCHC
Cơ quan ban hành: | Bộ Tư pháp | Số công báo: | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 3441/BTP-CCHC | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Công văn | Người ký: | Uông Chu Lưu |
Ngày ban hành: | 11/11/2005 | Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Tư pháp-Hộ tịch |
tải Công văn 3441/BTP-CCHC
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
BỘ TƯ PHÁP | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 3441/BTP-CCHC | Hà Nội, ngày 11 tháng 11 năm 2005 |
Kính gửi | - Ban chỉ đạo cải cách hành chính của chính phủ |
Thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính (CCHC) của Chính phủ về việc tiến hành tổng kết giai đoạn I CCHC (2001-2005) và xây dựng Kế hoạch CCHC giai đoạn II ( 2006-2010), Bộ Tư pháp đã tổ chức các hoạt động nhằm phục vụ việc tổng kết CCHC giai đoạn I của Bộ (như tổ chức khảo sát làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng CCHC của Bộ, xây dựng báo cáo Tổng kết).
Bộ Tư pháp xin gửi Ban Chỉ đạo CCHC của Chính Phủ bản "Báo cáo tổng kết giai đoạn I cải cách hành chính của Bộ Tư Pháp ( 2001-2005) và phương hướng cải cách hành chính giai đoạn II của Bộ ( 2006-2010)" để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính Phủ.
Xin gửi kèm theo Báo cáo này các Phụ lục có liên quan (số 01 và 02).
.
| BỘ TRƯỞNG |
BỘ TƯ PHÁP
| CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lâp- Tự do- Hạnh phúc
|
BÁO CÁO TỔNG KẾT GIAI ĐOẠN I HOẠT ĐỘNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA BỘ TƯ PHÁP (2001-2005) VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA BỘ GIAI ĐOẠN II (2006-2010)
(Kèm theo Công văn số 3441/BTP- CCHC ngày 11 tháng 11 năm 2005)
Thực hiện Chỉ thị số 09/2005/CT-TTg ngày 05 tháng 4 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ và trên cơ sở hướng dẫn của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính (CCHC) của Chính phủ (Công văn số 01/BCĐCCHC ngày 06 tháng 5 năm 2005), Bộ Tư pháp báo cáo Tổng kết giai đoạn I CCHC (2001-2005) và xác định phương hướng CCHC giai đoạn II của Bộ (2006-2010) như sau:
PHẦN I
BÁO CÁO TỔNG KẾT GIAI ĐOẠN I CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA BỘ TƯ PHÁP
I. VỀ CẢI CÁCH THỂ CHẾ
1. Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật (sau đây tạm gọi tắt là Chương trình 909)
Là một trong 07 Chương trình hành động cải cách hành chính ở cấp quốc gia, được Chính phủ giao cho Bộ Tư pháp chủ trì nhằm triển khai Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010.
1.1 Về tổ chức, triển khai thực hiện và kết quả chính:
Chương trình 909 đã được tổ chức triển khai thực hiện khẩn trương, nghiêm túc, đúng mục tiêu, về cơ bản đảm yêu cầu tiến độ và chất lượng đã được xác định trong Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Thực hiện nhiệm vụ được giao, ngay trong năm 2003 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã thành lập Ban chỉ đạo Chương trình, xây dựng và ban hành các văn bản chỉ đạo và phê duyệt kế hoạch triển khai cụ thể các Đề án của Chương trình, phê duyệt Kế hoạch triển khai các Đề án của Chương trình (Chương trình gồm 05 Đề án lớn và 21 Tiểu Đề án).
Trên cơ sở Kế hoạch triển khai đã được phê duyệt, Bộ Tư pháp đã ký hợp đồng thực hiện các đề án giữa Ban Chỉ đạo với Chủ nhiệm các Đề án thuộc Chương trình. Định kỳ hàng tháng, Ban Chỉ đạo, Ban Chủ nhiệm các Đề án của Chương trình tổ chức các buổi làm việc với Ban chủ nhiệm của từng đề án thuộc Chương trình để nắm tình hình và đôn đốc triển khai nhằm đảm bảo yêu cầu, nội dung và kế hoạch đã đề ra.
Trong quá trình triển khai, các Đề án đã tổ chức nhiều hoạt động nghiên cứu, điều tra, khảo sát về thực trạng quy định của pháp luật cũng như việc tổ chức thực hiện pháp luật để từ đó đánh giá các mặt mạnh, mặt yếu, các hạn chế, tồn tại trong hoạt động xây dựng và ban hành VBQPPL ở cả trung ương và địa phương; tìm ra các nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại và đề xuất các giải pháp, biện pháp cụ thể nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác xây dựng VBQPPL. Mặt khác, Chương trình đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn (ở cả trung ương và địa phương) về các báo cáo đánh giá cũng như các đề xuất, kiến nghị; đồng thời tổ chức lấy ý kiến góp ý vào các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật là kết quả của chương trình.
Đến nay, có thể tổng kết bước đầu kết quả triển khai Chương trình với những kết quả cơ bản như sau:
i) Xây dựng và hoàn thiện 16 Báo cáo khoa học trong từng lĩnh vực cụ thể góp phần giải quyết những những khó khăn, vướng mắc về mặt lý luận và thực tiễn làm cơ sở xây dựng dự thảo các đề án, các văn bản quy phạm pháp luật (Danh mục cụ thể đã có trong Báo cáo riêng của Chương trình 909).
ii) Đã nghiên cứu và tổ chức soạn thảo 07 đề án của chương trình và bước đầu triển khai thí điểm một số nội dung cụ thể của các Đề án trong thực tiễn (Danh mục cụ thể đã có trong Báo cáo riêng của Chương trình 909).
Trên cơ sở đề xuất của các Đề án, Ban Chỉ đạo đã lựa chọn một số nội dung cụ thể để triển khai thí điểm các mô hình mới áp dụng vào quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Bộ Tư pháp. Cụ thể: Áp dụng mô hình mới trong việc lập dự kiến chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh dài hạn và hàng năm; Thu hút sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn vào xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; Lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến của người dân, doanh nghiệp và các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của dự thảo văn bản... khi xây dựng dự thảo Bộ Luật Thi hành án, dự thảo Luật về Luật sư, dự thảo Pháp lệnh lý lịch tư pháp và dự thảo Pháp lệnh công chứng...;
iii) Kết quả nghiên cứu của một trong các Đề án thuộc Chương trình (Đề án 3) được sử dụng trực tiếp phục vụ việc xây dựng, hoàn thiện Dự án Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân (Quốc hội thông qua năm 2004) và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này (đang hoàn thiện để trình ban hành);
iv) Đã nghiên cứu và đang soạn thảo nhiều dự thảo văn bản quy phạm pháp luật là kết quả đầu ra của Chương trình để trình cơ quan có thẩm quyền ban hành nhằm nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương.
Gồm 04 Dự thảo Nghị định của Chính phủ và 05 dự thảo Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ (Danh mục cụ thể đã có trong Báo cáo riêng của Chương trình 909).
v) Biên soạn tập tài liệu hướng dẫn triển khai Chương trình 909 và cuốn Cẩm nang công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương nhằm góp phần tuyên truyền về Chương trình cải cách hành chính nói chung và Chương trình 909 nói riêng; tạo thêm công cụ cho các cán bộ, công chức thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình.[1]
vi) Đã tổ chức nhiều đợt tập huấn cho các đối tượng là đại diện của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, cơ quan Tư pháp và cán bộ trực tiếp xây dựng văn bản pháp quy những kiến thức và kỹ năng nhất định về xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật... qua đó nâng cao nhận thức, năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức này góp phần triển khai có hiệu quả nhiệm vụ cải cách hành chính ở địa phương.
vii) Đã trang bị được một số trang thiết bị nhằm tạo công cụ hỗ trợ cho hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành của Ban Chỉ đạo Chương trình 909 và nâng cao năng lực cho các đơn vị trực tiếp triển khai các Đề án thuộc Chương trình 909 (Bộ Tư pháp, Văn Phòng Chính phủ).
Tóm lại: Việc triển khai các nội dung của Chương trình 909 đã tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đưa công tác xây dựng pháp luật vào nề nếp, đảm bảo tính pháp chế, công khai, minh bạch hoá trong quy trình lập pháp, lập quy; tạo cơ chế và điều kiện đẩy nhanh công tác soạn thảo, thẩm định, ban hành văn bản một cách đồng bộ, đồng thời góp phần nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác xây dựng pháp luật. Với một hệ thống kết quả đầu ra tương đối đồ sộ và toàn diện, Chương trình 909 sẽ góp phần hình thành một quy trình đồng bộ với thủ tục, trình tự soạn thảo, ban hành văn bản QPPL khoa học, hợp lý, dân chủ, hiệu quả, tác động tích cực đến việc phát triển nhanh về kinh tế, xã hội, về cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở nước ta trên cơ sở các Luật ban hành văn bản quy phạm hiện hành; mặt khác, hệ thống các nghiên cứu, kiến nghị của Chương trình là cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đổi mới toàn diện tư duy lập pháp trong giai đoạn tới, mà kết quả là việc ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thống nhất (trong giai đoạn 2006 - 2010).
1.2. Bài học kinh nghiệm
Qua 2 năm triển khai Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp rút ra một số bài học cụ thể như sau:
i) Cần có sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ và nhất là cần có sự quyết tâm và chỉ đạo quyết liệt ở cấp Lãnh đạo cao nhất của các Bộ, ngành chủ trì thực hiện chương trình. Đây là yếu tố quan trọng nhất để công tác cải cách hành chính thành công;
ii) Kế hoạch triển khai cần phải rõ về mục tiêu, cụ thể về hoạt động và xác định rõ về tiến độ, kết quả đầu ra. Có như vậy mới có cơ sở tiến hành hoạt động chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, đánh giá hiệu qủa các đề án thuộc chương trình. Đồng thời cần tổ chức tốt đơn vị làm nhiệm vụ thường trực cho Ban Chỉ đạo để trực tiếp, thường xuyên đôn đốc, tổng hợp tình hình.
iii) Cần đưa các nội dung, kế hoạch hoạt động của Chương trình thành các nhiệm vụ trọng tâm hàng năm của Bộ, ngành và coi các kết quả đầu ra của Chương trình thành chỉ tiêu hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị.
iv) Để hoạt động của các chương trình đạt kết quả thì cơ chế phối hợp đồng bộ, có hiệu qủa giữa các cơ quan bộ, ngành và ngay trong chính các đơn vị là yêu cầu then chốt và cấp bách...
2. Cải cách thể chế trong phạm vi lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp
2.1 Hệ thống các thể chế đã được xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền
Trong giai đoạn 2001- 2005, Bộ Tư pháp được giao chủ trì xây dựng nhiều dự án luật, pháp lệnh, như: Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (2002); Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân(2004); Bộ Luật dân sự (2005); Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (2002), Pháp lệnh thi hành án dân sự (2004); Pháp lệnh giám định tư pháp( 2004) … cùng nhiều dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) quan trọng trình Chính phủ ban hành trong nhiều lĩnh vực khác nhau thuộc phạm vi được giao. Bên cạnh đó, Bộ đã ban hành khá nhiều văn bản QPPL thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của Bộ. Theo thống kê ban đầu, giai đoạn 2001-2005, không tính các văn bản ở lĩnh vực hình sự thì số văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tư pháp được giao chủ trì soạn thảo trình ban hành và ban hành theo thẩm quyền là 105 văn bản (đã ban hành), tập trung vào lĩnh vực kinh tế và hành chính. Hiện nay Bộ đang được giao chủ trì soạn thảo 09 Dự án Luật (Bộ Luật Thi hành án, Bộ Luật xử lý vi phạm hành chính; Luật Đăng ký bất động sản; Luật về Luật sư; Luật về bồi thường nhà nước, Luật công chứng, Luật về tương trợ tư pháp, Luật về trợ giúp pháp lý, Luật về lý lịch tư pháp), khoảng 15 pháp lệnh và hàng chục dự thảo Nghị định của Chính phủ.
Các yêu cầu về cải cách thể chế đã được thể hiện tương đối rõ nét trong nội dung của hầu hết những dự án/ dự thảo văn bản QPPL do Bộ soạn thảo để trình ban hành hoặc tự ban hành theo thẩm quyền. Cụ thể như sau:
a. Các thể chế kinh tế, dân sự
i) Kịp thời thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng, đồng thời cụ thể hoá Hiến pháp 1992 (sửa đổi), Bộ Tư pháp đã được giao chủ trì xây dựng Dự án Bộ Luật Dân sự (được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005).
Bên cạnh đó, Bộ cũng đang chủ trì soạn thảo Dự án Nghị quyết của Uỷ ban Thường Vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở có yếu tố nước ngoài được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu nhà ở, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, đáp ứng các yêu cầu đặt ra đối với nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991. Nội dung của Dự án thể hiện khá rõ tinh thần cải cách hành chính, các trình tự, thủ tục được xây dựng theo hướng đơn giản, rõ ràng, thuận tiện cho các bên tham gia giao dịch.
b. Các thể chế hành chính:
Việc xây dựng, hoàn thiện các thể chế về hành chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng và được xem là một trong những thế mạnh của Bộ Tư pháp trong 5 năm vừa qua. Trong thời gian từ 2001-2005 Bộ được giao chủ trì soạn thảo một số lượng đáng kể các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo văn bản QPPL cũng như đã ban hành nhiều văn bản QPPL trong lĩnh vực này. Đây cũng là lĩnh vực mà tinh thần cải cách hành chính được thể hiện rõ nét nhất thông qua nội dung của các văn bản đã được ban hành và đang được soạn thảo.
Thứ nhất, các thể chế về quy trình, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản QPPL
Trong giai đoạn 2001- 2005, Bộ được giao chủ trì soạn thảo trình ban hành hai Dự án Luật quan trọng là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản QPPL (Quốc hội thông qua năm 2002), Luật ban hành văn bản QPPL của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (Quốc hội thông qua năm 2004). Đây là hai đạo luật quan trọng nhằm hình thành và hoàn thiện cơ chế soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ ở cả trung ương lẫn địa phương, góp phần đẩy nhanh tiến độ soạn thảo, nâng cao chất lượng các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung của hai đạo luật đã đáp ứng ở mức độ nhất định những yêu cầu của cải cách hành chính nhà nước, đặc biệt là cải cách thể chế thông qua một loạt các quy định theo hướng: đổi mới phương thức, quy trình xây dựng pháp luật từ khâu đầu cho đến khâu Chính phủ xem xét, quyết định hoặc thông qua để trình Quốc hội; tăng cường trách nhiệm, năng lực của các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và địa phương trong việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; tạo cơ chế huy động sự tham gia, lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản trong quá trình soạn thảo dự án, dự thảo văn bản QPPL; tăng cường việc đảm bảo tính công khai, minh bạch của các văn bản QPPL sau khi ban hành,…
Hiện nay, Bộ Tư pháp đang được giao chủ trì soạn thảo để trình ban hành một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật như Nghị định thay thế Nghị định 101; các Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban soạn thảo, Quy chế thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân,…
Thứ hai, thể chế về tổ chức bộ máy nhà nước:
Cùng với việc trình Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp, Bộ Tư pháp đã trình Đề án về tổ chức Pháp chế Bộ, ngành và trình Chính phủ ban hành Nghị định của Chính phủ số 122/2004/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2004 quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức pháp chế ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và doanh nghiệp nhà nước (thay thế Nghị định 94). Để hướng dẫn thi hành các Nghị định số 62 và 122 nói trên, Bộ cũng đã phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành các Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của các cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương; Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 122 (Thông tư liên tịch số 01/2005/ TTLT-BTP- BNV) và ban hành một Thông tư khác tiếp tục hướng dẫn thi hành một số nội dung của Nghị định 122 ( số 07/2005/TT-BTP ngày 31/8/2005). Những văn bản nói trên đã thực sự tạo cơ sở pháp lý cần thiết nhằm kiện toàn tổ chức, tăng cường đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp địa phương; kiện toàn tổ chức bộ máy của các tổ chức pháp chế các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, các thể chế trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính:
Trong giai đoạn 2001-2005, Bộ được giao chủ trì soạn thảo trình ban hành 01 Pháp lệnh và 03 Nghị định về xử lý vi phạm hành chính, trong đó Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (2002) đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống thể chế về xử lý vi phạm hành chính, vì nó được xem là văn bản gốc, hình thành khung pháp lý cho việc ban hành các Nghị định của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực khác nhau của hoạt động quản lý nhà nước.Nhiều quy định trong Pháp lệnh 2002 (cả về thẩm quyền xử lý lẫn trình tự thủ tục xử lý vi phạm) đã có những đổi mới quan trọng so với Pháp lệnh cũ 1995, thể hiện được tinh thần cải cách hành chính nhà nước, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác xử lý vi phạm hành chính, thực sự tạo ra những chuyển biến trong công tác đấu tranh phòng, chống các vi phạm pháp luật hành chính.Ví dụ như Pháp lệnh được quy định theo hướng đẩy mạnh phân cấp cho chính quyền cơ sở về thẩm quyền áp dụng một số biện pháp xử lý hành chính khác; tăng thẩm quyền xử phạt của thanh tra chuyên ngành nhằm tạo ra sự phân định hợp lý về thẩm quyền xử phạt hành chính giữa cơ quan quản lý chung và cơ quan quản lý chuyên ngành; quy định các thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, thủ tục xử lý tang vật vi phạm hành chính theo hướng đơn giản hơn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn cuộc sống,…
Thứ tư, các thể chế trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Bộ Tư pháp đã được giao chủ trì soạn thảo để trình ban hành một số dự án, dự thảo văn bản QPPL mới trong lĩnh vực này như: Pháp lệnh thi hành án dân sự sửa đổi (Pháp lệnh này đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 01 năm 2004). Để hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này, Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo và trình Chính Phủ ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 164/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2004 của Chính phủ về kê biên, đấu giá quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án; Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2004 của Chính phủ quy định về thủ tục cưỡng chế và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự; Nghị định 50/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ quy định về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự và hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành… Đây là các văn bản hết sức quan trọng và bước đầu giải quyết được rất nhiều các vấn đề có liên quan đến cải cách hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Trong đó, đã thể hiện một cách rõ nét nhất sự sửa đổi, bổ sung các quy định về thi hành án dân sự cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, với tiến trình cải cách tư pháp và cải cách hành chính hiện nay. Đặc biệt, các văn bản nói trên đã tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết án tồn đọng là vấn đề nhức nhối, kéo dài trong nhiều năm qua. Nhiều quy trình, thủ tục đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng đơn giản, thuận lợi, hợp lý hơn; nhiều điều khoản được quy định theo hướng nâng cao hiệu quả cơ chế phối hợp giữa Bộ Tư pháp với cơ quan quản lý nhà nước về công tác thi hành án ở địa phương...
