BỘ TÀI CHÍNH ---------------- Số: 2944/QĐ-BTC | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------------------- Hà Nội, ngày 06 tháng 12 năm 2011 |
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN “KIỆN TOÀN VÀ TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC CÁC TỔ CHỨC PHÁP CHẾ NGÀNH TÀI CHÍNH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NHIỆM VỤ MỚI THEO QUY ĐỊNH TẠI NGHỊ ĐỊNH 55/2011/NĐ-CP”
-------------------------
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Căn cứ Nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ;
Căn cứ Nghị định số 118/2008/NĐ-CP ngày 27/11/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính;
Căn cứ Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế;
Theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Đề án “Kiện toàn và tăng cường năng lực các tổ chức pháp chế ngành tài chính đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới theo quy định tại Nghị định 55/2011/NĐ-CP.”
Điều 2. Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ có trách nhiệm tổ chức triển khai các nội dung của Đề án đã được phê duyệt đảm bảo đúng tiến độ, kịp thời báo cáo Bộ những vướng mắc trong triển khai thực hiện.
Điều 3. Vụ Kế hoạch - Tài chính có trách nhiệm bố trí kinh phí và điều kiện vật chất khác bảo đảm Đề án được triển khai có hiệu quả.
Vụ Hợp tác quốc tế có trách nhiệm rà soát, phát hiện kịp thời khả năng tài trợ từ các dự án để đề xuất việc hỗ trợ thực hiện Đề án.
Điều 4. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký. Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Tài chính, vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Chánh Văn Phòng Bộ Tài chính và Thủ trưởng các đơn vị, tổ chức thuộc Bộ và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện Quyết định này./.
Nơi nhận: - Lãnh đạo Bộ; - Như Điều 4; - Lưu: VT, PC. | BỘ TRƯỞNG Vương Đình Huệ |
ĐỀ ÁN
KIỆN TOÀN VÀ TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC CÁC TỔ CHỨC PHÁP CHẾ NGÀNH TÀI CHÍNH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NHIỆM VỤ MỚI THEO QUY ĐỊNH TẠI NGHỊ ĐỊNH 55/2011/NĐ-CP
Đặt vấn đề:
Để làm tốt vai trò thực hiện quản lý Nhà nước về tài chính bằng pháp luật, căn cứ Nghị định số 94/CP ngày 06 tháng 9 năm 1997 của Chính phủ về tổ chức pháp chế ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Vụ Pháp chế - Bộ Tài chính được thành lập. Cùng với việc thành lập tổ chức pháp chế Bộ, các tổ chức pháp chế tại các đơn vị thuộc Bộ cũng lần lượt được kiện toàn và thành lập, đáng chú ý nhất là Vụ Pháp chế - Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thuế, Ủy ban Chứng khoán nhà nước; Vụ Chính sách pháp chế - Tổng cục Dự trữ nhà nước, Phòng Pháp chế thuộc Vụ Tổng hợp pháp chế - Kho bạc nhà nước. Với những thuận lợi về tổ chức bộ máy như thế, công tác pháp chế những năm qua đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt ra tại Nghị định số 122/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và doanh nghiệp nhà nước (trước đây là Nghị định 94/CP).
Ngày 04/7/2011, Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2011/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế (gọi tắt là Nghị định 55/2011/NĐ-CP) thay thế Nghị định số 122/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế. Nghị định 55/2011/NĐ-CP có một số điểm mới so với Nghị định 122/2004/NĐ-CP, trong đó ngoài việc bổ sung một số chức năng, nhiệm vụ về công tác pháp chế, Nghị định đã xác định cụ thể, rõ ràng hơn về vị trí, chức năng của các tổ chức pháp chế; tiêu chuẩn người làm công tác pháp chế ở Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, tổ chức pháp chế ở các doanh nghiệp nhà nước.
Đề án này nhằm xác định một số hoạt động cụ thể để kiện toàn và tăng cường năng lực cho các tổ chức pháp chế ngành tài chính nói chung, Vụ Pháp chế Bộ Tài chính nói riêng để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới theo quy định tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP.
I. Sự cần thiết ban hành Đề án
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng qua tổng kết đánh giá một số năm cho thấy công tác pháp chế tài chính còn có những hạn chế nhất định, nhất là trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trước yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng và Nghị định số 55/2011/NĐ-CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế vừa được Chính phủ ban hành.
1. Thực trạng triển khai nhiệm vụ công tác pháp chế tài chính thời gian qua
Thời gian qua, mặc dù công tác pháp chế đã được triển khai khá toàn diện theo Nghị định 122/2004/NĐ-CP và đã có những đóng góp tích cực vào kết quả công tác chung của Bộ, song trên một số mặt công tác cụ thể vẫn còn có những hạn chế. Cụ thể như sau:
- Trong việc lập chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã bám sát được yêu cầu thực tế, công tác soạn thảo được quan tâm và luôn đạt tỷ lệ hoàn thành cao, nhưng thực tế vẫn còn tình trạng xin rút hoặc xin điều chỉnh tiến độ đối với một số văn bản.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thời gian gần đây đã có những chuyển biến tích cực với nhiều hình thức và đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao ý thức pháp luật cho các đối tượng, song tính chủ động trong triển khai thực hiện vẫn chưa cao.
- Công tác rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật đã đi vào nề nếp, kịp thời công bố các văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thi hành, qua đó giúp cho việc triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật hiệu quả. Tuy nhiên, số lượng văn bản quy phạm pháp luật ban hành nhiều trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế liên tục phát sinh sửa đổi, bổ sung, yêu cầu cập nhật, hệ thống hoá, công bố văn bản đang còn hiệu lực trở nên cấp bách, nhưng thời gian qua chưa có điều kiện thực hiện. Cần sớm triển khai nhiệm vụ này.
- Công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật là một trong những nhiệm vụ quan trọng mới phát sinh vào cuối năm 2004 nhưng đã được nghiên cứu, tổ chức triển khai đến từng đơn vị thuộc Bộ. Qua đó đã góp phần nâng cao ý thức cho cán bộ, công chức và trách nhiệm của các đơn vị trong việc tuân thủ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; công tác kiểm tra thực hiện văn bản đã từng bước phát huy hiệu quả, tạo kênh thông tin quan trọng cho việc hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật; công tác kiểm tra văn bản do Thủ trưởng đơn vị ký ban hành đã góp phần nâng cao vai trò, trách nhiệm của Thủ trưởng các đơn vị trong việc hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về tài chính. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn nhiều hạn chế về kỹ năng kiểm tra và xử lý các văn bản có dấu hiệu trái pháp luật; việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật mặc dù đã được thực hiện nhưng chưa đảm bảo duy trì, cập nhật những phát sinh, thay đổi.
- Nhiệm vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, theo dõi tình hình thi hành pháp luật, công tác về trách nhiệm bồi thường nhà nước là những nhiệm vụ cần phải tiếp tục nghiên cứu để triển khai phù hợp với đặc thù ngành tài chính. Hiện năng lực cán bộ dành cho thực hiện các nhiệm vụ này chưa được đáp ứng đầy đủ, kỹ năng thực hiện nhiệm vụ đang còn hạn chế.
- Về mối quan hệ công tác, vai trò đầu mối chủ trì, tập hợp lực lượng pháp chế tài chính tại các Tổng cục, Cục, Vụ trong Bộ thông qua việc phối hợp triển khai các nhiệm vụ pháp chế thời gian qua đã được quan tâm thực hiện. Tuy nhiên, vẫn chưa có một quy định cụ thể về cơ chế phối hợp trong việc thực hiện nhiệm vụ pháp chế giữa Bộ và các đơn vị (trước hết là với các Tổng cục). Vì vậy, có việc trùng lắp, có việc bỏ sót. Sự hỗ trợ lẫn nhau giữa pháp chế Bộ với pháp chế các Tổng cục và người làm công tác pháp chế tại các đơn vị còn hạn chế.
2. Thực trạng mô hình, tổ chức bộ máy pháp chế của ngành tài chính hiện nay
a. Mô hình tổ chức pháp chế ngành tài chính hiện nay đang thực hiện theo Nghị định số 122/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức pháp chế. Cụ thể như sau:
- Tại cơ quan Bộ có Vụ Pháp chế; Tổng cục Thuế, Hải quan, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước có Vụ Pháp chế độc lập; Tổng cục Dự trự Nhà nước, Kho bạc Nhà nước có tổ chức pháp chế ghép với bộ phận khác.