Về lâu dài, Bộ Tư pháp đang phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu việc thực hiện thống nhất quản lý công tác thi hành án về một đầu mối theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng để thể hiện trong dự án Bộ Luật Thi hành án.
Thứ năm, các thể chế trong lĩnh vực hành chính tư pháp
i) Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Chỉ thị số 10 của Thủ tướng Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết nêu trên, Bộ Tư pháp đã và đang triển khai xây dựng Dự án Pháp lệnh công chứng và Đề án xã hội hóa hoạt động công chứng. Đây là những vấn đề có tính chất đột phá chiến lược trong lĩnh vực công chứng theo tinh thần cải cách hành chính, cải cách tư pháp của Nhà nước ta. Pháp lệnh công chứng được xây dựng trên tinh thần xem xét, xác định lại bản chất, chức năng, phạm vi của hoạt động công chứng, phân biệt rõ hoạt động công chứng của Phòng công chứng và hoạt động chứng thực của UBND, từ đó nghiên cứu chuyển giao các việc chứng thực bản sao, giấy tờ cho UBND cấp cơ sở; Phòng công chứng tập trung vào hoạt động công chứng hợp đồng, giao dịch.Vừa qua, Chính phủ đã quyết định đề nghị Quốc hội ban hành Luật Công chứng để nâng cao hiệu lực và giá trị pháp lý của văn bản. Bên cạnh đó, Đề án xã hội hóa hoạt động công chứng cũng tập trung nghiên cứu xây dựng mô hình các Phòng công chứng theo hướng xã hội hóa, chuyển các Phòng công chứng sang chế độ tự trang trải về tài chính, giảm bớt biên chế theo hướng tổ chức các Phòng công chứng gọn nhẹ, đồng thời xây dựng lộ trình cho việc hình thành các văn phòng công chứng tự hoạt động theo chế độ, tổ chức hành nghề tự do.
Để bảo đảm tính pháp lý chặt chẽ trong hoạt động công chứng các hợp đồng, giao dịch, góp phần cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng, tạo điều kiện xây dựng bộ mẫu điện tử áp dụng trong tin học hóa công chứng, Bộ Tư pháp đang phối hợp với Bộ tài nguyên và Môi trường tập trung soạn thảo bộ mẫu các hợp đồng, giao dịch về nhà, đất để ban hành thống nhất trong cả nước. Đến nay, dự thảo bộ mẫu hợp đồng đã qua nhiều lần thảo luận, góp ý của các Phòng công chứng và các Bộ, ngành có liên quan và đang được hoàn chỉnh để trình ban hành.
ii) Bộ Tư pháp đã soạn thảo và trình Chính phủ dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 83/1998/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch, Nghị định sửa đổi Nghị định số 68 về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Những nội dung sửa đổi, bổ sung trong dự thảo Nghị định mới đã thể hiện tinh thần kiên quyết cải cách hành chính theo hướng: phân cấp mạnh mẽ cho chính quyền cơ sở, đơn giản hóa, công khai hóa các thủ tục giấy tờ để tạo thuận tiện và khuyến khích người dân đăng ký hộ tịch; quy định rõ trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu các cấp chính quyền địa phương và của cán bộ làm công tác hộ tịch trong việc để xảy ra sai phạm, tiêu cực trong công tác hộ tịch.
Thứ sáu, các thể chế trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp
* Về lĩnh vực quản lý luật sư
Bộ Tư pháp đã được giao chủ trì xây dựng Dự án Pháp lệnh luật sư (Uỷ ban Thường Vụ Quốc hội thông qua 25/7/2001), thay thế Pháp lệnh Luật sư năm 1987. Sự ra đời của Pháp lệnh Luật sư 2001 là một bước tiến quan trọng trong quá trình đổi mới và hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý luật sư và hành nghề luật sư ở nước ta.
Trong 4 năm thi hành Pháp lệnh luật sư năm 2001, Bộ đã chủ trì soạn thảo trình Chính phủ ban hành hai Nghị định quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh và ban hành 03 Thông tư hướng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh, Nghị định nói trên. Các văn bản trên đã tác động tích cực trong việc củng cố tổ chức và hoạt động của các đoàn luật sư, các luật sư theo pháp lệnh mới, khắc phục được những hạn chế của Pháp lệnh luật sư năm 1987 như trong trường hợp luật sư tham gia tiến hành tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, thủ tục tham gia tố tụng của luật sư, chế độ thù lao và chi phí cho luật sư, chế độ nộp thuế đối với luật sư v.v….
*/ Về lĩnh vực quản lý hành nghề của luật sư nước ngoài tại Việt Nam
Trong lĩnh vực này, Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 87/2003/NĐ-CP và ban hành Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định 87 (số 06/2003/TT-BTP). So với quy định trước đó, những văn bản này đã có những quy định khá đầy đủ và rõ ràng về trình tự, thủ tục, đồng thời ban hành kèm theo nhiều biểu mẫu chi tiết, vì vậy đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các tổ chức luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài trong hoạt động hành nghề tại Việt Nam, phục vụ thiết thực cho công tác quản lý của các cơ quan chức năng ở trung ương ,địa phương cũng như đáp ứng yêu cầu về hội nhập.Ví dụ như: Mở rộng hình thức hành nghề cho tổ chức luật sư nước ngoài; mở rộng phạm vi, lĩnh vực tư vấn pháp luật và quyền của tổ chức luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam; giảm bớt một số điều kiện, giấy tờ không cần thiết đối với tổ chức luật sư nước ngoài khi nộp hồ sơ xin cấp phép,…
Hiện nay, Bộ Tư pháp đang được giao chủ trì soạn thảo Dự án Luật về Luật sư, điều chỉnh tổ chức và hoạt động của Luật sư Việt nam và Luật sư nước n goài tại Việt Nam trong điều kiện cải cách tư pháp và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
*/ Về lĩnh vực trọng tài thương mại
Nghị định số 25/2003/NĐ-CP ngày 15 tháng 1 năm 2004 (do Bộ Tư pháp được phân công chủ trì soạn thảo, trình ban hành) đã có những quy định mới nhằm giảm bớt điều kiện, thủ tục hành chính trong lĩnh vực này, như: Bỏ quy định về cấp thẻ trọng tài viên trước đây; giảm bớt điều kiện nhằm mở rộng đối tượng được trở thành trọng tài viên; Thống nhất một đầu mối cấp phép thành lập và quản lý hoạt động của Trung tâm Trọng tài thuộc thẩm quyền của Bộ Tư pháp (trước đây là do UBND cấp tỉnh cấp Giấy phép thành lập, Bộ Tư pháp theo dõi, quản lý),...
Bộ cũng đã kịp thời ban hành các biểu mẫu Giấy phép thành lập trung tâm Trọng tài, Giấy đăng ký hoạt động của Trung tâm Trọng tài giúp cho các Sở Tư pháp địa phương thực hiện nhanh chóng thủ tục đăng ký hoạt động của Trung tâm trọng tài.
*/ Về bán đấu giá tài sản:
Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2005 thay thế Nghị định số 86/CP của Chính phủ về bán đấu giá tài sản.
Nghị định số 05/2005NĐ-CP đã đẩy mạnh và xã hội hoá một bước quan trọng hoạt động bán đấu giá tài sản, khuyến khích, tạo điều kiện thu hút các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đủ điều kiện tham gia lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Đây là điểm khác biệt và tiến bộ hơn hẳn Nghị định số 86/CP.Bên cạnh đó, Nghị định số 05/NĐ-CP của Chính phủ đã quán triệt chủ trương cải cách hành chính của nhà nước là bảo đảm bộ máy sắp xếp một cách gọn nhẹ, giảm đến mức tối đa tình trạng có nhiều cơ quan có chức năng bán đấu giá cần tập trung việc bán đấu giá tài sản vào một đầu mối.
Thứ bảy, các thể chế trong các lĩnh vực khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ
i) Về lĩnh vực đăng ký bất động sản:
Trong giai đoạn từ 2002 đến 2005, Bộ được giao chủ trì xây dựng Pháp lệnh đăng ký giao dịch bảo đảm (dự kiến trình Chính phủ vào cuối 2005) và Luật Đăng ký bất động sản (dự kiến trình Quốc hội vào kỳ họp thứ 9, 2006). Đây là hai dự thảo văn bản quan trọng góp phần vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng và hoàn thiện thiết chế đăng ký và công bố công khai các quyền về tài sản, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với bất động sản và thị trường bất động sản,công khai, minh bạch hoá các thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản, góp phần hạn chế những rủi ro và tranh chấp cho các chủ thể khi xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế,…
Trên cơ sở tiếp thu các ý kiến nhân dân, ý kiến của các nhà khoa học, các chuyên gia,… trong quá trình soạn thảo, nội dung của hai Dự án nói trên đã được xây dựng theo hướng thể hiện rõ tinh thần cải cách hành chính- một giấy, một cơ quan đăng ký và quản lý. Hiện nay, dự án Luật này đang còn có ý kiến khác nhau về đối tượng điều chỉnh, cơ quan quản lý và các loại bất động sản phải đăng ký.
ii) Về lĩnh vực trợ giúp pháp lý:
Trên cơ sở đẩy mạnh hoạt động rà soát các văn bản QPPL trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, đặc biệt là các quy định về kiện toàn hệ thống bộ máy tổ chức trợ giúp pháp lý; các quy định về trình tự, thủ tục hành chính liên quan trực tiếp đến đối tượng được trợ giúp, để khắc phục những bất cập về thể chế trợ giúp pháp lý, trong những năm từ 2002 đến 2005, Bộ Tư pháp đã ban hành, phối hợp ban hành 07 văn bản QPPL về trợ giúp pháp lý. Hiện nay, Bộ đang khẩn trương hoàn chỉnh việc soạn thảo Dự án Luật trợ giúp pháp lý và Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật này.
Nhìn chung các thể chế về trợ giúp pháp lý đã được ban hành kịp thời, đáp ứng các yêu cầu thực tiễn, quy định tương đối đầy đủ các vấn đề có liên quan như: Bộ máy tổ chức, người thực hiện trợ giúp pháp lý; đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý; trình tự, thủ tục trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, một số trình tự, thủ tục hành chính về trợ giúp pháp lý còn gây phiền hà cho đối tượng trợ giúp pháp lý và mất nhiều thời gian cho cộng tác viên khi thanh toán,…Trong thời gian tới, Bộ sẽ tăng cường rà soát các văn bản trong lĩnh vực này, nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung (hoặc tự sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền) các văn bản pháp luật có liên quan đến trợ giúp pháp lý nói chung và trình tự, thủ tục trợ giúp pháp lý nói riêng để có thể vừa thuận tiện cho người dân, đồng thời đảm bảo sự quản lý của nhà nước trong lĩnh vực này.
Nhận định chung, các văn bản QPPL do Bộ Tư pháp được giao chủ trì soạn thảo để trình Chính phủ, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành hoặc do Bộ chủ động ban hành theo thẩm quyền đều có tác động kinh tế- xã hội tích cực.
Các văn bản có giá trị pháp lý cao được Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua như: Bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị quyết đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, có giá trị định hướng về quan điểm xử lý, phạm vi điều chỉnh, đặc biệt là đã cơ bản tháo gỡ được những ách tắc, vướng mắc lâu nay mà các quy định trước đây chưa có hoặc không có điều kiện giải quyết, đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước.
2.2 Công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật và cải cách thủ tục hành chính:
Để xây dựng và hoàn thiện thể chế trong các lĩnh vực thuộc phạm vi thẩm quyền được giao, công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tư pháp luôn đóng vai trò quan trọng nhằm loại bỏ, sửa đổi, bổ sung những quy định bất hợp lý, không còn phù hợp đòi hỏi với đời sống kinh tế- xã hội trong từng lĩnh vực. Đây là bước không thể thiếu trong quá trình soạn thảo các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do Bộ được giao chủ trì.
Việc đổi mới,đơn giản hoá và hoàn thiện các thủ tục hành chính trong các dự án, dự thảo văn bản QPPL trình ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền của Bộ Tư pháp được thực hiện thông qua hai phương thức chủ yếu là:
- Thông qua hoạt động rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành;
- Thông qua hoạt động điều tra dư luận xã hội về thủ tục hành chính.
Thời gian vừa qua Bộ Tư pháp đã tập trung vào việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật, các thủ tục hành chính trong một số mảng như sau:
a. Đẩy mạnh rà soát văn bản, thủ tục hành chính trong các lĩnh vực công chứng; hộ tịch; thi hành án; bán đấu giá tài sản và trợ giúp pháp lý
Hướng tới việc hình thành một hệ thống thủ tục hành chính đơn giản, gọn nhẹ, thuận tiện cho công dân, tổ chức trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, theo đúng yêu cầu của cải cách hành chính, trong nội dung Kế hoạch CCHC năm 2004 và 2005 của Bộ Tư pháp đã đề ra yêu cầu tập trung vào việc nghiên cứu, rà soát các thủ tục hành chính được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành thuộc 05 lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành như: Công chứng; hộ tịch; thi hành án; bán đấu giá tài sản và trợ giúp pháp lý nhằm sửa đổi, bổ sung (hoặc kiến nghị sửa đổi bổ sung) các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền (hoặc chủ trì xây dựng để trình ban hành) có chứa đựng những thủ tục hành chính rườm rà, bất hợp lý và nhằm kịp thời chấn chỉnh, tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thi hành các thủ tục hành chính trong các lĩnh vực nói trên. Bên cạnh việc tổ chức rà soát các thủ tục hành chính trong các văn bản hiện hành thuộc 05 lĩnh vực nói trên, Bộ còn chú trọng triển khai các hoạt động điều tra dư luận xã hội nhằm đánh giá về các thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực.
Kết quả của việc điều tra dư luận xã hội là:Nhiều ý kiến đóng góp xác đáng của nhân dân, đại diện doanh nghiệp, các cán bộ Tư pháp địa phương và của các cơ quan hữu quan về những bất hợp lý trong các quy định về thủ tục hành chính và những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính được xem là những thông tin hết sức cần thiết nhằm góp phần vào quá trình sửa đổi, bổ sung, xây dựng và hoàn thiện các thủ tục hành chính trong một số văn bản quy phạm pháp luật thuộc năm lĩnh vực Công chứng; hộ tịch; thi hành án; bán đấu giá tài sản và trợ giúp pháp lý[2]
Riêng trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch- là lĩnh vực mà các văn bản QPPL chứa đựng rất nhiều thủ tục hành chính liên quan trực tiếp đến dân, Bộ Tư pháp đã tiến hành điều tra thử đối với đối tượng là cán bộ làm công tác hộ tịch tại một số Sở Tư pháp, UBND cấp huyện, UBND cấp xã tại Hội nghị đóng góp ý kiến vào Dự thảo Nghị định hộ tịch mới.
b. Tăng cường rà soát văn bản QPPL phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế
Thực hiện Nghị quyết số 07/NQ-TW của Bộ Chính trị về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Nghị quyết số 48/2001/QH10 của Quốc hội về phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và thực hiện nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao (tại Quyết định số 35/QĐ-TTg ngày 12/3/2002 và Quyết định số 37/QĐ-TTg ngày 14/3/2002) Bộ Tư pháp đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan tiến hành rà soát, đối chiếu các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam với các Hiệp định của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA). Kết quả rà soát 148 văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trực tiếp, Bộ Tư pháp đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung 24 văn bản (trong đó có 8 luật, 3 pháp lệnh), ban hành mới 39 văn bản (có 8 luật, 11 pháp lệnh), 6 điều ước quốc tế. Kết quả rà soát này đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Riêng năm 2003 Bộ Tư pháp đã rà soát 263 văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến các quy định của WTO, Bộ đã kiến nghị, sửa đổi, bổ sung 52 văn bản (trong đó có 14 luật, 9 pháp lệnh) ban hành mới 42 văn bản (có 14 luật, 6 pháp lệnh).
Bộ Tư pháp cũng đã hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương tiến hành rà soát các văn bản QPPL do địa phương ban hành; tổ chức 2 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ rà soát VBQPPL phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế tại 2 miền cho các Sở Tư pháp. Theo kế hoạch, Quý III/2005 sẽ tiếp tục tổ chức 3 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về rà soát tại 3 miền Bắc, Trung, Nam và phổ biến kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế cho cán Bộ Tư pháp điạ phương.
Thông qua các phương thức rà soát khác nhau nói trên, kết quả là, tính từ năm 2001 đến 2005, theo thống kê sơ bộ, trong số gần năm trăm văn bản QPPL đã được rà soát và có kiến nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hoặc tự sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ có 188 văn bản đề nghị cấp trên sửa đổi, bãi bỏ hoặc ban hành mới (những văn bản từ Nghị định trở lên). Số lượng các thủ tục hành chính qua rà soát là 88 loại thủ tục khác nhau, trong đó có 48 thủ tục đề nghị cấp trên sửa đổi hoặc bãi bỏ (Có Phụ lục 1 kèm theo Báo cáo).
2.3. Đánh giá thực trạng triển khai thực hiện cơ chế “ một cửa’
a. Tình hình triển khai:
Thứ nhất: Lĩnh vực hành chính tư pháp
Thực hiện Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã đưa các hoạt động nghiên cúu triển khai thực hiện cơ chế “ một cửa” trong một số lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ như công chứng, hộ tịch, bán đấu giá tài sản,… vào kế hoạch CCHC của Bộ trong hai năm liên tiếp (2004-2005). Các hoạt động này được triển khai dưới hình thức xây dựng các Đề án, tổ chức hội nghị sơ kết, triển khai thực hiện mô hình thí điểm,… Cụ thể như sau:
i) Xây dựng Đề án triển khai thực hiện Quy chế “một cửa” tại các cơ quan hành chính nhà nước địa phương trong lĩnh vực hành chính tư pháp
ii) Để áp dụng thống nhất thủ tục hành chính một cửa trong toàn quốc, Bộ đã chỉ đạo việc khảo sát thực tế một số địa phương, tổ chức tọa đàm và đã có công văn yêu cầu các Sở Tư pháp báo cáo tình hình, đề xuất các vấn đề, để trên cơ sở đó xây dựng Đề án chung về thủ tục hành chính “một cửa”.
iii) Hiện nay đã có khoảng trên 40 địa phương áp dụng quy chế “một cửa” trong lĩnh vực công chứng, hộ tịch. Một số địa phương chưa áp dụng[3] quy chế này, phần lớn tập trung ở khu vực miền núi như các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Hà Giang… Tại nhiều địa phương, UBND tỉnh, thành phố đã ban hành quyết định phê duyệt đề án thực hiện cơ chế “một cửa” trong lĩnh vực công chứng, hộ tịch, như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Kiên Giang…
Thứ hai: Lĩnh vực bán đấu giá tài sản
Tiếp theo các hoạt động điều tra khảo sát về thủ tục hành chính được tiến hành năm 2004 đầu năm 2005, theo kế hoạch CCHC 2005, Bộ Tư pháp tổ chức triển khai thí điểm mô hình một cửa trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản tại một số tỉnh như Yên bái, Nghệ an, Đà nẵng, Cần Thơ, An Giang,…
b.Những thành công và khó khăn, tồn tại trong việc bước đầu áp dụng cơ chế “một cửa”:
* Một số thành công :
i) Lĩnh vực hành chính tư pháp (hộ tịch, công chứng, chứng thực, lý lịch tư pháp)
Tại Sở Tư pháp và UBND cấp huyện, việc áp dụng cơ chế “một cửa” đã tạo sự chuyển biến cơ bản trong giải quyết các thủ tục hành chính giữa cơ quan nhà nước với công dân, tổ chức. Tinh thần, thái độ của công chức trong việc tiếp xúc, giải quyết các yêu cầu của người dân đã được nâng lên một bước cơ bản; cán bộ được phân công tiếp nhận hồ sơ, về cơ bản là những người có trình độ chuyên môn tốt, tiếp nhận và giải quyết hồ sơ đúng quy trình, không gây sách nhiễu cho người dân. Trình tự, thủ tục được niêm yết công khai, rõ ràng. Việc trả kết quả được thực hiện đúng theo phiếu hẹn. Người dân chỉ phải nộp hồ sơ và nhận sự hướng dẫn tại một nơi tiếp nhận hồ sơ, không phải đi đến nhiều nơi và đi lại nhiều lần.Tại một số Sở Tư Pháp, thời gian giải quyết một số loại công việc được rút ngắn so với quy định của pháp luật hiện hành.[4]
Tại xã, phường, thị trấn, việc áp dụng cơ chế “một cửa” đã tạo thuận lợi cho người dân khi có yêu cầu đăng ký hộ tịch hoặc chứng thực. Trình tự, thủ tục giải quyết các loại việc hộ tịch đều được niêm yết công khai, rõ ràng. Thời gian giải quyết được rút ngắn.
ii) Lĩnh vực bổ trợ tư pháp (bán đấu giá tài sản)
Việc áp dụng mô hình thí điểm về bán đấu giá tài sản thành là quyền sử dụng đất (ở một tỉnh là Yên Bái) cho thấy chỉ sau 7 đến 10 ngày người mua được tài sản bán đấu giá sẽ nhận được đầy đủ các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất tại Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản,nhanh hơn khoảng 20 ngày so với quy định của pháp luật hiện hành.[5] Việc đơn giản thủ tục, tiết kiệm thời gian, công sức cho dân (người mua được tài sản) bước đầu đánh dấu sự thành công trong lĩnh vực này, tuy còn chưa thể khẳng định vì đây mơí là mô hình áp dụng thí điểm ở một tỉnh, lại là tỉnh miền núi. Chính vì vậy, như trên đã báo cáo, hiện nay Bộ vẫn đang tiếp tục triển khai áp dụng thí điểm mô hình một cửa ở các tỉnh khác để có được những đánh giá, kết luận chính xác về áp dụng cơ chế một cửa trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản.
* Hạn chế, tồn tại:
i) Lĩnh vực hành chính tư pháp:
Thứ nhất, một số địa phương triển khai cơ chế “một cửa” còn máy móc, mang tính hình thức. Một vài địa phương chưa triển khai cơ chế này.
Thứ hai, hiện nay, tại nhiều tỉnh, thành phố việc tổ chức tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu về công chứng tại các Phòng công chứng chưa được thực hiện theo quy chế “một cửa”, trừ công chứng các loại việc đơn giản (như bản dịch, bản sao). Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do đặc thù của hoạt động công chứng đối với những hợp đồng, giao dịch, người yêu cầu công chứng phải ký tên trước mặt công chứng viên, công chứng viên phải chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật. Do vậy, rất khó để áp dụng mô hình “một cửa” tại các Phòng công chứng. Trên thực tế, việc áp dụng cơ chế “một cửa” tại Phòng công chứng một cách máy móc với Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, bộ phận chuyên môn nghiệp vụ riêng có thể làm cho thủ tục công chứng vòng vèo, phức tạp hơn. Tình trạng này cũng tương tự đối với hoạt động chứng thực ở các Uỷ ban nhân dân cấp huyện, xã.
Thứ ba, tại nhiều Sở Tư pháp, hoạt động giữa bộ phận Tiếp nhận hồ sơ và các Phòng nghiệp vụ còn thiếu sự đồng bộ. Một số loại việc hộ tịch như đăng ký kết hôn, cán bộ hộ tịch phải yêu cầu hai bên nam nữ ký vào Sổ và Giấy chứng nhận kết hôn hoặc trong trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài, cán bộ nghiệp vụ phải phỏng vấn trực tiếp đương sự, người dân vẫn phải một lần nữa tiếp xúc với cán bộ nghiệp vụ, nên có tâm lý thiếu tin tưởng vào cơ chế này
Thứ tư, việc thực hiện mô hình “một cửa” tại các quận huyện cũng gặp không ít khó khăn. Cán bộ tiếp nhận hồ sơ không có chuyên môn sâu về từng lĩnh vực, nên cán bộ Tư pháp nhiều lúc phải trực tiếp ra tiếp dân để giải quyết ngay các việc chứng thực dẫn đến vi phạm cơ chế “một cửa”. Mặt khác, Trưởng phòng tư pháp được ủy quyền ký các văn bản chứng thực và chịu trách nhiệm về hành vi chứng thực, tuy nhiên không được trực tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ, nên khó phát hiện sai sót.
Thứ năm, tại cấp xã, hiện nay thường được bố trí hai cán bộ trực tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ, các cán bộ này chủ yếu là công chức Văn phòng. Trong khi đó, theo thống kê là có tới 69 loại thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND cấp xã (trên tất cả các lĩnh vực).Vì vậy, khó khăn cơ bản hiện nay là trình độ chuyên môn của cán bộ trực tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ, do không am hiểu về từng lĩnh vực chuyên môn hoặc chỉ chuyên sâu về một vài lĩnh vực được phân công, dẫn đến trong nhiều trường hợp, hồ sơ của đương sự còn thiếu nhưng cán bộ tiếp nhận không phát hiện được để hướng dẫn, yêu cầu đương sự bổ sung nên người dân phải đi lại nhiều lần, kéo dài thời gian. Mặt khác, theo quy định của Nghị định số 83, đối với một số loại việc hộ tịch như đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử, nếu có đủ hồ sơ hợp lệ, thì Chủ tịch UBND cấp xã ký và cấp ngay cho đương sự bản chính Giấy khai sinh hoặc Giấy chứng tử. Nhưng việc thực hiện cơ chế “một cửa” tại UBND cấp xã như hiện nay với bộ phận tiếp nhận hồ sơ thì khó có thể thực hiện được quy định này.
ii) Lĩnh vực bán đấu giá tài sản:
Thực tiễn khảo sát và thí điểm mô hình một cửa trong lĩnh vực này bước đầu cho thấy:
Thứ nhất, không thể áp dụng mô hình một cửa chung cho tất cả các loại tài sản bán đấu giá. Lý do :
+ Các quy định của pháp luật về chuyển quyền sở hữu, chuyển quyền sử dụng từng loại tài sản còn chưa đồng bộ, thống nhất, trình tự, thủ tục rất khác nhau, do vậy, để làm thủ tục chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng tài sản, các ngành chức năng còn đòi hỏi nhiều loại giấy tờ khác ngoài quy định của Nghị định 05/2005/NĐ-CP của Chính phủ về bán đấu giá tài sản;
+ Sự phối hợp giữa các ngành có liên quan trong hoạt động bán đấu giá tài sản còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, chỉ nên áp dụng thí điểm mô hình một cửa đối với từng loại tài sản khi đã bán đấu giá thành.
2.4 Nhận xét, đánh giá chung về cải cách thể chế
a. Nhận định chung:
Thực tế cho thấy, trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước ở giai đoạn I (2001-2005), thì cải cách thể chế của Bộ Tư pháp đã thu được kết quả đáng ghi nhận, có những bước chuyển biến tích cực, rõ nét hơn so với trước. Những thành công đó thể hiện ở việc đáp ứng về cơ bản những yêu cầu cải cách thể chế cả về khía cạnh nội dung văn bản QPPL cũng như các yêu cầu về đổi mới quy trình, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.
Nhìn chung các văn bản QPPL do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo hoặc ban hành theo thẩm quyền đều có sự cân nhắc, thận trọng, bảo đảm sự phù hợp của nội dung văn bản với các quy định của Hiến pháp và các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn; bảo đảm sự phù hợp của hình thức văn bản với nội dung văn bản, phù hợp với thẩm quyền của cơ quan ban hành; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của văn bản trong hệ thống pháp luật nước ta cũng như các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Về cơ bản, các văn bản QPPL do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo, trình Chính phủ hoặc Bộ ban hành theo thẩm quyền đều tuân thủ các quy định của Luật ban hành văn bản QPPL, bảo đảm trình tự, thủ tục từ khâu thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập, đến việc tổ chức khảo sát, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, lấy ý kiến các cơ quan hữu quan, các đối tượng thuộc phạm vi tác động, tổ chức thẩm định trước khi trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền; các văn bản ban hành đều gửi đăng Công báo hoặc gửi đến Bộ, ngành hữu quan khi có liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, ngành đó để kiểm tra.
b. Những khó khăn, bất cập cơ bản và nguyên nhân:
Hiện nay Bộ Tư pháp đang được giao chủ trì soạn thảo hoặc có các đề xuất sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện hành nhằm hoàn thiện thể chế theo hướng đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Những bất cập trong nội dung thể chế hiện hành đã được Bộ Tư pháp báo cáo Chính phủ trong nhiều báo cáo khác nhau, nhất là trong các Tờ trình Chính phủ về một Dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cụ thể. Trong khuôn khổ báo cáo này, chúng tôi chỉ chủ yếu đề cập đến những bất cập, tồn tại, khó khăn trong quy trình, thủ tục soạn thảo, ban hành các thể chế trên cơ sở các yêu cầu cải cách thể chế thuộc Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và những nguyên nhân chủ yếu của những khó khăn, tồn tại đó.
Thứ nhất: Sự chậm trễ trong khâu soạn thảo và thông qua (ban hành) văn bản QPPL, nhất là các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành luật là một trong những hạn chế chủ yếu của công tác xây dựng pháp luật hiện nay. Thời gian gần đây tuy việc soạn thảo, trình văn bản lên cấp trên tuy có tiến bộ, khẩn trương hơn, song về cơ bản vẫn chậm, không bảo đảm đúng tiến độ, kế hoạch đặt ra. Cũng vì chậm trễ nên cũng có lúc chưa kịp thời đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi bức xúc thực tế đặt ra, ảnh hưởng đến việc thể chế hoá các chủ trương,chính sách, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước hoặc làm cho khâu triển khai thi hành gặp khó khăn, lúng túng, chờ đợi.
Nguyên nhân chính của tình trạng trên đây là:
i) Khối lượng công việc được giao khá nhiều, trong khi lực lượng cán bộ trực tiếp làm công tác xây dựng pháp luật còn mỏng, trình độ năng lực cán bộ chưa đồng đều, chưa thật sự đáp ứng với yêu cầu.[6]
Hiện nay đội ngũ chuyên viên làm công tác soạn thảo, thẩm định, kiểm tra văn bản còn thiếu trong khi số lượng văn bản phải soạn thảo, thẩm định có xu hướng tăng nhiều (riêng năm 2005 Bộ Tư pháp phải chủ trì soạn thảo 74 văn bản, thẩm định 305 văn bản) .
ii) Sự phối hợp giữa cơ quan chủ trì soạn thảo (Bộ Tư pháp) và các cơ quan có liên quan còn lỏng lẻo, nhiều hạn chế, nhất là trong phối hợp liên ngành
- Cơ chế phối hợp giữa cơ quan chủ trì soạn thảo với cơ quan phối hợp, đặc biệt là cơ chế phối hợp liên ngành trong việc soạn thảo, chuẩn bị, lấy ý kiến vào dự thảo đề án, văn bản QPPL như hiện nay có rất nhiều hạn chế, không rõ trách nhiệm.Việc tổ chức xin ý kiến đóng góp, nhất là đối với các văn bản do liên ngành ban hành thường gặp nhiều khó khăn do không thống nhất quan điểm, chờ đợi hoặc phải thuyết phục nhau mất rất nhiều thời gian hoặc “khoán trắng” cho cơ quan chủ trì, vì thế văn bản liên ngành thường bị kéo dài. Nguyên nhân của tình trạng này, trước hết là do thành viên Ban soạn thảo gồm đại diện của nhiều bộ, ngành, các thành viên thường rất bận rộn với công việc của cơ quan mình nên hoạt động của Ban soạn thảo gặp khó khăn; mặt khác cũng có biểu hiện do bảo vệ lợi ích cục bộ của Bộ, ngành nên khi tham gia còn phải vừa chờ đợi, vừa thuyết phục.
- Đối với công tác thẩm định dự thảo văn bản QPPL, bên cạnh bộ, ngành thực hiện đúng quy định thì cũng còn không ít trường hợp gửi quá muộn, sát với ngày cơ quan có thẩm quyền xem xét hoặc thông qua, xem việc thẩm định chỉ mang tính hình thức vì thế ảnh hưởng đến tiến độ trình và chất lượng của văn bản thẩm định.[7]
* Thứ hai: quy trình, thủ tục rà soát, soạn thảo văn bản QPPL (để trình và ban hành), quy trình thẩm định trong nội bộ cơ quan Bộ còn có một số điểm bất hợp lý, ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng văn bản soạn thảo
i) Công tác rà soát văn bản (đặc biệt là rà soát các văn bản chứa đựng nhiều quy định về các thủ tục hành chính) tại một số đơn vị thuộc Bộ, tuy trong thời gian gần đây được tăng cường, nhưng chủ yếu vẫn chỉ tiến hành do yêu cầu phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây dựng một dự án, dự thảo văn bản QPPL cụ thể được giao chủ trì soạn thảo hoặc tiến hành theo yêu cầu của Lãnh đạo Bộ (ví dụ như thực hiện Kế hoạch CCHC) mà chưa được tiến hành thường xuyên, đôi khi còn hình thức,…[8]
Nguyên nhân của tình trạng này là do còn thiếu sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Thủ trưởng các đơn vị trong việc tổ chức thường xuyên, định kỳ việc rà soát theo văn bản theo trách nhiệm được giao, thiếu quy định về quy trình rà soát thống nhất, thiếu một đầu mối tổ chức thực hiện việc rà soát,…
ii) Quy trình phối hợp giữa đơn vị chủ trì và đơn vị tham gia trong các hoạt động: Xây dựng Dự thảo Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh để trình Chính phủ, hoạt động soạn thảo/thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu hiệu quả
- Trong hoạt động xây dựng Dự thảo Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh: Quy trình xây dựng Chương trình hiện tại về thực chất còn tương đối khép kín, tập trung chủ yếu vào đơn vị được giao chủ trì soạn thảo mà chưa huy động được tối đa trí tuệ tập thể của nhiều đơn vị khác nhau thuộc Bộ trong quá trình hoàn thiện Chương trình này. Theo ý kiến của các cán bộ, công chức được hỏi trong đợt khảo sát của Ban Chỉ đạo CCHC thì 82,4% số người được hỏi cho rằng quy trình phối hợp hiện nay giữa đơn vị chủ trì và các đơn vị khác thuộc Bộ trong quá trình xây dựng Chương trình còn chưa hợp lý. Các lý do chủ yếu xuất phát từ sự thiếu hợp tác của cả hai phía: Từ phía các đơn vị tham gia thì hầu như ít có công văn đề xuất hoặc nội dung công văn đề xuất sáng kiến lập pháp quá sơ sài; từ phía đơn vị chủ trì: yêu cầu có ý kiến đóng góp trong thời gian gấp, ít tổ chức họp để các đơn vị đóng góp ý kiến vào Dự thảo Chương trình, không có thông tin phản hồi cho các đơn vị tham gia về mức độ tiếp thu ý kiến đóng góp vào Dự thảo Chương trình. Bên cạnh đó, còn có những lý do khác như các đơn vị tham gia không đủ thông tin cần thiết để tham gia lập Dự kiến Chương trình.[9]
- Trong hoạt động soạn thảo dự thảo văn bản QPPL thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ, sự phối hợp giữa các đơn vị chủ trì và các đơn vị tham gia còn khá lỏng lẻo (ý kiến của 92% cán bộ, công chức trả lời phiếu khảo sát của Ban Chỉ đạo). Lý do chủ yếu cũng xuất phát từ cả hai phía: Do phía đơn vị chủ trì ít lấy ý kiến các đơn vị có liên quan hoặc có lấy ý kiến nhưng thường ít tiếp thu ý kiến đóng góp một số đơn vị tham gia không có công văn tham gia ý kiến hoặc có ý kiến nhưng chất lượng chưa đạt yêu cầu. [10]
- Trong hoạt động thẩm định/ góp ý kiến các dự án, dự thảo văn bản QPPL, sự hạn chế trong hoạt động phối hợp giữa các đơn vị thuộc Bộ hiện nay là vì những lý do như: Phía đơn vị chủ trì gửi công văn, tài liệu thẩm định/ góp ý chậm, thiếu cung cấp thông tin cho đơn vị tham gia, thiếu thông tin phản hồi của đơn vị chủ trì đến đơn vị tham gia sau khi thẩm định/góp ý. Lý do từ phía các đơn vị tham gia là: Đơn vị tham gia thường có công văn trả lời chậm hoặc thậm chí không có công văn tham gia thẩm định/góp ý; công văn tham gia thẩm định/ góp ý kiến của các đơn vị có nơi chỉ giao cho một vài chuyên viên, một đồng chí cấp Vụ tham gia thẩm định/ góp ý chứ chưa phải là trí tuệ của tập thể, vì vậy đôi khi chất lượng còn hạn chế.
Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan còn có những nguyên nhân khách quan như: Văn bản hiện hành quy định thời gian thẩm định/ góp ý ngắn, khó đảm bảo chất lượng (nhận định của 61,2% các cán bộ, công chức được hỏi ý kiến); các Bộ, ngành gửi công văn đề nghị thẩm định/ góp ý kiến chậm so với quy định (40,3% ý kiến), không gửi đủ hồ sơ tài liệu theo quy định,…
* Thứ ba, sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp (đơn vị chủ trì soạn thảo) và các cơ quan Tư pháp địa phương trong quá trình soạn thảo các dự án, dự thảo văn bản QPPL có liên quan còn khá hạn chế. Thể hiện ở những khiếm khuyết từ quy trình lấy ý kiến đóng góp của địa phương (như gửi văn bản tham gia ý kiến chậm; thiếu những thông tin cơ bản về dự thảo hoặc định hướng trọng tâm cần lấy ý kiến, thiếu thông tin phản hồi đối với địa phương về kết quả tiếp thu ý kiến,…), thể hiện qua mức độ hạn chế trong tiếp thu ý kiến của địa phương để đưa vào nội dung dự án, dự thảo.