- Đối với các Cục thuộc Tổng cục: Hiện nay, chỉ có ngành thuế đang thí điểm có tổ chức pháp chế tại Cục thuế Hà Nội, Cục thuế thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, Cục thuế Hà Nội và Cục thuế thành phố Hồ Chí Minh có Phòng pháp chế độc lập, Cục thuế tại các địa phương còn lại, công tác pháp chế được giao cho phòng Tổng hợp - Nghiệp vụ - Dự toán.
- Đối với các Cục, Vụ thuộc Bộ: Hiện nay, ngoài Cục Quản lý giá có bố trí một số cán bộ làm công tác pháp chế, các Cục, Vụ khác thuộc Bộ đều chưa có tổ chức pháp chế độc lập, chưa bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác pháp chế.
- Đối với các doanh nghiệp mà Bộ Tài chính làm đại diện chủ sở hữu như: Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), Công ty mua bán nợ, Công ty in, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm lưu ký chứng khoán mới chỉ có SCIC có tổ chức pháp chế độc lập (Ban Pháp chế), các doanh nghiệp thuộc Bộ khác hoặc có tổ chức pháp chế lồng ghép (Công ty mua bán nợ, Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội) hoặc chỉ bố trí cán bộ làm công tác pháp chế kiêm nhiệm (Sở giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam).
Qua thực tế hoạt động, mô hình tổ chức pháp chế ngành tài chính có một số tồn tại như sau:
Một là, sự không thống nhất về tổ chức bộ máy pháp chế ở cấp Tổng cục: có Tổng cục thành lập tổ chức pháp chế độc lập, có Tổng cục thành lập tổ chức pháp chế ghép với bộ phận khác; không rõ con người làm công tác pháp chế tại các đơn vị thuộc Bộ nên có đơn vị bố trí cán bộ làm công tác pháp chế kiêm nhiệm, có đơn vị không bố trí cán bộ làm công tác pháp chế.
Hai là, thực tiễn một số mảng cho thấy tổ chức pháp chế, người làm công tác pháp chế tại các đơn vị chưa phát huy được vai trò của mình trong việc tham mưu giúp Thủ trưởng các đơn vị trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Quan hệ phối hợp, hỗ trợ giữa pháp chế Bộ với pháp chế các đơn vị, giữa pháp chế các đơn vị với nhau còn hạn chế.
Ba là, ở một số đơn vị, một số nhiệm vụ pháp chế còn chậm được triển khai; triển khai hình thức hoặc bỏ sót; trong khi đó, lại thiếu cơ chế kiểm tra, hỗ trợ.
b. Về cán bộ, công chức làm công tác pháp chế
- Cơ cấu về trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức đang làm công tác pháp chế ngành tài chính chưa phù hợp.
Cán bộ, công chức đang làm công tác pháp chế tại các đơn vị trong ngành tài chính đã tốt nghiệp trình độ cử nhân ở nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau như Kinh tế, Ngân hàng, Tài chính, Quản lý hành chính nhà nước, Kế toán, Ngoại thương… Trong đó, được phân thành 3 nhóm chính gồm: (i) nhóm thứ nhất mới được đào tạo chuyên về luật; (ii) nhóm thứ hai mới được đào tạo chuyên về tài chính - kinh tế; (iii) nhóm thứ ba được đào tạo luật hoặc tài chính -kinh tế, nhưng đã bổ sung kiến thức về tài chính hoặc luật (có bằng đại học thứ 2 về tài chính hoặc luật). Thực tiễn công tác đã chứng minh nhóm thứ ba là nhóm có trình độ chuyên môn phù hợp với công tác pháp chế tài chính nhất, đáp ứng được yêu cầu công việc tốt nhất. Tuy nhiên, số lượng cán bộ công chức thuộc nhóm thứ ba chưa nhiều. Các cán bộ, công chức đều tự học, tự bổ sung kiến thức; chưa được sự quan tâm và có chính sách đãi ngộ, hỗ trợ phù hợp từ cơ quan, đơn vị. Phần lớn cán bộ, công chức đang làm công tác pháp chế thuộc nhóm thứ nhất và thứ hai. Trong khi đó, những kiến thức, kinh nghiệm về tài chính hoặc pháp luật của cán bộ, công chức thuộc nhóm thứ nhất và thứ hai thu nhận được từ thực tiễn công tác chưa đầy đủ và thiếu hệ thống.