II. VỀ CẢI CÁCH BỘ MÁY HÀNH CHÍNH TRONG NỘI BỘ CƠ QUAN BỘ VÀ TRONG PHẠM VI TOÀN NGÀNH:
1. Kết quả sắp xếp, tổ chức bộ máy
So với các giai đoạn trước đây thì giai đoạn 2001-2005(nhất là từ 2003-2005) là giai đoạn Bộ Tư pháp trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền tương đối đầy đủ các văn bản quy định về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Bộ, các đơn vị thuộc Bộ và của ngành Tư pháp.
1.1 Sắp xếp tổ chức bộ máy cơ quan Bộ Tư pháp:
Tính đến nay, tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp có 23 đơn vị, trong đó có 16 đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước và 07 đơn vị sự nghiệp.
So với năm 2001 thì tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp tăng thêm 4 đầu mối (thành lập mới 05 đơn vị và điều chuyển 01 đơn vị sang cơ quan khác).[11]
Đồng thời, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành các quyết định về việc đổi tên, điều chuyển nhiệm vụ, kiện toàn tổ chức bên trong của một số đơn vị thuộc Bộ.
Có thể khẳng định cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp như hiện nay về cơ bản đã được kiện toàn,đảm bảo phân định rõ và tránh sự trùng lặp, chồng chéo về nhiệm vụ, quyền hạn giữa các đơn vị theo nguyên tắc một đơn vị đảm nhận nhiều nhiệm vụ với nhiều đối tượng quản lý, nhưng một nhiệm vụ chỉ do một đơn vị thực hiện, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ.
Tuy nhiên, để có một bộ máy thực sự có hiệu quả, Bộ cũng cần nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan Bộ, ví dụ như sắp xếp lại nhiệm vụ của các đơn vị và thành lập các tổ chức bên trong của một số đơn vị.[12]
1.2 Thực hiện việc kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp địa phương theo thẩm quyền được giao:
Thời gian qua, Bộ Tư pháp đã tham gia với Bộ Nội vụ trong việc xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 171/2004/NĐ-CP và Nghị định số 172/2004/NĐ-CP quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, cấp huyện. Bên cạnh đó, như đã báo cáo ở phần Cải cách thể chế, việc Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của các cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để các địa phương kiện toàn tổ chức, tăng cường đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp địa phương: Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và tư pháp cấp xã.
Đặc biệt đối với hệ thống các Phòng Tư pháp cấp huyện, trước đây thực hiện việc sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, cấp huyện theo Nghị định số 12/2001/NĐ-CP ngày 27/3/2001 của Chính phủ, một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã sáp nhập Phòng Tư pháp vào Văn phòng HĐND và UBND cấp huyện.[13] Tuy nhiên, sau khi có Nghị định số 172/2004/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ, tất cả các địa phương nêu trên đều đã quyết định thành lập lại Phòng Tư pháp, ở một số nơi như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Thanh Hoá, Quảng Ninh, Hải Dương,…, các Phòng Tư pháp cấp huyện đã chính thức được thành lập lại và đi vào hoạt động.
2. Về việc thực hiện phân cấp – trung ương địa phương trong phạm vi thẩm quyền quản lý nhà nước về công tác tư pháp
Để triển khai thực hiện Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 của Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nhằm đẩy mạnh việc phân cấp quản lý nhà nước về công tác tư pháp, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã triển khai xây dựng dự thảo Đề án phân cấp quản lý nhà nước về công tác tư pháp (đã được Ban Chỉ đạo Chương trình 121 - Bộ Nội vụ tổ chức nghiệm thu, nhất trí thông qua và có đề nghị chỉnh lý một số nội dung nhằm hoàn thiện Đề án).
Đề án phân cấp quản lý nhà nước về công tác tư pháp đã đưa ra những đánh giá tương đối khái quát và xác thực tình hình thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về công tác tư pháp trong thời gian qua; mục đích, yêu cầu, phạm vi, nguyên tắc phân cấp và đã đưa ra được một hệ thống các ý kiến đề xuất phân cấp quản lý nhà nước về công tác tư pháp trong từng lĩnh vực. Trong đó, nội dung đề xuất phân cấp mạnh nhất trong Đề án tập trung vào lĩnh vực công chứng, hộ tịch.
Đồng thời, Bộ cũng giao cho Viện khoa học pháp lý tổ chức một đề tài nghiên cứu cấp Bộ về phân cấp quản lý nhà nước đối với công tác tư pháp. Những kết quả nghiên cứu của Đề tài này đã có những đóng góp nhất định cho việc hoàn thiện Đề án về phân cấp của Bộ.
3. Về hoạt động đổi mới lề lối và phương thức làm việc của Bộ thông qua các quy chế:
Thời gian qua, để nâng cao hiệu lực và hiệu quả chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo Bộ cũng như hiệu quả hoạt động của Bộ và ngành Tư pháp, Bộ Tư pháp đã chủ trương xây dựng, sửa đổi các Quy chế liên quan đến tổ chức và hoạt động của Bộ và các đơn vị thuộc Bộ. Tình hình xây dựng, ban hành các Quy chế như sau:
3.1 Các Quy chế chung của Bộ:
Hiện nay, Bộ Tư pháp có 10 quy chế chung điều hành bộ máy hành chính của Bộ trong một số lĩnh vực. Trong đó, để đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả chỉ đạo điều hành bộ máy cơ quan thông qua điều hành bằng quy chế, một số các quy chế chung, quan trọng của Bộ đã được ban hành để thay thế các quy chế cũ đã lạc hậu. Ví dụ như: Quy chế làm việc của Bộ Tư pháp(ban hành ngày 14/4/2005) thay thế Quy chế làm việc của Lãnh đạo Bộ Tư pháp ;Quy chế về hoạt động đối ngoại của Bộ Tư pháp (ngày 05/05/2005).Các nguyên tắc làm việc, nguyên tắc quản lý hoạt động đối ngoại của Bộ trong các quy chế này đã được xác định rõ ràng theo tinh thần cải cách hành chính.
Hiện nay, Bộ Tư pháp đang tích cực triển khai việc sửa đổi Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ quan Bộ Tư pháp nhằm đảm bảo phát huy hơn nữa dân chủ trong cơ quan Bộ; đồng thời Bộ cũng đang khẩn trương hoàn thành việc xây dựng dự thảo Quy chế về công tác văn thư của Bộ và các đơn vị thuộc Bộ và dự thảo Quy chế quản lý, sử dụng xe ô tô cơ quan Bộ Tư pháp để đưa các hoạt động này đi vào nề nếp, đảm bảo yêu cầu cải cách hành chính và tạo thuận lợi cho các đơn vị thuộc Bộ trong việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn.
3.2 Các Quy chế Tổ chức và hoạt động của các đơn vị thuộc Bộ:
Trong tổng số 23 đơn vị thuộc Bộ, đã có 11 đơn vị có Quy chế Tổ chức và hoạt động. Tính từ năm 2001 đến nay, Bộ Tư pháp đã ban hành Quy chế Tổ chức và hoạt động của 09 đơn vị.
Đối với các đơn vị khác, Bộ Tư pháp đang tiếp tục hoàn thiện để có thể ban hành Quy chế Tổ chức và hoạt động trong thời gian sớm nhất.
Việc ban hành một hệ quy chế chung và quy chế về tổ chức và hoạt động của các đơn vị thuộc Bộ đã hình thành cơ sở pháp lý và phương thức điều hành cần thiết để chỉ đạo điều hành bộ máy cơ quan Bộ nói chung và từng đơn vị nói riêng, góp phần tăng cường năng lực, hiệu quả của bộ máy hành chính cơ quan Bộ theo tinh thần cải cách hành chính.
Tuy nhiên, thực tế áp dụng, thực hiện các quy chế vẫn còn nhiều tồn tại đặt ra. Trên thực tế, không phải toàn bộ nội dung các quy chế được áp dụng, trong hoạt động quản lý, điều hành mà chỉ có một số nội dung nhất định được tuân thủ (như thẩm quyền ký văn bản, chế độ hội họp, chế độ báo cáo,…). Nguyên nhân chủ yếu là do ý thức chấp hành quy chế của các cán bộ, công chức thuộc Bộ, kể cả cán bộ lãnh đạo đơn vị còn hạn chế; việc tuyên truyền, phổ biến, quán triệt thực hiện các quy chế của Bộ còn chưa được thực hiện thường xuyên, liên tục. Bên cạnh đó, cũng phải kể đến lý do từ sự lạc hậu của các quy định trong một số quy chế hiện hành, không thuận lợi cho việc áp dụng. Chính vì vậy mà theo kết quả điều tra khảo sát của Ban chỉ đạo CCHC của Bộ thì đa số các ý kiến cho rằng cần đẩy mạnh việc thực hiện các quy chế hiện hành và một số lượng không nhỏ ý kiến cho rằng cần sửa đổi, bổ sung các quy chế hiện có và ban hành quy chế mới.[14]
III. XÂY DỰNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC:
1. Về hoạt động quản lý đội ngũ cán bộ, công chức:
Công tác quản lý cán bộ, công chức của Bộ Tư pháp trong thời gian qua đã được thực hiện theo xu hướng tăng cường thực hịên cải cách hành chính trên các mặt như quy hoạch, tuyển dụng, nâng ngạch, xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức... và đã tạo ra những bước chuyển biến tích cực trong công tác này, cụ thể là:
1.1 Công tác quy hoạch cán bộ đã được triển khai thực hiện đối với các chức danh lãnh đạo cấp Vụ và cấp Bộ. Ban cán sự Đảng và Lãnh đạo Bộ đã ban hành các kế hoạch, văn bản hướng dẫn xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo với các bước thực hiện khoa học và đảm bảo dân chủ từ cơ sở. Kết quả quy hoạch đã lựa chọn ra được các cán bộ, công chức đủ điều kiện, tiêu chuẩn quy hoạch để bồi dưỡng, tạo nguồn kế cận, bổ sung cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo hiện có của Bộ. Trong thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục xây dựng quy hoạch tổng thể đội ngũ cán bộ, công chức chuyên môn của Bộ.
1.2 Công tác tuyển dụng, thi tuyển công chức được thực hiện công khai, công bằng, khách quan theo đúng trình tự, thủ tục quy định. Chỉ tiêu, điều kiện, tiêu chuẩn tuyển dụng được thông báo rộng rãi trên các báo của trung ương để tạo cơ hội cho tất cả mọi thí sinh có nguyện vọng và đủ điều kiện đều được tham gia dự tuyển. Trong quá trình tổ chức thi tuyển, Hội đồng thi tuyển công chức của Bộ đã ban hành các văn bản để điều chỉnh các hoạt động thi từ ra đề thi, coi thi, chấm thi đến xét trúng tuyển, bảo đảm cho các hoạt động thi được thực hiện nhanh gọn, đồng bộ và đúng quy định của pháp luật. Nhờ đó, trong thời gian qua đã tuyển dụng được nhiều công chức có trình độ khá, giỏi; chất lượng đội ngũ công chức được tuyển dụng được nâng cao, đủ tiêu chuẩn chức danh và đội ngũ công chức này đã thể hiện được năng lực công tác và đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao.
1.3 Việc nâng ngạch cho cán bộ, công chức của Bộ được thực hịên theo quy trình khoa học, bảo đảm tính dân chủ và đúng tiêu chuẩn, điều kiện quy định. Hội đồng xét nâng ngạch công chức được thành lập để thực hịên nhiệm vụ xét duyệt hồ sơ đăng ký thi nâng ngạch của các cán bộ, công chức đã được tập thể lãnh đạo các đơn vị cùng các tổ chức chính trị - xã hội của đơn vị thống nhất lựa chọn, cử đi đăng ký dự thi trên cơ sở chỉ tiêu đã được phân bổ và tiêu chuẩn, điều kịên theo quy định.
1.4 Để hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức của Bộ, hiện nay Bộ đang tiến hành nghiên cứu, xây dựng tiêu chuẩn chức danh đối với một số chức danh đặc thù của Bộ như đăng ký viên, thẩm tra viên, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ để thực hiện tốt các công tác cán bộ có liên quan.
Nhìn chung, trong thời gian qua công tác quy hoạch, tuyển dụng, nâng ngạch và thực hiện chế độ, chính sách cán bộ, công chức đã có những bước cải tiến về trình tự, thủ tục bảo đảm kịp thời, công khai, dân chủ, khách quan và nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức qua đó đã được nâng cao một bước; hầu hết đội ngũ cán bộ, công chức đã đạt tiêu chuẩn nghiệp vụ chức danh theo quy định; cơ cấu công chức được điều chỉnh theo hướng tăng cường đội ngũ chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính và tương đương cho các đơn vị thuộc Bộ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị ngày càng cao của Bộ và ngành. Tuy nhiên, so với các mảng khác của hoạt động CCHC của Bộ thì các hoạt động này cũng chưa có nhiều biến chuyển rõ nét.
2. Vấn đề cải cách tiền lương đối với cán bộ, công chức của Bộ được triển khai thực hiện trong tổng thể cải cách tiền lương của Nhà nước. Với việc cải cách tiền lương theo hướng thu gọn bảng lương, phân nhóm các chức danh công chức đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách tiền lương khi điều động, luân chuyển cán bộ, công chức. Tuy nhiên, việc cải cách tiền lương chưa theo kịp tốc độ trượt giá nên lương thực tế của cán bộ, công chức vẫn còn thấp; vì vậy, trong thời gian tới vẫn phải tiếp tục kiến nghị với Đảng và Nhà nước để nâng cao mức lương cho cán bộ, công chức.
3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Trong nhiều năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ luôn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Tư pháp.
Từ năm 2001 đến 2005, thực hiện tinh thần của Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị, Học viện Tư pháp đã được thành lập trên cơ sở Trường đào tạo chức danh Tư pháp, đi đôi với việc củng cố công tác tổ chức, lực lượng cán bộ, giảng viên của Học viện. Đại học Luật hiện nay cũng được xây dựng trở thành một trong hai trung tâm đào tạo luật lớn nhất Việt Nam.
Bộ Tư pháp đã dành nhiều sự quan tâm cho công tác đổi mới, nâng cao chất lượng chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy, đội ngũ giảng viên và cách thức tổ chức lớp học. Việc kịp thời đổi mới này bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng và năng lực đội ngũ công chức tư pháp phục vụ cho công tác cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
3.1 Về công tác bồi dưỡng cán bộ:
Trong 5 năm qua, Bộ luôn chú trọng đến việc chỉ đạo, tổ chức bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ ngành tư pháp, chủ yếu thông qua hoạt động của các vụ chức năng thuộc Bộ.
Quy trình xây dựng chương trình, giáo trình đã có nhiều đổi mới nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu học tập của học viên. Để đảm bảo nội dung chương trình, tài liệu thiết thực, phù hợp, bám sát yêu cầu của thực tiễn công tác tư pháp, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo việc khảo sát, phân tích và đánh giá nhu cầu học tập của học viên trước khi xây dựng chương trình, tài liệu. Sau khi chương trình tài liệu được hoàn thành, Bộ Tư pháp đã thành lập Hội đồng thẩm định để đánh giá chất lượng và sự phù hợp của chương trình với yêu cầu bồi dưỡng và trình độ của học viên. Trong 05 năm qua, Bộ Tư pháp đã xây dựng và đưa vào sử dụng 06 loại chương trình, tài liệu khác nhau nhằm bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ cán bộ Tư pháp, đặc biệt là cán bộ Tư pháp cơ sở.[15]
3.2 Về đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo
Giai đoạn 2001-2005, Bộ đã tăng cường chỉ đạo các cơ sở đào tạo thuộc Bộ (Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp) tiến hành các hoạt động cụ thể nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng chương trình, giáo trình đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy, chất lượng đội ngũ giảng viên và phương thức tổ chức lớp học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.
Trên cơ sở đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, Đại học Luật Hà nội đang tiến hành triển khai thực hiện ở giai đoạn I Chương trình cải cách công tác quản lý chuyên môn, quản lý khoa học, đổi mới nội dung chương trình, phương pháp đào tạo. Chương trình đã được đưa vào Kế hoạch CCHC 2005 của Bộ, gồm 06 Tiểu Đề án khác nhau.
Nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của Học Viện, Học viện Tư Pháp cũng triển khai thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 9000 vào việc quản lý chất lượng hoạt động của Học viện (thuộc Kế hoạch CCHC 2005 của Bộ).
Học viện Tư pháp đã xây dựng, hoàn thiện và đưa vào sử dụng các chương trình, giáo trình đào tạo các chức danh tư pháp như giáo trình đào tạo Công chứng viên, Chấp hành viên,… Đồng thời, Học viện áp dụng phương pháp song giảng (một giảng viên lý thuyết và một giảng viên thực hành) nhằm gắn lý luận với thực tiễn và nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ của học viên.
Bên cạnh việc không ngừng đổi mới hệ thống giáo trình, chương trình giảng dạy, với phương châm lấy người học làm trung tâm, Đại học Luật Hà nội đã tổ chức áp dụng các phương pháp giảng dạy mới như: Giảm phương pháp độc thoại, tập trung đối thoại, hướng dẫn, giải đáp những vướng mắc về nghiệp vụ của học viên; đưa ra nhiều bài tập tình huống để học viên cùng thảo luận và nghiên cứu nhằm phát triển kỹ năng nhận diện, phân tích và xử lý vấn đề cho học viên.
Bên cạnh đó, cả hai cơ sở đào tạo thuộc Bộ đều từng bước ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác giảng dạy nhằm tăng khả năng truyền đạt và tiếp nhận kiến thức cho học viên.
Trong những năm qua đội ngũ giảng viên của hai cơ sở đào tạo thuộc Bộ đã từng bước phát triển về số lượng, nâng cao về chất lượng. Hiện tại, đội ngũ giảng viên của Học viện đã có 11 tiến sỹ, 15 thạc sỹ. Số giảng viên thỉnh giảng đều là những cán bộ, chuyên gia đầu ngành, có uy tín trong các lĩnh vực pháp luật. Đội ngũ giảng viên của Trường Đại học Luật Hà Nội trong 05 năm qua cũng không ngừng trưởng thành. Trường có 01 giáo sư, 05 phó giáo sư, 48 tiến sỹ và 141 thạc sỹ.
Bộ Tư pháp cũng đã chỉ đạo việc đa dạng hoá các phương thức tổ chức lớp để phù hợp hơn với điều kiện công tác và khối lượng công việc mà công chức phải đảm nhận. Cụ thể: Có lớp học tập trung, có lớp mỗi tháng học một buổi, có lớp phối hợp với chương trình bồi dưỡng của địa phương…
Về kết quả đào tạo: Chất lượng đội ngũ công chức đã từng bước được nâng lên đáng kể. Hiện tại, Bộ Tư pháp có 89 tiến sỹ, 199 thạc sỹ. Bộ Tư pháp đã đào tạo 4 khoá Chấp hành viên với 788 học viên, bồi dưỡng nghiệp vụ cho 2344 lượt chấp hành viên. Đào tạo 5 khoá Công chứng viên với 245 học viên và bồi dưỡng nghiệp vụ cho 609 lượt công chức phòng công chứng, đào tạo 3 khoá luật sư tập sự cho 217 học viên, 4 khoá luật sư với 5863 học viên và bồi dưỡng nghiệp vụ cho 884 lượt học viên. Đào tạo 8 khoá đào tạo nghiệp vụ xét xử với 1911 học viên, nghiệp vụ thư ký toà án cho 99 học viên. Đào tạo nghiệp vụ kiểm sát cho 404 học viên. Ngoài ra, hàng năm có hàng ngàn lượt cán bộ được bồi dưỡng nghiệp vụ và ngoại ngữ: Năm 2003: 2222 lượt cán bộ, năm 2004: 2018 lượt cán bộ và năm 2005: 3233 lượt cán bộ.
IV. CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG:
Việc triển khai các hoạt động CCHC của Bộ trong lĩnh vực tài chính công như sau:
1. Đổi mới phương thức lập dự toán, cấp phát kinh phí, thẩm tra xét duyệt quyết toán, công khai tài chính, thanh tra- kiểm tra:
Về đổi mới phương thức lập dự toán: Với số lượng đơn vị dự toán là trên 700 đơn vị, hàng năm vào thời điểm cuối tháng 6, Bộ đã kịp thời có công văn hướng dẫn kèm theo các biểu mẫu và dự kiến thông báo số kiểm tra ngân sách (NS) năm sau cho các đơn vị để làm căn cứ lập dự toán, gửi về Bộ tổng hợp báo cáo Chính phủ trước ngày 20/7 hàng năm.
Về đổi mới phương thức cấp phát kinh phí: Trước năm 2004 (khi Luật Ngân sách 2002 chưa có hiệu lực thi hành) thì hàng quý Bộ đều phải đánh máy ký cấp phát kinh phí trực tiếp cho từng đơn vị dự toán nên công việc sự vụ, mất nhiều thời gian và đôi khi còn chậm, đơn vị không chủ động trong kế hoạch chi tiêu, việc cấp phát này còn nặng biểu hiện của cơ chế bao cấp (xin- cho). Từ năm 2004, việc cấp phát kinh phí đã có những đổi mới đáng kể: Bộ thực hiện cấp NS hàng năm cho các đơn vị dự toán bằng kế hoạch thông qua hệ thống kho bạc nhà nước cấp phát trực tiếp cho các đơn vị hưởng thụ ngân sách, một năm chỉ cấp ngân sách một lần vào trước ngày 31/12 năm trước đối với các khoản chi thường xuyên (riêng mua sắm tài sản cố định và sửa chữa lớn tài sản cố định được cấp chậm nhất ngày 31/3 năm ngân sách).
Trong công tác thẩm tra xét duyệt quyết toán ngân sách hàng năm: Để đảm bảo việc chi tiêu đúng nguyên tắc chế độ tài chính, đảm bảo khách quan, minh bạch trong quá trình thẩm tra, xét duyệt quyết toán ngân sách hàng năm, từ năm 2004 Bộ đã thực hiện đổi mới phương thức thẩm tra xét duyệt quyết toán bằng cách thành lập 03 Tổ công tác xét duyệt quyết toán ở ba miền, mỗi Tổ có một Lãnh đạo cấp vụ trực tiếp chỉ đạo, khi đến các đơn vị mời các đơn vị dự toán (chủ tài khoản, kế toán) xuất trình toàn bộ hồ sơ, sổ sách chứng từ để kiểm tra (không cử từng cán bộ đi xuống các đơn vị dự toán để thẩm tra, xét duyệt như những năm trước đây).
Về công khai tài chính và công tác thanh tra, kiểm tra: Bộ đã kịp thời phổ biến, quán triệt đến các chủ tài khoản, kế toán các đơn vị yêu cầu thực hiện theo đúng Quyết định 192/2004/QĐTTg của Thủ tướng ; yêu cầu các đơn vị chậm nhất sau 30 ngày phải công bố công khai toàn bộ kinh phí trong năm đơn vị được cấp (kinh phí chi thường xuyên, kinh phí cho các đề án, kinh phí mua sắm sửa chữa XDCB,…) và công khai số NS năm trước được duyệt quyết toán đến tất cả các cán bộ, công chức trong đơn vị, coi đây là tiêu chí để xem xét thi đua khen thưởng cuối năm của đơn vị.
Công tác thanh tra, kiểm tra cũng được từng bước tăng cường. Ngoài kiểm tra định kỳ, Bộ còn thành lập các đoàn kiểm tra đột xuất khi phát hiện các đơn vị có dấu hiệu vi phạm hoặc có đơn thư tố cáo,… Hàng năm, Bộ tổ chức thanh tra, kiểm tra ít nhất từ 05 đến 07 đơn vị dự toán, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản.
2. Tình hình thực hiện cơ chế khoán kinh phí hành chính theo Quyết định 192/2001/QĐ-TTg ngày 17/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16 /01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu.
Để đẩy mạnh việc tổ chức triển khai thực hiện Nghị định 10 và Quyết định 192, Bộ đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện hai văn bản nói trên.
Tính đến Quý III/2005, sau khi có sự thẩm định của Bộ Tài Chính, Bộ đã phê duyệt 06 Đề án cho 03 đơn vị thuộc Bộ và 03 Trung tâm Đăng ký giao dịch tài sản tại ba thành phố lớn về việc thực hiện quyền tự chủ về tài chính và tự đảm bảo một phần kinh phí hoạt động thường xuyên giai đoạn 2005-2007.[16] Hiện tại Bộ đang yêu cầu các đơn vị sự nghiệp khác như Nhà xuất bản Tư pháp, Trung tâm tin học lập đề án. Đối với các đơn vị quản lý (05 Cục như Cục Thi hành án dân sự; Cục Trợ giúp pháp lý; Cục đăng ký giao dịch bảo đảm,...) vẫn chưa thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý. Ngay cả việc áp dụng mô hình thí điểm (Cục trợ giúp pháp lý) cũng chưa triển khai được do sự chậm trễ từ chính đơn vị được phân công làm thí điểm.
Qua giao quyền tự đảm bảo một phần kinh phí thường xuyên đã giúp cho các đơn vị chủ động trong việc sử dụng kinh phí hàng năm được NSNN cấp, chủ động khai thác các nguồn thu trên cơ sở chính sách nhà nước quy định; cải thiện tăng thu nhập cho cán bộ viên chức ít nhất từ 01 đến 2,5 lần so với lương trước khi giao quyền tự chủ về tài chính; góp phần tăng cường cơ sở vật chất cho đơn vị, nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác chuyên môn.
3 Nhận định chung:
Trong những năm từ 2001 đến nay, nhất là những năm từ 2003 trở lại đây, Bộ đã có những triển khai tương đối tích cực nhằm cải cách tài chính công và đã thu được những kết quả đáng ghi nhận về đổi mới phương thức, quy trình lập dự toán, cấp phát kinh phí, về thẩm tra xét duyệt quyết toán, về thực hiện cơ chế khoán chi hành chính và chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu,...
Tuy nhiên, đó cũng mới chỉ là đổi mới, cải cách bước đầu.Trong lĩnh vực tài chính công vẫn còn khá nhiều tồn tại, đòi hỏi nhiều đổi mới, khắc phục. Theo kết quả khảo sát của Ban Chỉ đạo CCHC của Bộ thì vẫn có đến 54,7% cán bộ, công chức thuộc Bộ (những người được hỏi ý kiến) cho rằng cải cách tài chính công của Bộ có đổi mới nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Những tồn tại chủ yếu tập trung vào các quy trình lập dự toán, lập dự toán và thanh quyết toán kinh phí.Ví dụ như: Thông báo về kinh phí được duyệt cho các đơn vị đôi khi còn chậm, việc thanh quyết toán kinh phí chưa thực sự thuận lợi, thủ tục còn phức tạp; cơ chế kiểm tra, thanh tra tài chính chưa thật sự phù hợp…[17] Đây là những điểm cần được khắc phục và cần được xem là trọng tâm cải cách tài chính công thuộc thẩm quyền của Bộ trong thời gian tới. Nguyên nhân của những hạn chế trên đây khá đa dạng. Ví dụ về việc thông báo kinh phí, có những nguyên nhân khách quan như việc thông báo kinh phí chậm đôi khi không do phía Bộ Tư pháp mà do phía cơ quan tài chính, nhưng cũng có những nguyên nhân chủ quan từ phía Bộ như: Thông báo kinh phí chậm do lề lối làm việc của các đơn vị có thẩm quyền; thủ tục quyết toán phức tạp, còn thiếu hướng dẫn chi tiết về quy trình, thủ tục thanh quyết toán;…
VI. HIỆN ĐẠI HOÁ HOẠT ĐỘNG ĐIỀU HÀNH CỦA BỘ MÁY CƠ QUAN BỘ
1. Về tăng cường kỷ luật hành chính, đổi mới công tác Văn phòng :
Tăng cường kỷ luật hành chính trong cơ quan Bộ nói chung, trọng tâm là đổi mới công tác Văn Phòng được xác định là một trong những yêu cầu hết sức cần thiết, trực tiếp góp phần tăng cường hiệu quả của bộ máy hành chính của cơ quan Bộ. Chính vì vậy mà trong các kế hoạch, nhiệm vụ CCHC của Bộ trong một vài năm gần đây, việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Văn Phòng Bộ luôn được xem là một trong những nội dung được chú trọng.
Từ những năm 2002-2003, đổi mới công tác Văn Phòng Bộ đã nằm trong nội dung hoạt động hỗ trợ của Dự án Tăng cường năng lực quản lý hành chính của Bộ Tư pháp (do Sida Thuỵ Điển tài trợ) và một loạt các hoạt động nhằm đổi mới công tác Văn phòng đã được thực hiện như: Tiến hành khảo sát đánh giá thực trạng về Văn phòng (thực trạng hoạt động trên từng mảng công việc, cán bộ, phương tiện làm việc,…); tổ chức các Toạ đàm nhằm thảo luận, đóng góp ý kiến cải tiến hoạt động, quy trình giải quyết công việc của Văn phòng, nhất là các khâu như Văn thư, các hoạt động hậu cần khác,…
Từ năm 2004, hoạt động đổi mới, hoàn thiện công tác Văn Phòng đã luôn được chú trọng đưa vào Kế hoạch CCHC của Bộ Tư pháp. Một loạt các hoạt động do Văn Phòng chủ trì hoặc phối hợp với các đơn vị khác chủ trì thực hiện đã và đang được triển khai, như: Xây dựng nội quy công sở mới; xây dựng Dự thảo Quy chế quản lý công tác văn thư của Bộ, Quy chế sửa đổi, bổ sung Quy chế quản lý tài sản của Bộ; … Kết quả là trong một hai năm trở lại đây, công tác Văn phòng đã có những chuyển biến nhất định, góp phần trực tiếp phục vụ hoạt động điều hành của Bộ. Trong đó, việc chấp hành kỷ luật lao động, công tác bảo đảm an toàn và thực hành tiết kiệm trong cơ quan ngày càng được kiểm soát chặt chẽ và đưa vào khuôn khổ.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu, nhìn chung kỷ luật hành chính trong cơ quan Bộ nói chung và công tác Văn Phòng nói riêng còn khá nhiều tồn tại. Theo nhận định của chính cán bộ, công chức cơ quan Bộ thì việc chấp hành kỷ luật hành chính của một bộ phận cán bộ, công chức trong Bộ hiện nay vẫn còn mang tính đối phó, thiếu ý thức tự giác.[18] Công tác Văn phòng còn một số mảng hoạt động chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu công việc của cơ quan Bộ, ví dụ như công tác văn thư của Bộ, chế độ cấp phát văn phòng phẩm,…Biểu hiện thông qua việc xử lý công văn đi- đến còn chậm, thiếu chuyên nghiệp; việc cấp phát văn phòng phẩm cho các đơn vị còn chưa kịp thời, cơ cấu văn phòng phẩm còn bất hợp lý[19],…
2. Vấn đề cải tiến chế độ hội họp, biểu mẫu giấy tờ hành chính và chế độ thông tin, báo cáo
i) Trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc hiệu quả, tiết kiệm, chống lãng phí trong hội họp, công tác tổ chức hội họp của Bộ trong những năm gần đây cũng được xem xét, rà soát để cải tiến một bước, cả về nâng cao chất lượng cuộc họp lẫn giảm số lượng cuộc họp, cải tiến trình tự thủ tục tổ chức cuộc họp. Tính riêng năm 2004, do kết hợp được các cuộc họp giao ban chung của ngành và giao ban, tập huấn theo chuyên đề, Bộ Tư pháp đã cắt giảm được 16 cuộc họp, hội nghị so với kế hoạch. Từ đầu năm 2005, việc duyệt danh mục các hội nghị, hội thảo chung của Bộ được tiến hành khá chặt chẽ. Trình tự, thủ tục tổ chức họp cũng được cải tiến nhằm góp phần tăng cường chất lượng các cuộc họp: Bộ đã có chỉ đạo cho các đơn vị chủ trì phải tổ chức kỹ về nội dung, tài liệu phải gửi đến cho các đại biểu trước khi tổ chức cuộc họp, hội nghị, tại hội nghị chỉ trình bày báo cáo tóm tắt, dành thời gian cho các đại biểu phát biểu ý kiến,…Thực hiện Quy chế làm việc mới của Bộ Tư pháp, họp Giao ban cấp vụ giảm từ một kỳ/ tháng xuống một kỳ /quý; Giao ban Thủ trưởng các đơn vị chủ yếu tập trung vào thảo luận các như nội dung như: Những vấn đề chuyên môn có tính chất liên vụ, còn có vướng mắc; thảo luận các dự án Luật do Bộ chủ trì,...
ii) Nhằm đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá công sở, đổi mới lề lối làm việc, một hai năm gần đây Bộ đã quan tâm đến việc nghiên cứu cải tiến các biểu mẫu, giấy tờ hành chính, trước hết là nhằm chuẩn hoá các biểu mẫu hồ sơ trình xin ý kiến Lãnh đạo Bộ, mẫu hồ sơ trình ký; mẫu báo cáo định kỳ,… Đầu năm 2005, Văn Phòng Bộ đã chủ trì việc xây dựng mẫu hồ sơ báo cáo, trình xin ý kiến của các đơn vị đối với Lãnh đạo Bộ và tổ chức việc lấy ý kiến Lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ về mẫu hồ sơ này. Mẫu báo cáo định kỳ (bao gồm các yêu cầu cơ bản đối với nội dung một báo cáo) dành cho các đơn vị thuộc Bộ và địa phương cũng đang được tiến hành xây dựng.
Tuy nhiên, đó cũng chỉ là những chuyển biến ở mức độ nhất định. Chế độ hội họp, thông tin báo cáo và chế độ chuẩn hoá biểu mẫu giấy tờ hành chính trong cơ quan Bộ còn khá nhiều hạn chế, đó là: Tổ chức họp số lượng các cuộc họp còn nhiều, một số cuộc họp nội dung còn thiếu trọng tâm, còn lãng phí, kỷ luật hội họp của một bộ phận cán bộ công chức kém; đa số đơn vị không tuân theo mẫu hồ sơ hành chính; nhiều loại báo cáo có thông tin trùng lặp , thời gian yêu cầu báo cáo bất hợp lý, thiếu hướng dẫn tiêu chí báo cáo,…
Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Bên cạnh những nguyên nhân khách quan (như thiếu quy định, quy chế riêng) thì các nguyên nhân chủ quan là rất nhiều, như: Những hạn chế trong cách thức tổ chức hội họp, hạn chế trong ý thức chấp hành kỷ luật hội họp của một bộ phận cán bộ công chức cơ quan, kể cả cán bộ lãnh đạo các đơn vị; nội dung các biểu mẫu, giấy tờ hành chính còn thiếu thống nhất, bất hợp lý; hạn chế trong ý thức làm việc, kỹ năng giải quyết công việc của một bộ phận cán bộ, công chức Văn phòng; hạn chế trong việc quan tâm, chỉ đạo tổ chức công tác Văn phòng,… Do vậy, trong thời gian sắp tới, tăng cường kỷ luật hành chính, đổi mới công tác Văn phòng cần được xem là một trong những khâu trọng điểm trong hoạt động CCHC của Bộ nhằm trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả điều hành của bộ máy hành chính của Bộ.
3. Công tác tin học hoá phục vụ hoạt động quản lý điều hành của Bộ
Với tinh thần, gắn công tác cải cách hành chính với việc triển khai Đề án Tin học hoá quản lý hành chính nhà nước theo hướng ứng dụng mạnh mẽ CNTT trong các hoạt động quản lý của cơ quan Bộ và các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ đồng thời thực hiện Đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005, trong thời gian vừa qua, Bộ Tư pháp đã triển khai những hoạt động cơ bản như sau nhằm đưa công tác tin học phục vụ trực tiếp hoạt động của bộ máy hành chính cơ quan Bộ.
Thứ nhất, đẩy mạnh một bước việc áp dụng công nghệ tin học vào hoạt động quản lý điều hành của bộ máy cơ quan Bộ
i) Hiện nay, toàn bộ các máy tính trong khu vực trụ sở của Bộ đã có thể làm việc trong hệ thống mạng thống nhất và có thể tra cứu, truy cập lượng thông tin trên Internet;
ii) Vận hành, quản trị Trung tâm Tích hợp dữ liệu của Bộ. Cấp phát địa chỉ IP, địa chỉ thư điện tử… Duy trì kết nối của Trung tâm Tích hợp với mạng Chính phủ, mạng Internet;
iii) Hoàn thiện hệ thống thư tín điện tử của Bộ : Hoàn thành triển khai việc cài đặt, hướng dẫn sử dụng Hệ thống thư điện tử Bộ Tư pháp có dạng [email protected] cho các cán bộ, công chức trong cơ quan.
iv) Từng bước hoàn thiện và phát triển Cổng giao tiếp điện tử của Bộ để thực sự trở thành công cụ thuận tiện, hiện đại trên mạng, nâng cao hiệu quả của công tác điều hành, tác nghiệp và giao tiếp của Lãnh đạo và chuyên viên Bộ.