- Cán bộ, công chức làm công tác pháp chế chưa được bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ chuyên sâu; chưa được bồi dưỡng toàn diện kỹ năng, nghiệp vụ của công tác pháp chế.
Trước khi được tuyển dụng, cán bộ, công chức làm công tác pháp chế ngành tài chính mới được đào tạo kiến thức chung về pháp luật. Sau khi được tuyển dụng, cán bộ, công chức được tham gia các khoá tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn do cơ quan, đơn vị tổ chức. Trong quá trình làm việc, cán bộ, công chức tự cập nhập kiến thức pháp luật theo mảng nhiệm vụ được phân công như pháp luật về bảo hiểm, về hải quan, về thuế, về kế toán …; đồng thời tự bổ sung những kỹ năng, nghiệp vụ về soạn thảo văn bản, thẩm định văn bản, tuyên truyền pháp luật hay kiểm tra văn bản. Như vậy xét trên toàn cục, cán bộ, công chức pháp chế ngành tài chính vẫn chưa được bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ chuyên sâu một cách có hệ thống; chưa được bồi dưỡng các kỹ năng, nghiệp vụ của công tác pháp chế một cách đầy đủ, toàn diện.
3. Yêu cầu của tình hình mới (Nghị định số 55/2011/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế)
Nghị định 55/2011/NĐ-CP đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có 03 vấn đề hết sức quan trọng đó là:
a. Tổ chức bộ máy: Theo Nghị định 55/2011/NĐ-CP, tổ chức bộ máy được quy định như sau: Bộ có Vụ Pháp chế; Tổng cục và tương đương có tổ chức pháp chế; Cục thuộc Bộ có tổ chức pháp chế hoặc công chức pháp chế chuyên trách; doanh nghiệp thuộc Bộ có tổ chức pháp chế hoặc cán bộ chuyên trách; Sở Tài chính của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có Phòng Pháp chế.
b. Về chức năng, nhiệm vụ: Nghị định 55/2011/NĐ-CP đã giao ổn định 12 nhiệm vụ cho Vụ Pháp chế Bộ; 10 nhiệm vụ cho tổ chức pháp chế ở các Tổng cục và tương đương, Cục thuộc Bộ; 10 nhiệm vụ cho Phòng Pháp chế thuộc Sở Tài chính; 08 nhiệm vụ cho tổ chức pháp chế của doanh nghiệp thuộc Bộ. Ngoài ra, Vụ Pháp chế Bộ còn được giao thêm các nhiệm vụ (i) Hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ trong công tác pháp chế đối với tổ chức pháp chế ở các tổng cục và tương đương, Cục thuộc Bộ; Tổ chức pháp chế của các Sở Tài chính và các doanh nghiệp mà Bộ là đại diện chủ sở hữu phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; (ii) Thực hiện chương trình, kế hoạch, dự án hợp tác với nước ngoài về pháp luật theo sự phân công của Bộ trưởng; (iii) Triển khai công tác giám định tư pháp…
c. Về con người làm công tác pháp chế: Theo Nghị định 55/2011/NĐ-CP, trong vòng một (01) năm, kể từ ngày Nghị định có hiệu lực (25/8/2011), cán bộ, công chức làm công tác pháp chế chưa có trình độ cử nhân Luật phải tham gia chương trình đào tạo về pháp luật và bồi dưỡng kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ về công tác pháp chế; Sau năm năm phải có trình độ cử nhân Luật.
Theo đó, nếu không khẩn trương xây dựng chương trình, kế hoạch; tổ chức, triển khai các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, đặc biệt là chương trình đào tạo về pháp luật; bồi dưỡng kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ về công tác pháp chế và đào tạo cử nhân luật thì nhiều cán bộ, công chức pháp chế ngành tài chính sẽ gặp khó khăn khi thực hiện những nhiệm vụ được giao; đồng thời không được hưởng chế độ phụ cấp ưu đãi nghề theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Nghị định số 55/2011/NĐ-CP sau năm (05) năm kể từ ngày Nghị định số 55/2011/NĐ-CP có hiệu lực pháp luật.
Từ những phân tích trên cho thấy việc xây dựng Đề án “Kiện toàn và tăng cường năng lực tổ chức pháp chế ngành tài chính để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới theo quy định tại Nghị định 55/2011/NĐ-CP” là cần thiết.
II. Mục tiêu của Đề án
1. Mục tiêu chung
- Nâng cao năng lực các tổ chức pháp chế tài chính cả về tổ chức bộ máy, con người làm công tác pháp chế.
- Đáp ứng yêu cầu xây dựng tổ chức pháp chế tài chính theo mô hình thống nhất đáp ứng quy định tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bố trí nguồn nhân lực, các điều kiện bảo đảm tổ chức triển khai đồng bộ công tác pháp chế trong ngành tài chính tạo sự chuyển biến cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức pháp chế trong ngành tài chính từ trung ương đến địa phương, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực tài chính.
- Hoàn thiện, nâng cao kiến thức về pháp luật; kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ về công tác pháp chế theo quy định tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP; đồng thời bổ sung kiến thức chuyên sâu, kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên làm công tác pháp chế (sau đây gọi là người làm công tác pháp chế) trong ngành tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu của công việc trong tình hình mới.
2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và kiện toàn về mặt tổ chức của pháp chế thuộc các đơn vị thuộc Bộ từ Trung ương đến địa phương, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong các lĩnh vực tài chính bằng pháp luật, bảo đảm tính thống nhất, minh bạch, kỷ cương, kỷ luật tài chính và hiện đại hoá nền tài chính quốc gia.
- Hoàn thiện về tổ chức bộ máy bên trong của Vụ Pháp chế Bộ Tài chính để triển khai tốt các nhiệm vụ được giao theo Nghị định số 55/2011/NĐ-CP.
- Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức pháp chế để đáp ứng yêu cầu sau một (01) năm phải được đào tạo về pháp luật và bồi dưỡng kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ về công tác pháp chế; sau năm (05) năm phải có trình độ cử nhân Luật (đối với cán bộ, công chức chưa có bằng cử nhân Luật) và đáp ứng yêu cầu trình độ, yêu cầu chuyên sâu cao trong một số lĩnh vực pháp luật cụ thể; thường xuyên cập nhật kiến thức, nghiệp vụ chuyên sâu, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ liên quan cho người làm công tác pháp chế ngành tài chính.
- Xây dựng và vận hành Quy chế phối hợp công tác pháp chế trong toàn ngành Tài chính (Bộ - Tổng cục - Cục, Vụ).
III. Nội dung các hoạt động của Đề án
Để triển khai Đề án cần thực hiện các hoạt động sau:
A. Hoạt động 1: Khảo sát đánh giá tình hình tổ chức bộ máy và người làm công tác pháp chế của ngành tài chính
1. Mục đích hoạt động:
Tổng kết đánh giá mô hình tổ chức; năng lực, trình độ người làm công tác pháp chế; và kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ tại (i) Vụ Pháp chế Bộ, (ii) Pháp chế các Tổng cục ngành dọc, (iii) các Vụ, Cục thuộc Bộ, (iv) các doanh nghiệp và tổ chức khác thuộc Bộ. Trên cơ sở đó, làm rõ những tồn tại, hạn chế và các yêu cầu đặt ra trong việc thực hiện Nghị định số 55/2011/NĐ-CP.
2. Nội dung hoạt động và cách thức tiến hành:
(i) Hệ thống hoá chức năng, nhiệm vụ của Vụ Pháp chế Bộ và các tổ chức pháp chế thuộc các đơn vị thuộc Bộ được quy định tại các văn bản và thực tế triển khai.