Trang WEB của Bộ đăng tải các thông tin giới thiệu về chức năng, nhiệm vụ và các thông tin về các lĩnh vực hoạt động của Bộ cho người dân và doanh nghiệp trên mạng Internet.Đặc biệt, đã xây dựng trang tin cung cấp thông tin hướng dẫn thủ tục hành chính thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ trên Cổng thông tin (công chứng, hộ tịch; đăng ký giao dịch có bảo đảm ; trợ giúp pháp lý,…);
v) Bộ cũng đã tổ chức liên tục các lớp bồi dưỡng kiến thức tin học văn phòng cho cán bộ, công chức thuộc Bộ (từ cấp Vụ trở xuống).
Thứ hai, tăng cường việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia do Bộ Tư pháp chủ trì và khẩn trương xây dựng, phát triển các cơ sỡ dữ liệu chuyên ngành khác của Bộ :
i) Cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia đã và đang phát huy hiệu quả, phục vụ trực tiếp cho công tác rà soát, thẩm định, góp ý kiến văn bản quy phạm pháp luật và các công tác khác của Bộ, đồng thời tạo thêm một kênh thông tin cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận hệ thống pháp luật của Việt Nam thông qua mạng Internet (trong năm 2004 có trên 60 nghìn lượt người truy cập trang WEB CSDLPLQG của Bộ để tra cứu văn bản quy phạm pháp luật). Đã phát hành miễn phí 2000 CD Rom CSDLPLVN (phiên bản 2.0) đến tận Tư pháp quận, huyện phục vụ công tác xây dựng, rà soát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật.
ii) Đẩy mạnh công nghệ tin học trong lĩnh vực công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm:
- Ban dự án tin học hóa công chứng của Bộ đã tiến hành lắp đặt phần cứng cho 21 Phòng Công chứng và 01 Trung tâm tin học công chứng của Bộ với tổng số 22 máy chủ, 181 máy trạm và tiếp tục trang bị phần cứng, cài đặt phần mềm, lắp đặt mạng nội bộ (LAN) cho 20 Phòng Công chứng thuộc giai đoạn II; xây dựng bổ sung phần mềm đơn giản (LTCC) để áp dụng tạm thời trong thời gian chưa cài đặt MASTER tại một số phòng Công chứng. Việc đào tạo tin học cho các công chứng viên và nhân viên nghiệp vụ các phòng công chứng cũng được tăng cường.
- Trong lĩnh vực đăng ký giao dịch có bảo đảm: Toàn bộ quá trình nghiệp vụ đăng ký giao dịch có bảo đảm của Bộ đã được tin học hoá và bước đầu xây dựng cơ sở dữ liệu của cả hệ thống. Trong năm 2004 đã nối mạng được với ba chi nhánh tại Hải Phòng, Đà nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và cũng trong năm 2004 đang xúc tiến việc chuẩn bị cơ sở kỹ thuật để tiến tới đăng ký giao dịch bảo đảm qua mạng Internet và đăng ký trực tuyến .
iii) Triển khai Đề án tiền khả thi xây dựng một số CSDL chuyên ngành như kiểm tra văn bản QPPL, tuyên truyền giáo dục pháp luật và triển khai xây dựng các phần mềm CSDL chuyên ngành khác phục vụ quản lý điều hành của Bộ trong từng lĩnh vực (thi hành án dân sự; phần mềm Kế toán Văn Phòng ; phần mềm Quản lý Luật sư ; phần mềm quản lý nhân sự,…).
Thứ ba, xây dựng và ban hành các quy chế tạo cơ sở pháp lý cho việc khai thác,sử dụng, quản lý mạng máy tính của Bộ
- Đã ban hành Quy chế sử dụng hệ thống thư điện tử của Bộ Tư pháp (09/3/2005)
- Đang soạn thảo một số quy chế như: Dự thảo Quy chế quản lý, khai thác mạng máy tính của Bộ; Dự thảo Quy chế về chế độ nhuận bút, thù lao đối với việc biên soạn, biên tập tin đưa lên Cổng thông tin của Bộ Tư pháp.
Hiện nay việc áp dụng tin học vào hoạt động của Bộ vẫn còn gặp một số khó khăn, hạn chế từ cả phía khai thác, sử dụng tin đến việc quản lý thông tin qua mạng.Theo kết quả khảo sát của Ban Chỉ đạo CCHC Bộ thì trong số người được hỏi ý kiến chỉ có gần một nửa cán bộ, công chức của Bộ thường xuyên sử dụng trang thông tin điện tử của Bộ (tỷ lệ 48,1%) số còn lại sử dụng không thường xuyên (50,4%). Có nhiều nguyên nhân khác nhau, bên cạnh nguyên nhân từ phía người sử dụng,do chưa quen với việc khai thác, trao đổi tin trên mạng còn có những nguyên nhân như: Do chưa được tập huấn sử dụng; do thông tin trên mạng của Bộ nghèo nàn, không đáp ứng được yêu cầu công việc hoặc do việc thiết kế sơ đồ trang Web còn chưa hợp lý, khó khai thác.[20] Bên cạnh đó, một trong những nguyên nhân đáng kể hạn chế quá trình vận hành, sử dụng Trang thông tin điện tử của Bộ chính là do thiếu cơ chế chia sẻ, cung cấp và kiểm soát thông tin trong quá trình hình thành và vận hành Trang thông tin này, thể hiện qua việc Bộ còn thiếu một số quy chế cần thiết như: Quy chế về cung cấp và cập nhật thông tin vào trang thông tin điện tử của Bộ và một số quy chế cần thiết khác. Việc khai thác thông tin từ cơ sở dữ liệu pháp luật (CSDL) của Bộ gặp một số tồn tại, khó khăn tương tự: Số cán bộ, công chức thường xuyên khai thác CSDL này cũng chỉ chiếm một nửa trong số người được hỏi ý kiến. Thực trạng này có những lý do từ việc về đảm bảo kỹ thuật lẫn việc đảm bảo cập nhật các thông tin mới có những hạn chế nhất định.[21]
Tóm lại, trong mấy năm qua Bộ Tư pháp đã có nhiều nỗ lực trong việc ứng dụng công nghệ tin học vào hoạt động quản lý điều hành của Bộ, những kết quả đạt được là đáng ghi nhận trong quá trình hiện đại hoá công sở, góp phần nâng cao năng lực của bộ máy hành chính. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những kết quả còn rất khiêm tốn và chưa thể đáp ứng được nhiều các nhu cầu bức xúc trong công tác tin học hoá hoạt động quản lý điều hành của Bộ. Trong thời gian tới Bộ sẽ tăng cường hơn nữa công tác này.
3. Về xây dựng quy trình chuẩn giải quyết công việc của các đơn vị và các chức danh công chức khác nhau trong các đơn vị thuộc Bộ và nghiên cứu áp dụng thí điểm hệ thống quản lý chất lượng vào hoạt động của một số đơn vị thuộc Bộ
Xây dựng, hoàn thiện hệ quy trình chuẩn giải quyết công việc (của từng đơn vị và của từng chức danh công chức/ viên chức thuộc Bộ) với những đặc tính như: khoa học, đơn giản, công khai, minh bạch,... nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công việc của từng khâu trong bộ máy hành chính và của từng chức danh công chức, trên cơ sở những yêu cầu của cải cách hành chính là một trong những mảng hoạt động nhằm đổi mới phương thức điều hành và hiện đại hoá công sở cơ quan Bộ. Từ năm 2004, các hoạt động này đã được chính thức đưa vào Kế hoạch CCHC của Bộ (với nguồn kinh phí chủ yếu do Tiểu Dự án Tăng cường năng lực quản lý hành chính, do Sida Thuỵ điển tài trợ).
Từ năm 2004, theo Kế hoạch CCHC, Bộ đã giao Viện khoa học pháp lý chủ trì tổ chức thực hiện một loạt các hoạt động nhằm xây dựng quy trình chuẩn giải quyết công việc của một số đơn vị, công chức, viên chức thuộc Bộ. Các hoạt động xây dựng quy trình chuẩn được triển khai dưới những hình thức như: Tổ chức lớp tập huấn về lý thuyết quản lý dựa trên kết quả công việc(RBM/ PM), với sự tham gia của các chuyên gia Thuỵ điển; Tổ chức hoạt động tự nghiên cứu mô tả thực trạng một số quy trình giải quyết công việc và thiết kế quy trình chuẩn (dựa trên cơ sở vận dụng lý thuyết P.M);Tổ chức Toạ đàm thảo luận, đóng góp ý kiến trực tiếp vào các phương án thiết kế quy trình chuẩn giải quyết công việc của một số đơn vị/ công chức/ viên chức thuộc Bộ.
Nhìn chung, xây dựng quy trình chuẩn giải quyết công việc là nội dung cải cách động chạm đến thói quen giải quyết, xử lý công việc của các đơn vị và từng cá nhân công chức nên đòi hỏi thời gian nghiên cứu, thử nghiệm và tác động dần dần đến nhận thức của cả công chức, viên chức lãnh đạo lẫn công chức, viên chức chuyên môn. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát của Ban chỉ đạo CCHC của Bộ thì hoạt động này được sự ủng hộ của đa số cán bộ, công chức trong Bộ.[22]
Trong thời gian sắp tới, Bộ sẽ tăng cường việc tuyên truyền về lý thuyết ISO trong các cơ quan hành chính cho cán bộ, công chức thuộc Bộ và tổ chức xây dựng Đề án dụng thí điểm mô hình hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 vào hoạt động của một số đơn vị (như Văn Phòng Bộ, một số đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ) cũng như tăng cường việc chỉ đạo hoàn thiện hệ thống quy trình chuẩn (cơ bản) giải quyết công việc của từng loại đơn vị, từng loại chức danh cán bộ, công chức, viên chức thuộc Bộ.
VII. VỀ HOẠT ĐỘNG CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA BỘ
1. Thực hiện các biện pháp về tổ chức nhằm tập trung việc chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ CCHC của Bộ
Để triển khai các nhiệm vụ cải cách hành chính của Ngành Tư pháp theo chỉ đạo của Ban Chỉ đạo CCHC của Chính phủ, từ năm 2004, Ban Cán sự Đảng và Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã tập trung kiện toàn, thành lập một số Ban Chỉ đạo để thực hiện các nhiệm vụ CCHC của Bộ. Cụ thể là:
i) Thứ nhất: Thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật (gọi tắt là Ban Chỉ đạo Chương trình 909) nhằm triển khai một trong 07 Chương trình hành động cấp quốc gia triển khai Chương trình tổng thể CCHC nhà nước từ 2001- 2010 do Chính phủ giao cho Bộ Tư pháp chủ trì (Bộ Trưởng Uông Chu Lưu làm Trưởng Ban)
ii) Thứ hai: Thành lập Ban Chỉ đạo CCHC của Bộ Tư pháp để chỉ đạo tổ chức triển khai các hoạt động CCHC chung của Bộ (Bộ trưởng Uông Chu Lưu làm Trưởng Ban).
iii) Thứ ba: Nhằm chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết 08/2004/NQ-CP của Chính phủ ngày 30/6/2004 về việc tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về công tác tư pháp (Bộ trưởng Uông Chu Lưu làm Trưởng Ban);
iv) Thứ tư: Để đẩy mạnh nhiêm vụ cải cách tài chính công thuộc thẩm quyền của Bộ, đã thành lập Ban Chỉ đạo chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện các đề án giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu và mở rộng thí điểm khoán biên chế, kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước theo yêu cầu của Nghị định số 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ và Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (Thứ trưởng Lê Thị Thu Ba làm Trưởng Ban Chỉ đạo).
2. Thực hiện việc kế hoạch hoá hoạt động CCHC của Bộ:
Ngay sau khi thành lập, Ban Chỉ đạo CCHC của Bộ đã khẩn trương xây dựng Kế hoạch CCHC hàng năm (năm 2004 năm 2005) và Chương trình CCHC giai đoạn 2005-2010 của Bộ. Đây là điểm đánh dấu sự chuyển biến tương đối mạnh mẽ trong phương thức chỉ đạo - triển khai hoạt động CCHC của Bộ, thể hiện xu hướng tiến hành hoạt động CCHC một cách bài bản, có hệ thống. Kế hoạch CCHC năm 2004 và Chương trình CCHC giai đoạn 2005-2010 có nội dung bám sát các yêu cầu của Chương trình tổng thể CCHC nhà nước đến 2010, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và gắn kết mật thiết, phục vụ tích cực cho các nhiệm vụ chuyên môn của ngành (các Kế hoạch, Chương trình này đã được gửi lên báo cáo Ban Chỉ đạo CCHC của Chính phủ trong các báo cáo trước đây).
3. Tiến hành các hoạt động cụ thể triển khai công việc CCHC
Ngoài các công việc chỉ đạo chung như: Tổ chức xây dựng và thông qua Kế hoạch nội dung và Kế hoạch kinh phí CCHC hàng năm; chỉ đạo việc thanh quyết toán kinh phí;tổ chức các cuộc họp định kỳ,…Ban chỉ đạo CCHC của Bộ còn trực tiếp chỉ đạo tiến hành một số hoạt động như:
- Trực tiếp chỉ đạo, tổ chức một số hoạt động CCHC có tính chất liên đơn vị như tổ chức Đoàn công tác liên vụ để tiến hành khảo sát dư luận xã hội về thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực như bán đấu giá tài sản, thi hành án, trợ giúp pháp lý (tháng 10/2004).
- Tổ chức hoạt động tổng kết CCHC giai đoạn I (2001-2005) của Bộ Tư pháp và bổ sung nội dung Chương trình CCHC 2006-2010 của Bộ. Cụ thể:
+ Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch tổng kết CCHC giai đoạn I của Bộ (gồm những hoạt động chính như: Hoạt động khảo sát; Xây dựng các báo cáo tổng kết nhánh trong từng lĩnh vực; xây dựng báo cáo Tổng kết CCHC chung của Bộ,…).
+ Đặc biệt, để có thêm cơ sở đánh giá chính xác về những kết quả, ưu điểm, tồn tại và khó khăn, những bài học kinh nghiệm của CCHC giai đoạn 2001-2005 nhằm phục vụ cho hoạt động Tổng kết, đồng thời để tìm ra những giải pháp thích hợp nhằm đẩy mạnh CCHC của Bộ trong giai đoạn tới 2006-2010, Ban Chỉ đạo đã tổ chức điều tra khảo sát thực tiễn (chủ yếu bằng phương thức phiếu điều tra) trong thời gian từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 9/2005. Đối tượng được hỏi ý kiến bao gồm một số cán bộ, công chức của các đơn vị thuộc Bộ (công chức lãnh đạo và công chức chuyên môn), cán bộ lãnh đạo và chuyên viên, chấp hành viên của một số Sở Tư pháp, cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, đại diện cho các vùng, miền khác nhau trong cả nước.[23]
VIII. ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT VỀ KẾT QUẢ CCHC CỦA BỘ GIAI ĐOẠN I, NHỮNG KHÓ KHĂN, TỒN TẠI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CCHC
1. Đánh giá khái quát về kết quả CCHC của Bộ giai đoạn I:
Hoạt động CCHC giai đoạn 2001-2005 của Bộ bước đầu đã thu được những kết quả nhất định, góp phần vào quá trình thực hiện các nhiệm vụ chính trị của ngành. Bên cạnh đó, các hoạt động này còn đóng vai trò khá quan trọng, tạo nhằm tạo tiền đề cho việc triển khai các hoạt động CCHC của Bộ trong giai đoạn tiếp theo.
Trong 04 nội dung lớn cần tiến hành cải cách hành chính (cải cách thể chế, tổ chức bộ máy, cán bộ và tài chính công) thì có thể nói thành công nhất trong hoạt động CCHC của Bộ tập trung vào lĩnh vực thể chế, thông qua qua khá nhiều nội dung của các dự án, dự thảo do Bộ chủ trì soạn thảo trình ban hành (hoặc ban hành theo thẩm quyền) đã thể hiện được tương đối rõ tinh thần cải cách hành chính nhà nước (về phân cấp, về đổi mới các trình tự, thủ tục hành chính, về đổi mới quy trình, thủ tục soạn thảo văn bản,…). Tiếp đến là một số thành công nhất định trong cải cách tổ chức bộ máy, thông qua việc hình thành một bộ máy cơ quan Bộ khá gọn nhẹ, phân định được tương đối rõ chức năng, thẩm quyền của các đơn vị thuộc Bộ và lĩnh vực cán bộ.[24]
Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, toàn diện thì những thành công của hoạt động CCHC của Bộ trong giai đoạn I còn rất khiêm tốn, mới đáp ứng được một phần những yêu cầu đặt ra trong các nhiệm vụ CCHC nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ của Bộ, xét cả về tiến độ triển khai lẫn hiệu quả tác động. Những hoạt động CCHC của Bộ trong giai đoạn vừa qua chưa tạo ra những thay đổi có tính đột phá, mang tính cải cách từ trong ý thức đến hành động và hiệu quả thực tế mà có thể chỉ được xem là bước khởi động đầu tiên trong một quy trình hoạt động đòi hỏi thời gian lâu dài, đòi hỏi những nỗ lực cả về bề rộng lẫn bề sâu.
2. Những bất cập, khó khăn chủ yếu và nguyên nhân:
2.1 Những bất cập, khó khăn:
i) Còn nhiều hoạt động không đảm bảo đúng tiến độ triển khai:
Đánh giá tổng thể, khoảng trên một nửa các nhiệm vụ CCHC được hoàn thành theo đúng tiến độ kế hoạch, các nhiệm vụ còn lại hoặc là đang thực hiện, hoặc là chưa được triển khai thực hiện, phải lùi sang kế hoạch của năm sau. Mặc dù từ năm 2004, các hoạt động CCHC đã được tiến hành bài bản, có kế hoạch hơn hẳn so với các năm trước đây, nhưng một số hoạt động CCHC vẫn còn triển khai chậm, thiếu đồng bộ, nên trong chừng mực nhất định chưa hỗ trợ kịp thời cho các hoạt động khác của Bộ, nhất là hoạt động xây dựng pháp luật;
ii) Việc triển khai các nhiệm vụ CCHC của Bộ vẫn chưa có sự phối hợp, kết nối chặt chẽ với việc triển khai các hoạt động CCHC của địa phương, nhiều mô hình thí điểm CCHC của địa phương trong một số lĩnh vực chưa được kịp thời sơ kết, tổng kết để rút kinh nghiệm và áp dụng chung trong phạm vi toàn ngành tư pháp (như trong lĩnh vực công chứng, hộ tịch, thi hành án, bán đấu giá tài sản,...);
iii) Mặc dù Bộ Tư pháp đã có nhiều cố gắng đẩy mạnh các hoạt động cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực tư pháp, nhưng những kết quả đạt được trong lĩnh vực này nhìn chung còn khiêm tốn, một số thủ tục hành chính hiện hành vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời, gây phiền hà cho dân, đặc biệt là trong lĩnh vực công chứng, hộ tịch.
iv) Việc thanh quyết toán kinh phí CCHC được cấp còn khá chậm, chưa đảm bảo yêu cầu tiến độ thanh quyết toán kinh phí của cơ quan tài chính.Các đơn vị còn thiếu chủ động trong việc thanh quyết toán kinh phí CCHC được cấp, không ít thủ trưởng của một số đơn vị còn rất ít quan tâm đến vấn đề này nên thiếu sự đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra việc thanh quyết toán kinh phí CCHC của đơn vị mình.