(ii) Xây dựng đề cương, thiết kế mẫu phiếu khảo sát đối với 04 nhóm đơn vị (Vụ Pháp chế Bộ; Pháp chế thuộc các Tổng cục hoặc tương đương bao gồm các đơn vị trực thuộc Tổng cục ở địa phương; các Cục, Vụ thuộc Bộ; các doanh nghiệp và tổ chức khác thuộc Bộ) nhằm đánh giá những nội dung sau:
- Về mô hình tổ chức bộ máy
- Về tình hình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
- Về đội ngũ người làm công tác pháp chế
(iii) Tiến hành khảo sát và tổng hợp báo cáo kết quả khảo sát:
(iv) Tổ chức trao đổi kinh nghiệm với các tổ chức pháp chế Bộ, ngành khác; toạ đàm, thảo luận về báo cáo đánh giá.
3. Phân công thực hiện
(i) Xây dựng Phiếu khảo sát: Vụ Pháp chế chủ trì phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ và các đơn vị thực hiện.
(ii) Lập kế hoạch triển khai thực hiện: Vụ Pháp chế chủ trì phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ thực hiện
(iii) Triển khai khảo sát
- Khảo sát tại Vụ Pháp chế Bộ: Vụ Pháp chế, Vụ Tổ chức cán bộ phối hợp thực hiện.
- Khảo sát tại các Tổng cục: Các Tổng cục chủ trì phối hợp với Vụ Pháp chế Bộ, Vụ Tổ chức cán bộ thực hiện.
- Khảo sát tại các Vụ, Cục: Các đơn vị chủ trì, phối hợp với Vụ Pháp chế Bộ, Vụ Tổ chức cán bộ và các Vụ, Cục thực hiện.
- Khảo sát tại các doanh nghiệp và tổ chức khác: Các đơn vị chủ trì, phối hợp với Vụ Pháp chế Bộ, Vụ Tổ chức cán bộ và các doanh nghiệp, tổ chức khác thực hiện.
(iv) Tổng hợp báo cáo chung
- Vụ Pháp chế tổng hợp kết quả khảo sát và phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ tổ chức hội thảo, tọa đàm hoàn thiện báo cáo đánh giá thực trạng.
4. Kết quả Hoạt động:
Báo cáo đánh giá gồm 3 phần:
- Đánh giá về mô hình tổ chức pháp chế tài chính
- Đánh giá về tình hình thực hiện công việc, nhiệm vụ pháp chế tài chính tại các đơn vị
- Đánh giá về năng lực, trình độ người làm công tác pháp chế tài chính tại các đơn vị
5. Thời gian thực hiện:
Hoàn thành trong Quý I/2012.
B. Hoạt động 2: Nghiên cứu đề xuất mô hình hoạt động tổ chức pháp chế ngành tài chính
1. Mục đích Hoạt động
Đề xuất phương án, mô hình tổ chức pháp chế tại Vụ Pháp chế Bộ, tại các Tổng cục, các Cục, Vụ và các doanh nghiệp, tổ chức khác thuộc Bộ. Trên cơ sở đó, đề xuất việc kiện toàn đối với từng loại hình tổ chức, bao gồm cả việc định hướng thành lập mới ở những nơi xác định có tổ chức pháp chế mà chưa thành lập.
2. Nội dung hoạt động và phân công thực hiện
(i) Nghiên cứu đề xuất mô hình tổ chức, bộ máy bên trong của Vụ Pháp chế Bộ để bảo đảm thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ của Pháp chế Bộ, ngành theo yêu cầu tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP. Theo đó, thực hiện phân loại xếp nhóm và xác định mối quan hệ giữa các nhiệm vụ; xác định số phòng trong Vụ, định biên, mô tả vị trí làm việc của cán bộ, công chức trong phòng, trong Vụ.
- Vụ Pháp chế Bộ chủ trì phối hợp với vụ Tổ chức cán bộ thực hiện.
- Kết quả hoạt động: Báo cáo/Đề án đề xuất
- Thời gian hoàn thành trong Quý I/2012
(ii) Nghiên cứu đề xuất mô hình tổ chức pháp chế tài chính tại các Tổng cục, trên cơ sở đó xác định yêu cầu kiện toàn hoặc thành lập mới tổ chức pháp chế tại Tổng cục, tại các Cục cấp tỉnh (hoặc liên tỉnh) đáp ứng yêu cầu tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP (Bao gồm tiêu chí kiện toàn thành lập; mô hình tổ chức bên trong, mô tả vị trí làm việc làm cơ sở định biên người làm công tác pháp chế trong tổ chức pháp chế).