2.2 Nguyên nhân chính:
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, có thể kể ra một trong những nguyên nhân chính như sau:
i) Nhận thức về nhiệm vụ CCHC của cán bộ, công chức, viên chức của Bộ (kể cả một số cán bộ lãnh đạo cấp Vụ) còn chưa cao. Trên thực tế, tỷ lệ cán bộ công chức trong Bộ không quan tâm đến hoạt động CCHC trong Bộ là đáng kể.Thể hiện qua việc không nắm được chính xác Bộ Tư pháp bắt đầu chính thức ban hành kế hoạch CCHC từ năm nào, 2003 hay 2004, Bộ đã có Chương trình CCHC 05 năm hay chưa,…[25] Tuy đại đa số ý kiến khẳng định là triển khai CCHC ở Bộ thực sự cần thiết (97,1 %) nhưng trên thực tế không ít cán bộ lãnh đạo đơn vị và công chức vẫn cho rằng nhiệm vụ CCHC chỉ là nhiệm vụ thứ yếu bên cạnh các nhiệm vụ chuyên môn được giao, vì vậy thiếu nỗ lực triển khai các nhiệm vụ này. Bên cạnh đó, thói quen làm việc theo lối cũ, tâm lý ngại thay đổi, ngại áp dụng phương pháp làm việc mới vẫn tồn tại trong nhiều đơn vị, nhiều cá nhân cán bộ, công chức dẫn đến “ sức ỳ” đáng kể trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ CCHC (đây cũng có thể được xem là tình trạng chung của đa số các cơ quan trong bộ máy hành chính hiện nay);
ii) Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng ngoại trừ Ban Chỉ đạo Chương trình 909 thì Ban Chỉ đạo CCHC của Bộ và các Ban Chỉ đạo khác (thực hiện nhiệm vụ CCHC cụ thể) vẫn chưa phát huy hết vai trò của mình trong công tác chỉ đạo, điều hành việc triển khai nhiệm vụ CCHC của Bộ, thiếu sự chỉ đạo sát sao đối với việc triển khai các nhiệm vụ CCHC. [26]Do khối lượng công việc chuyên môn của các thành viên trong Ban khá bận rộn nên các Ban Chỉ đạo (nhất là Ban Chỉ đạo CCHC) ít duy trì được chế độ họp định kỳ hoặc họp theo chuyên đề. Đặc biệt, sự phối hợp,chia sẻ trách nhiệm giữa các thành viên trong từng Ban chỉ đạo còn khá lỏng lẻo.Tuy số lượng thành viên từng Ban Chỉ đạo khá đông (mỗi Ban khoảng trên dưới 10 người), nhưng hầu hết công việc của Ban chỉ đạo đều dồn trách nhiệm lên một số ít thành viên trong Ban (như Phụ trách Ban Chỉ đạo; Thường trực Ban chỉ đạo và một vài thành viên khác), vì vậy trong một số lĩnh vực nhất định, công tác chỉ đạo triển khai nhiệm vụ CCHC còn lơi lỏng, thiếu kịp thời, thiếu đồng bộ. Việc kiểm tra, đánh giá hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ CCHC theo kế hoạch hàng năm của Bộ thiếu sát sao, cụ thể. Bên cạnh đó, sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các Ban Chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ CCHC khác nhau trong Bộ cũng còn hạn chế.
iii) Tuy trong quá trình xây dựng kế hoạch CCHC hàng năm Ban Chỉ đạo CCHC luôn cố gắng xác định những vấn đề trọng tâm, trọng điểm cần cải cách nhưng các nội dung trong kế hoạch CCHC của Bộ trong hai năm vừa qua vẫn còn tương đối ôm đồm, dàn trải. Nhìn chung khối lượng công việc đề ra trong kế hoạch khá lớn so với khả năng thực hiện. Các phương pháp tiến hành hoạt động CCHC trong một số trường hợp còn chưa thực sự có hiệu quả.
iv) Do Bộ phải đảm nhiệm một khối lượng công việc được giao rất lớn hàng năm, từ các công việc thuộc nhiệm vụ xây dựng pháp luật đến các công việc thuộc nhiệm vụ quản lý nhà nước của ngành tư pháp như Thi hành án, công chứng, hộ tịch,... Chính vì vậy hầu như tất cả các đơn vị chức năng thuộc Bộ đều phải tập trung ưu tiên giải quyết các nhiệm vụ chuyên môn được giao mà khó có thể cân đối thời gian để thực hiện đúng tiến độ các nhiệm vụ CCHC giao cho đơn vị, trong điều kiện hạn hẹp cả về thời gian lẫn nhân sự.
v) Để đổi mới, đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng, hộ tịch, thi hành án thì việc xây dựng, sửa đổi các văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này là rất cần thiết, đặc biệt là các văn bản có giá trị pháp lý cao như pháp lệnh, nghị định. Tuy nhiên, cho đến quý III/2005 một số văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, chứa đựng nhiều thủ tục hành chính liên quan đến người dân, tổ chức chưa được ban hành kịp thời (VD: Nghị định thay thế Nghị định số 83 về đăng ký hộ tịch, Pháp lệnh công chứng...). Đây là một trong những nguyên nhân khách quan dẫn đến những vướng mắc, bất cập trong các thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, việc thanh, kiểm tra tình hình thực hiện công tác tư pháp địa phương cũng chưa được thực hiện thường xuyên nên việc chấn chỉnh, xử lý các cán bộ có hành vi sai trái, quan liêu, sách nhiễu dân trong quá trình giải quyết các thủ tục hành chính trong một số trường hợp còn chưa kịp thời.
3. Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình thực hiện các hoạt động CCHC trong giai đoạn I của Bộ Tư pháp (2001-2005) có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:
Thứ nhất: Cần tăng cường trách nhiệm của Ban Chỉ đạo trong việc tổ chức triển khai các nhiệm vụ CCHC (đặc biệt là trách nhiệm của cá nhân từng thành viên Ban Chỉ đạo), từ khâu phân công các thành viên trong Ban phụ trách từng mảng công việc đến khâu theo dõi, đôn đốc kiểm tra thực hiện các nhiệm vụ CCHC trong phạm vi được phân công. Đồng thời tăng cường các hoạt động chung của Ban chỉ đạo để kịp thời rút kinh nghiệm tổ chức công việc và tăng cường phối hợp công tác giữa các thành viên trong Ban chỉ đạo. Thực hiện việc thường xuyên trao đổi thông tin, phối hợp công việc giữa các Ban Chỉ đạo CCHC trong Bộ (04 Ban Chỉ đạo).
Thứ hai: Đổi mới cách thức xác định thứ tự ưu tiên của các nhiệm vụ CCHC.
Xây dựng kế hoạch theo hướng tập trung vào các nhiệm vụ thực chất là nhiệm vụ CCHC. Hạn chế việc đưa vào kế hoạch những nhiệm vụ vừa là nhiệm vụ chuyên môn, vừa là nhiệm vụ CCHC (đặc biệt là các nhiệm vụ xây dựng pháp luật).Cần tập trung vào những nhiệm vụ thiết thực, hiệu quả cải cách thể hiện rõ ràng, có tác động trực tiếp đến quy trình vận hành của bộ máy cơ quan Bộ như: Tăng cường kỷ luật hành chính trong cơ quan; cải tiến chế độ hội họp, thông tin báo cáo, chế độ văn thư cơ quan,…; tăng cường công tác tin học hoá trong hoạt động điều hành của bộ máy cơ quan Bộ; đổi mới quy trình giải quyết công việc của từng đơn vị và từng chức danh công chức theo hướng xây dựng quy trình chuẩn giải quyết công việc,… Đây là những nhiệm vụ thuộc một trong 04 lĩnh vực lớn cần cải cách. Tuy nhiên, việc thực hiện thành công những nhiệm vụ này thực sự sẽ mang tính "đột phá", tạo chuyển biến cơ bản trong đổi mới phương thức lề lối, làm việc của cả cơ quan Bộ, góp phần hỗ trợ cho việc thực hiện các nhiệm vụ CCHC khác, góp phần tăng cường năng lực của cả bộ máy hành chính cơ quan và góp phần trực tiếp tạo ra những chuyển biến thật sự trong nhận thức của cán bộ, công chức của Bộ về những tác động tích cực, sự cần thiết của cải cách hành chính.
Thứ ba: Cải tiến phương pháp tổ chức triển khai các nhiệm vụ CCHC
Cần tìm kiếm, lựa chọn những phương thức thích hợp để tăng cường hiệu quả của việc thực hiện các nhiệm vụ triển khai kế hoạch CCHC, như:
- Đẩy mạnh việc kiểm tra của Ban Chỉ đạo đối với việc thực hiện các nhiệm vụ CCHC bằng các phương thức như: Kiểm tra đột xuất, kiểm tra định kỳ.
- Tổ chức kịp thời việc sơ kết đánh giá những nhiệm vụ CCHC được xác định là mô hình thí điểm hoặc trọng điểm (như mô hình "một cửa" trong các lĩnh vực quản lý nhà nước đối với công tác tư pháp; sơ kết đánh giá kết quả rà soát các thủ tục hành chính liên quan đến dân, doanh nghiệp trong một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ,…)
Thứ tư: Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức các đơn vị (công chức lãnh đạo và công chức chuyên môn) trong việc thực hiện các nhiệm vụ CCHC. Cần có chính sách khen thưởng, khuyến khích đơn vị, cá nhân triển khai CCHC có hiệu quả.
Thông qua các biện pháp như:
- Tăng cường kỷ luật hành chính cơ quan;
- Tổ chức để các đơn vị luân phiên báo cáo, trao đổi kết quả thực hiện các nhiệm vụ CCHC của đơn vị mình;
- Tăng cường việc thông tin về các hoạt động CCHC của Bộ trên trang thông tin điện tử của Bộ;
- Mức độ thực hiện các nhiệm vụ CCHC được giao cần được coi là một trong những căn cứ để xét thi đua của các đơn vị, thủ trưởng đơn vị hàng năm,..
Thứ năm: Tăng cường các biện pháp phối hợp với địa phương trong quá trình triển khai các nhiệm vụ CCHC được giao
- Đặc biệt chú ý việc đảm bảo thu thập,tổng hợp, xử lý các thông tin của địa phương phản ánh về những bất cập, tồn tại trong các hoạt động chỉ đạo điều hành của Bộ (có liên quan đến những yêu cầu về CCHC);
- Tăng cường trao đổi thông tin giữa Bộ và địa phương về các hoạt động CCHC, kết quả thu được, những bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình triển khai các nhiệm vụ CCHC.
PHẦN II
PHƯƠNG HƯỚNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA BỘ TƯ PHÁP GIAI ĐOẠN 2006-2010
Bộ Tư pháp đã có Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2005-2010 (ban hành kèm theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp số 460/QĐ- BTP ngày 12 tháng 8 năm 2004). Phương hướng cải cách hành chính của Bộ Tư pháp 2006-2010 về cơ bản dựa trên cơ sở của Chương trình này, có bổ sung,cụ thể hoá một số nội dung nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu mới hiện nay về CCHC Nhà nước nói chung và CCHC của Bộ Tư pháp nói riêng. Cụ thể như sau:
I. MỤC TIÊU VÀ NHỮNG YÊU CẦU CHUNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA BỘ
1. Mục tiêu khái quát của cải cách hành chính của Bộ từ 2006 đến 2010.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện tổ chức bộ máy hành chính, tăng cường năng lực quản lý hành chính của Bộ Tư pháp với đầy đủ những thuộc tính của một nền hành chính công vụ hiện đại như dân chủ, vững mạnh, gọn nhẹ, linh hoạt, chuyên nghiệp và hoạt động có hiệu quả nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhiệm vụ của Bộ và của ngành trong quá trình cải cách hành chính nhà nước và cải cách tư pháp cả trong thời gian trước mắt và lâu dài. Phấn đấu đến năm 2010 tạo nên sự chuyển biến cơ bản trong hoạt động của bộ máy hành chính cơ quan Bộ.
Các mục tiêu chủ yếu như sau:
1.1. Hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ;
1.2. Nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả và hiện đại hoá hoạt động của bộ máy cơ quan Bộ Tư pháp và các đơn vị thuộc Bộ;
1.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ngành tư pháp trong sạch, vững mạnh, chính quy, hiện đại; đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, giỏi về trình độ năng lực, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của Bộ, ngành trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và nhu cầu hội nhập quốc tế;
1.4. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý về tài chính công trong phạm vi thẩm quyền của Bộ.
2. Các yêu cầu đối với nội dung chương trình cải cách hành chính của Bộ
2.1. Được xác định trên cơ sở các mục tiêu, nguyên tắc, yêu cầu,nội dung, của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 của 07 Chương trình hành động của Chính phủ, các yêu cầu của Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010 và định hướng 2020, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (theo tinh thần của các Nghị quyết của Bộ Chính trị số 48 - NQ/TW ngày 21/5/2005 và số 49 -NQ/TW ngày 02/6/2005).
2.2. Phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Bộ, của ngành, bám sát các yêu cầu đặt ra từ Chương trình hành động của ngành Tư pháp giai đoạn 2002-2007; có sự kết hợp chặt chẽ với nội dung của các Đề án, Dự án trong nước và quốc tế của Bộ đã được phê duyệt liên quan đến cải cách hành chính;
2.3. Các nội dung cải cách hành chính phải thể hiện được tư tưởng: Xác định rõ được trách nhiệm cá nhân của thủ trưởng đơn vị ở từng cấp quản lý, từng tổ chức, bộ phận đơn vị và trách nhiệm cá nhân của từng công chức; một đơn vị, một người có thể được giao nhiều việc, nhưng từng việc chỉ có một đơn vị hoặc một cá nhân công chức chịu trách nhiệm chính;
2.4. Phục vụ thiết thực nhiệm vụ của Bộ, ngành, nhưng không thay thế, chồng chéo các kế hoạch, chương trình công tác khác nhằm thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên của Bộ, ngành;
2.5. Đảm bảo tính kế thừa, liên thông trong từng giai đoạn kế hoạch; đảm bảo sự rõ ràng, tính khoa học, tính khả thi trong toàn bộ nội dung Chương trình;
2.6. Được xem xét để chỉnh sửa, bổ sung qua từng giai đoạn ngắn (01- 02 năm) nhằm đảm bảo phù hợp với các điều kiện cụ thể, các yêu cầu mới đặt ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của Bộ, ngành.
II. XÁC ĐỊNH BƯỚC ĐI, NHỮNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CỦA CHƯƠNG TRÌNH
1. Xác định bước đi
1.1 Giai đoạn một (2006 - 2009)
Tổ chức triển khai đồng bộ các nhiệm vụ CCHC thuộc Chương trình, trên cơ sở ưu tiên những nhiệm vụ trọng tâm của Chương trình.
1.2. Giai đoạn hai (2010)
i) Hoàn thành các nhiệm vụ CCHC thuộc Chương trình.
ii) Tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm về CCHC trong phạm vi của Bộ, ngành trong giai đoạn 5 năm 2006-2010 để chuẩn bị xây dựng Chương trình CCHC cho 5 năm tiếp theo của Bộ trên cơ sở định hướng của Chương trình tổng thể về CCHC Nhà nước ở giai đoạn sau.
2. Những nhiệm vụ trọng tâm trong toàn bộ quá trình triển khai Chương trình
2.1. Các nhiệm vụ về cải cách thể chế
Các nhiệm vụ ở lĩnh vực này được thực hiện đồng thời từ hai vị trí khác nhau của Bộ
i) Một là, vị trí ở tầm quốc gia, giúp Chính phủ thực hiện thành công các nhiệm vụ cải cách thể chế thuộc Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001- 2010 thông qua việc tổ chức thực hiện Chương trình Đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật (gọi tắt là Chương trình 909), nhằm tạo ra một bước chuyển biến cơ bản về chất trong công tác xây dựng,ban hành các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ chủ trì xây dựng hoặc ban hành.
Tham mưu cho Chính phủ trong kế hoạch triển khai Nghị Quyết 48 của Bộ Chính trị về Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010 và định hướng đến 2020 những nội dung liên quan đến Cải cách hành chính; gắn cải cách hành chính với triển khai các nội dung công tác của chiến lược Cải cách Tư pháp và xây dựng Nhà nước Pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
ii) Hai là, vị trí ở tầm Bộ, ngành, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Bộ Tư pháp, nhằm thực hiện những yêu cầu về cải cách thể chế được đặt ra đối với các Bộ trong khuôn khổ Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001- 2010.
Từ năm 2006 tập trung vào:
- Triển khai áp dụng kết quả nghiên cứu từ các Đề án của Chương trình 909 vào chính hoạt động CCHC của Bộ nhằm tạo ra những chuyển biến thực sự cơ bản trong quy trình, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản, nhằm nâng cao chất lượng nội dung các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo;
- Đẩy mạnh các hoạt động nhằm tạo ra được một cơ chế phối hợp chặt chẽ, thực sự hiệu quả giữa các đơn vị thuộc Bộ trong quá trình soạn thảo (hoặc thẩm định) dự án, dự thảo văn bản do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo (chủ yếu thông qua việc hoàn thiện nội dung và tổ chức thực hiện nghiêm các quy chế nội bộ của Bộ trong lĩnh vực này).
- Áp dụng các biện pháp có hiệu quả nhằm tăng cường hoạt động phối hợp giữa Bộ với địa phương trong quá trình soạn thảo các văn bản nói trên.
2.2. Cải cách thủ tục hành chính trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ
Cải cách về cơ bản các thủ tục hành chính trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, ngành thể hiện qua việc thường xuyên rà soát, loại bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, bất hợp lý trong các văn bản do Bộ chủ trì soạn thảo để trình ban hành hoặc tự ban hành.
Phấn đấu đến 2010 loại bỏ được hầu hết các thủ tục hành chính rườm rà, bất hợp lý trong nội dung các văn bản quy phạm pháp luật do Bộ chủ trì xây dựng hoặc ban hành.
Kịp thời sơ kết, tổng kết các mô hình thí điểm CCHC của địa phương, đặc biệt là áp dụng thủ tục ‘ một cửa”, để rút kinh nghiệm và áp dụng chung trong phạm vi toàn ngành tư pháp đối với những mô hình thành công.
2.3. Kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính cơ quan Bộ
Tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ trong việc chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc của Lãnh đạo Bộ, nội bộ từng đơn vị thuộc Bộ Tư pháp và trong điều hành công việc của các cơ quan tư pháp địa phương thông qua việc kiện toàn bộ máy, phân công trách nhiệm rõ ràng, có địa chỉ để kiểm tra, đánh giá đối với từng cấp, từng đơn vị và Thủ trưởng đơn vị.
Tập trung vào các khâu:
- Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong chính nội bộ cơ quan Bộ;
- Nâng cao năng lực của Văn phòng Bộ.
- Xây dựng, hoàn thiện các quy trình giải quyết công việc hợp lý, khoa học, có hiệu quả của cả bộ máy cơ quan và cá nhân từng chức danh công chức.
- Triển khai thí điểm và mở rộng từng bước việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng vào hoạt động của một số đơn vị thuộc Bộ.
2.4. Về đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ:
i) Đẩy mạnh việc thực hiện các hoạt động nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ của Bộ và của toàn ngành trên các phương diện: Đổi mới công tác quản lý cán bộ; tham gia cải cách tiền lương, các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức; tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cả về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ và tin học; nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức của cán bộ, công chức trong ngành. Phấn đấu đến năm 2010 có những chuyển biến, đổi mới về cơ bản trong công tác cán bộ của Bộ.
ii) Hình thành được chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ của Bộ Tư pháp đến năm 2020.
2.5. Hiện đại hoá về cơ bản hoạt động của bộ máy hành chính của Bộ Tư pháp và tăng cường hiện đại hoá trong công tác của các cơ quan tư pháp địa phương.
i) Phấn đấu đến năm 2010 tập trung hoàn thành việc xây dựng toàn bộ các cơ sở dữ liệu chuyên ngành phục vụ hoạt động chỉ đạo, điều hành của Bộ (như kiểm tra văn bản; công chứng; hộ tịch; thi hành án, đăng ký giao dịch có bảo đảm,...);
ii) Hoàn thành các phần mềm chuyên dụng để áp dụng cho từng lĩnh vực quản lý nhà nước, các hoạt động khác thuộc nhiệm vụ của Bộ và áp dụng cho công tác quản lý trong nội bộ từng đơn vị thuộc Bộ;
iii) Thực hiện việc hỗ trợ về cơ bản công tác hiện đại hoá công sở của các cơ quan tư pháp địa phương, trong đó tập trung vào việc tin học hoá đối với tất cả các Phòng công chứng và đối với phần lớn các đội thi hành án trên phạm vi toàn quốc (trang bị phần cứng, cài đặt các phần mềm chuyên dụng, thực hiện nối mạng trên phạm vi toàn quốc).
2.6 Tạo chuyển biến thực sự trong lĩnh vực tài chính công thuộc thẩm quyền của Bộ
i) Đổi mới về căn bản quy trình, thủ tục lập dự toán, cấp phát, thanh quyết toán kinh phí trong nội bộ cơ quan Bộ và đối với hệ thống các cơ quan thi hành án; tăng cường cơ chế kiểm tra, thanh tra tài chính trong phạm vi quản lý.
ii) Triển khai đồng bộ việc thực hiện Nghị định 130/ NĐ-CP của Chính phủ ngày 17 tháng 10 năm 2005 về việc áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với tất cả các đơn vị thuộc Bộ có tài khoản và con dấu riêng./.
PHỤ LỤC SỐ 1
SỐ LIỆU VỀ CẢI CÁCH THỂ CHẾ
(Kèm theo Công văn số 3441/BTP- CCHC, ngày 11 tháng 11 năm 2005)
Năm Nội dung | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | Tổng hợp | Ghi chú
|
1. Số lượng văn bản đã ban hành | 27 | 21 | 19 | 14 | 24 | 105 | Trong đó: - 01 Bộ luật - 02 Luật - 05 Pháp lệnh - 03 Nghị quyết - 21 Nghị định - 22 Quyết định - 08 Chỉ thị - 23 Thông tư - 20 Thông tư liên tịch
|
2. Số lượng văn bản đã được rà soát | 6 | 152 | 267 | 20 | 11 | 492 | -Lĩnh vực hành chính tư pháp:25 văn bản -Lĩnh vực Bổ trợ tư pháp: 4 văn bản -Lĩnh vực trợ giúp pháp lý:16 văn bản -Lĩnh vực thi hành án dân sự: 36 văn bản -Các văn bản liên quan hội nhập kinh tế quốc tế: 411 văn bản |
- Chia ra: |
|
|
|
|
|
|
|
+ Tự bãi bỏ
| 1 |
| 2 | 1 | 2 | 12 | -Lĩnh vực bổ trợ tư pháp:5 văn bản -Lĩnh vực trợ giúp pháp lý:1 văn bản -Lĩnh vực thi hành án dân sự: 6 văn bản |
+ Tự sửa đổi
|
| 1 |
|
| 1 | 11 | -Lĩnh vực hành chính tư pháp: 1 văn bản -Lĩnh vực bổ trợ tư pháp: 1 văn bản -Lĩnh vực thi hành án dân sự: 9 văn bản |
+ Đề nghị cấp trên sửa đổi hoặc bãi bỏ | 1 | 64 | 99 | 5 | 4 | 188 | -Lĩnh vực hành chính tư pháp: 4 văn bản -Lĩnh vực bổ trợ tư pháp: 8 văn bản -Lĩnh vực trợ giúp pháp lý: 4 văn bản -Lĩnh vực thi hành án : 15 văn bản -Các văn bản liên quan hội nhập kinh tế quốc tế: 157 văn bản |
3. Số lượng thủ tục hành chính qua rà soát | 1 | 1 | 1 | 62 | 23 | 88 | -Lĩnh vực hành chính tư pháp:48 văn bản -Lĩnh vực trợ giúp pháp lý: 5 văn bản -Lĩnh vực thi hành án dân sự: 35 văn bản |
-Chia ra:
|
|
|
|
|
|
|
|
+ Các thủ tục hành chính đặt ra ngoài quy định |
|
|
|
|
|
|
|
+ Tự bãi bỏ
|
|
|
|
|
|
|
|
+ Tự sửa đổi
|
|
|
|
| 10 | 10 | -Lĩnh vực thi hành án : 10 văn bản |
+ Đề nghị cấp trên sửa đổi hoặc bãi bỏ |
|
|
| 19 | 29 | 48 | -Lĩnh vực hành chính tư pháp :29 văn bản -Lĩnh vực thi hành án dân sự: 19 văn bản |
PHỤ LỤC SỐ 2
SỐ LIỆU VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY, BIÊN CHẾ
VÀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
(đối với các Bộ, ngành)
(Kèm theo Công văn số 3441/BTP- CCHC, ngày 11 tháng 11 năm 2005)
1. Các đơn vị thuộc Bộ: | 2001 | 2005 | Ghi chú | ||||||
- Tổng cục và tương đương | 0 | 0 |
| ||||||
- Cục và tương đương | 3 | 5
|
| ||||||
- Vụ và tương đương | 10 | 11 |
| ||||||
- Đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công | 5
| 7 |
| ||||||
2. Kết quả thực hiện cơ chế theo Quyết định 192 và Nghị định 10 |
|
|
| ||||||
Tổng số đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công … đã thực hiện Nghị định 10:….. |
| ||||||||
Tổng số cơ quan hành chính………đã thực hiện QĐ 192: |
| ||||||||
3. Biên chế: | 2001 | 2005 |
| ||||||
- Biên chế quản lý nhà nước | 284 | 349 |
| ||||||
- Biên chế sự nghiệp | 536 | 568 |
| ||||||
Kết quả giảm biên chế theo Nghị quyết 16 và 09 của Chính phủ tính đến thời điểm báo cáo (tháng 7 năm 2005) |
| ||||||||
|
|
|
| ||||||
5. Số lượng cán bộ, công chức qua đào tạo, bồi dưỡng |
| ||||||||
| 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | Tổng |
| ||
- Công chức hành chính | 164 | 151 | 139 | 150 | 139 | 743 |
| ||
- Viên chức sự nghiệp | 35 | 32 | 26 | 28 | 27 | 148 |
| ||
[1] Ban Chỉ đạo Chương trình 909 đã tập hợp, biên soạn và phát hành cuốn sách: "Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản triển khai " và cuốn tài liệu: " Cẩm nang công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật".
[2] Như góp phần nghiên cứu sửa đổi bổ sung đối với những văn bản mới ban hành như Nghị định 173; Nghị định 164 trong lĩnh vực thi hành án; góp phần hoàn thiện nội dung dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 86 về bán đấu giá tài sản; Nghị định thay thế Nghị định 83 về đăng ký và quản lý hộ tịch; góp phần hoàn thiện dự thảo Pháp lệnh Công chứng, Pháp lệnh trợ giúp pháp lý,...
[3] Theo số liệu của Bộ Nội Vụ, đối với cấp huyện, đến hết tháng 5/2005, đã có 63/64 tỉnh, thành phố triển khai (637/663 đơn vị cấp huyện), đạt tỷ lệ 96%. Đối với cấp xã, đã có 58/64 tỉnh, thành phố triển khai tại cấp xã, với 5326/10783 xã, phường, thị trấn trên cả nước, đạt tỷ lệ 49%.
[4] Ví dụ với việc áp dụng cơ chế " một cửa",tại Sở Tư pháp Thành Phố Hồ Chí Minh, thời gian cấp giấy chứng nhận kết hôn có yếu tố nước ngoài giảm từ 30 ngày theo quy định của pháp luật xuống còn 22 ngày; cấp phiếu lý lịch tư pháp đối với công dân tại Thành phố Hồ Chí Minh giảm từ 16 ngày làm việc theo quy định của Pháp luật xuống còn 12 ngày làm việc,…
[5] Nghị định 05/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2005 của Chính Phủ về bán đấu giá tài sản thì thời hạn cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử sụng đối với tài sản đã bán đấu giá là 30 ngày.
[6] Theo kết quả khảo sát của Ban Chỉ đạo CCHC thì 37,3 % ý kiến cho rằng năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện các công việc nói trên còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu công việc (nhất là hoạt động thẩm định văn bản QPPL).
[7] Theo kết quả khảo sát của Ban Chỉ đạo CCHC thì nhiều Bộ, ngành thường gửi công văn yêu cầu thẩm định chậm 04-05 ngày so với quy định. Cá biệt có những cơ quan gửi công văn đến Bộ Tư pháp yêu cầu thẩm định chỉ trước phiên họp Chính Phủ đúng 01 ngày.
[8] Theo Kết quả khảo sát của Ban Chỉ đạo CCHC của Bộ thì trong số các công chức được hỏi ý kiến chỉ có 27,3 % phản ánh là việc rà soát văn bản QPPL trong đơn vị họ được tiến hành thường xuyên; 60,6% cho biết việc rà soát chỉ tiến hành để phục vụ việc xây dựng một dự án, dự thảo văn bản QPPL được giao chủ trì soạn thảo; 50,5% ý kiến đánh giá là kết quả rà soát tốt, hiệu quả và 43,6% đánh giá là công tác rà soát còn chưa tốt.
[9] Theo kết quả khảo sát của Ban Chỉ đạo thì phía các đơn vị tham gia: 45,6% ý kiến cho rằng các đơn vị tham gia hầu như ít có công văn đề xuất hoặc nội dung công văn đề xuất sáng kiến lập pháp quá sơ sài; đơn vị chủ trì: yêu cầu có ý kiến đóng góp trong thời gian gấp (42,7% ý kiến); ít tổ chức họp để các đơn vị đóng góp ý kiến vào Dự thảo Chương trình (47,6% ý kiến), không có thông tin phản hồi cho các đơn vị tham gia về mức độ tiếp thu ý kiến đóng góp vào Dự thảo Chương trình (58,3% ý kiến). Bên cạnh đó, còn có những lý do khác như các đơn vị tham gia không đủ thông tin cần thiết để tham gia lập Dự kiến Chương trình.
[10] Có 61,9% ý kiến cho rằng do phía đơn vị chủ trì ít lấy ý kiến các đơn vị có liên quan hoặc có lấy ý kiến nhưng thường ít tiếp thu ý kiến đóng góp; 65,1% ý kiến cho rằng một số đơn vị tham gia không có công văn tham gia ý kiến hoặc có ý kiến nhưng chất lượng chưa đạt yêu cầu.
[11] Thành lập mới: Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Cục Con nuôi quốc tế, Vụ Pháp luật quốc tế, Trung tâm tin học, Nhà Xuất bản Tư pháp.
- Chuyển Vụ Quản lý tòa án địa phương sang Tòa án nhân dân tối cao (năm 2002).
[12] Theo kết quả khảo sát của Ban Chỉ đạo CCHC đối với các cán bộ cấp Vụ trong Bộ thì: 40,5 % cho rằng cần thành lập các tổ chức bên trong của một số đơn vị (như cần thành lập các Phòng, Ban của Vụ Hành chính Tư pháp; thành lập các phòng ban, các phòng nghiệp vụ ở các Cục và các đơn vị sự nghiệp).
[13] Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Lạng Sơn, Yên Bái, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Yên, Bạc Liêu.
[14] Theo kết quả khảo sát của Ban Chỉ đạo CCHC của Bộ thì 43,6% cán bộ cấp Vụ trả lời là chỉ thực hiện một số nội dung quy định của các quy chế trong quá trình triển khai nhiệm vụ được giao; 89,4% ý kiến cán bộ, công chức trong Bộ cho rằng cần đẩy mạnh việc thực hiện các quy chế; 22,7% ý kiến cho rằng cần sửa đổi, bổ sung các quy chế hiện có (như Quy chế thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; Quy chế cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng,…); 23,5% ý kiến cho rằng cần xây dựng, ban hành mới một số quy chế (như Quy chế hội họp; Quy chế đi thực tế ở cơ sở; Quy chế phân cấp,…)
[15] Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp xã. In ấn và phát về cho công chức tư pháp hộ tịch trên toàn quốc(Năm 2001); Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp huyện (2003), in ấn tài liệu và phát về cho Phòng Tư pháp trên toàn quốc.
- Chương trình khung và tài liệu đào tạo chức danh công chức tư pháp - hộ tịch các tỉnh vùng Tây Nguyên.(2004)
- Hệ thống các văn bản pháp luật về công tác tư pháp cấp xã (Năm 2004) ; Hệ thống các văn bản pháp luật về công tác tư pháp cấp huyện (Năm 2005)
- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế cho cán bộ ngành tư pháp.
[16] Các đơn vị được duyệt Đề án là: Đại học Luật Hà nội, Học Viện Tư pháp, Tạp chí dân chủ pháp luật. Ba trung tâm đăng ký giao dịch tài sản tại Thành Phố Hồ Chí Minh, Hà nội và Đà nẵng.
[17] Theo kết quả khảo sát của Ban Chỉ đạo CCHC đối với cán bộ, công chức thuộc Bộ thì 29,1% ý kiến của người được hỏi phản ánh việc thông báo kinh phí đến các đơn vị còn chậm; 49,1 % ý kiến cho rằng việc cấp kinh phí cho các đơn vị còn chưa kịp thời; 49,6% có quan điểm là việc thanh quyết toán kinh phí còn chưa thực sự thuận lợi.
[18] Theo kết quả xử lý phiếu khảo sát của Ban Chỉ đạo CCHC Bộ Tư pháp: Có 63% trên tổng số cán bộ công chức được hỏi ý kiến tại cơ quan Bộ cho rằng việc chấp hành kỷ luật hành chính của một bộ phận cán bộ, công chức còn mang tính đối phó.
[19] Theo kết quả khảo sát, 39,1% cán bộ, công chức được hỏi ý kiến trong Bộ cho rằng chế độ văn thư hiện nay chưa đạt yêu cầu (trong đó chưa đạt yêu cầu ở khâu công văn đến chiếm 40 % ý kiến, chưa đạt yêu cầu ở khâu CV đi chiếm 46% ý kiến). Có 71,1% cán bộ, công chức được hỏi ý kiến trong Bộ cho rằng chế độ cấp phát văn phòng phẩm hiện tại còn bất hợp lý.
[20] Theo kết quả khảo sát của Ban Chỉ đạo CCHC thì 59,9% ý kiến được hỏi cho rằng thông tin trên trang Web của Bộ còn nghèo nàn, không đáp ứng yêu cầu công tác ; 15,9% cho rằng việc thiết kế sơ đồ trang Web không hợp lý, khó khai thác và 36,2% ý kiến phản ánh là chưa được tập huấn sử dụng cách thức vào mạng.
[21] Cũng theo kết quả khảo sát nói trên, số người thường xuyên sử dụng CSDL PL của Bộ chiếm tỷ lệ 50%; 43% sử dụng không thường xuyên và 7% không sử dụng. Lý do chính của việc không sử dụng thường xuyên là: Rất khó kết nối từ cổng giao tiếp điện tử của Bộ (25,7%); khai thác thông tin qua các CSDL khác thuận lợi hơn (57,1%). Cũng có ý kiến cho rằng do chưa cập nhật đầy đủ các văn bản QPPL đã ban hành.
[22] Tỷ lệ 94% cán bộ, công chức được hỏi cho rằng cần thiết phải xây dựng các loại quy trình chuẩn để giải quyết công việc của đơn vị và cá nhân công chức.
[23] Bao gồm các địa phương: Hà nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Lạng sơn, Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Đà nẵng, Gia lai, Long an và Tây Ninh.
[24] Theo kết quả khảo sát của Ban Chỉ đạo CCHC Bộ thì 72,5% công chức thuộc Bộ cho rằng việc lĩnh vực cải cách thể chế được tiến hành mạnh nhất; 33% cho rằng mạnh nhất là tổ chức bộ máy và 33% cho rằng lĩnh vực cán bộ cải cách mạnh nhất.
[25] Bộ Tư Pháp bắt đầu ban hành Kế hoạch CCHC từ 2004, nhưng theo số liệu khảo sát của Ban Chỉ đạo CCHC thì chỉ 22,2% số cán bộ, công chức được hỏi trả lời đúng; 60 % cho rằng Bộ có Kế hoạch CCHC từ 2003; 17,8% trả lời không rõ.
[26] Theo kết quả khảo sát của Ban Chỉ đạo CCHC, có 43,2 % số cán bộ, công chức được hỏi ý kiến cho rằng hoạt động CCHC của Bộ trong thời gian mấy năm vừa qua chưa thực sự có hiệu quả là do Ban Chỉ đạo CCHC thiếu tổ chức, chỉ đạo sát sao.