- Các Tổng cục chủ trì phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Pháp chế Bộ thực hiện.
- Kết quả hoạt động: Báo cáo/Đề án đề xuất
- Thời hạn hoàn thành: trong Quý I/2012
(iii) Nghiên cứu đề xuất mô hình tổ chức pháp chế tài chính tại các Cục, Vụ thuộc Bộ đáp ứng yêu cầu tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP. Lựa chọn và xác định mô hình thích hợp để thực hiện trong đơn vị (Có tổ chức pháp chế thuộc đơn vị, hoặc lồng ghép nhiệm vụ pháp chế với một đơn vị hiện có, hoặc bố trí người làm công tác pháp chế).
- Các đơn vị chủ trì, phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Pháp chế Bộ thực hiện
- Kết quả hoạt động: Báo cáo/Đề án đề xuất
- Thời hạn hoàn thành: trong Quý I/2012
(iv) Nghiên cứu đề xuất mô hình tổ chức pháp chế tài chính tại các doanh nghiệp và các tổ chức khác thuộc Bộ đáp ứng yêu cầu tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP
- Các đơn vị chủ trì, phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Pháp chế Bộ thực hiện
- Kết quả hoạt động: Báo cáo/Đề án đề xuất
- Thời gian hoàn thành: trong Quý I/2012
3. Cách thức tiến hành
(i) Các đơn vị chủ trì:
- Căn cứ kết quả khảo sát đánh giá thực hiện, nhu cầu kiện toàn/ thành lập mới tổ chức pháp chế nghiên cứu lập Báo cáo/ Đề án thực hiện.
- Phối hợp Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Pháp chế Bộ tổ chức hội thảo, tọa đàm
- Hoàn chỉnh Báo cáo/Đề án lấy ý kiến các đơn vị liên quan gửi Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Pháp chế Bộ
(ii) Vụ Tổ chức cán bộ phối hợp với Vụ Pháp chế Bộ thẩm định, làm cơ sở trình Bộ quyết định để thực hiện theo quy định hiện hành của Bộ.
4. Kết quả toàn bộ hoạt động
- Báo cáo/Đề án định hướng thành lập tổ chức pháp chế tài chính (Tổ chức riêng, tổ chức ghép, bố trí người làm pháp chế) tại các Tổng cục, các Cục, Vụ, các doanh nghiệp và tổ chức khác thuộc Bộ.
- Dự thảo Quyết định bổ sung hoàn thiện chức năng nhiệm vụ của các đơn vị.
- Dự thảo Quy chế phối hợp trong công tác pháp chế của Bộ/ngành Tài chính.
5. Thời gian thực hiện:
Hoàn thành trong Quý II/2012.
C. Hoạt động 3: Xác định nhu cầu, lập ma trận bố trí người tham gia đào tạo và tổ chức thực hiện đào tạo đáp ứng yêu cầu về người làm công tác pháp chế theo Nghị định số 55/2011/NĐ-CP
1. Nội dung hoạt động và phân công thực hiện
(i) Bồi dưỡng kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ về công tác pháp chế đối với bộ phận cán bộ công chức chưa có trình độ cử nhân Luật (kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến giáo dục pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật…) để đáp ứng yêu cầu trước mắt theo Nghị định số 55/2011/NĐ-CP.
- Lập kế hoạch nhu cầu, chủ động xác định số người làm công tác pháp chế tài chính thuộc đối tượng quy định tham gia các lớp bồi dưỡng do Bộ Tư pháp tổ chức.
- Trường hợp cần thiết, có nhu cầu lớn, phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức các lớp bồi dưỡng riêng cán bộ, công chức ngành tài chính.
- Phân công thực hiện:
+ Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ: Lập kế hoạch nhu cầu gửi Vụ Pháp chế Bộ tổng hợp gửi Vụ Tổ chức cán bộ làm thủ tục; căn cứ chương trình, kế hoạch được thông báo để cử cán bộ, công chức của đơn vị mình tham gia các lớp bồi dưỡng do Bộ Tư pháp tổ chức;
+ Vụ Pháp chế Bộ phối hợp Vụ Tổ chức cán bộ tổng hợp nhu cầu; căn cứ chương trình, kế hoạch được thông báo để trình Bộ có văn bản cử cán bộ, công chức của Bộ Tài chính tham gia các lớp bồi dưỡng do Bộ Tư pháp tổ chức; làm việc với Bộ Tư pháp trong trường hợp cần thiết và có nhu cầu lớn để tổ chức các lớp bồi dưỡng riêng cán bộ, công chức ngành tài chính.
- Thời gian hoàn thành: 12 tháng tính từ ngày hiệu lực của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP (25/8/2011).
(ii) Đào tạo cử nhân luật cho cán bộ, công chức làm công tác pháp chế mà chưa có bằng cử nhân luật để đáp ứng yêu cầu sau năm (05) năm kể từ ngày Nghị định 55/2011/NĐ-CP có hiệu lực phải có bằng cử nhân Luật.
- Lập kế hoạch nhu cầu, xây dựng ma trận cử cán bộ, công chức làm công tác pháp chế đi đào tạo cử nhân luật theo hai hình thức là tại chức hoặc văn bằng hai không được ảnh hưởng đến nguồn lực thực hiện nhiệm vụ chính trị hàng năm của đơn vị.
- Từ năm 2012, tổ chức nghiên cứu, trình Bộ bổ sung vào các văn bản liên quan của ngành tài chính trong đó quy định về tiêu chuẩn tuyển dụng cán bộ, công chức làm công tác pháp chế phải có trình độ nhân luật trở lên (đã có bằng cử nhân Luật hoặc đã có bằng hai cử nhân Luật).
- Nghiên cứu tiền khả thi Đề án đào tạo chuyên ngành Luật tài chính tại Học viện Tài chính đáp ứng yêu cầu người làm công tác pháp chế tài chính cho ngành và cho xã hội.
- Phân công thực hiện:
+ Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ: Lập kế hoạch, nhu cầu, xây dựng ma trận, cử người làm công tác pháp chế đi đào tạo. Cử và tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, công chức làm công tác pháp chế tham gia đào tạo cử nhân luật theo kế hoạch.
+ Vụ Pháp chế Bộ phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ tập hợp danh sách cán bộ, công chức thuộc đối tượng phải bổ sung đào tạo cử nhân Luật
+ Học viện Tài chính phối hợp với Vụ Pháp chế, Vụ Tổ chức cán bộ xây dựng đề án đào tạo chuyên ngành Luật Tài chính để đáp ứng nhu cầu đào tạo cán bộ pháp chế tài chính cho Bộ, ngành và xã hội.
- Thời gian hoàn thành: Không chậm hơn năm (05) năm tính từ ngày hiệu lực của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP (25/8/2011).
(iii) Bồi dưỡng về kiến thức, nghiệp vụ chuyên sâu trong một số lĩnh vực pháp luật (như pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về tố tụng hành chính, dân sự và hình sự, pháp luật về giám định tư pháp, pháp luật quốc tế) nhằm đáp ứng với nhiệm vụ yêu cầu chuyên môn cao đặt ra.
- Nghiên cứu, xác định chủ đề, lĩnh vực có yêu cầu bồi dưỡng chuyên sâu như những chủ đề có tính bao quát, liên quan đến nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tài chính (giám định tư pháp, giải quyết khiếu nại, giải quyết tranh chấp hành chính, giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài …).
- Xác định nội dung bồi dưỡng chuyên sâu; đối tượng, phương thức và xác định lịch trình thời gian bồi dưỡng thực hiện
- Phân công thực hiện
+ Vụ Pháp chế Bộ nghiên cứu xác định chủ đề, kế hoạch, nội dung; triển khai tổ chức các lớp bồi dưỡng.
+ Các đơn vị lập danh sách cử người tham gia lớp bồi dưỡng theo thông báo của Vụ Pháp chế.
Vụ Tổ chức cán bộ ra Quyết định cử cán bộ, công chức tham gia lớp bồi dưỡng về kiến thức, nghiệp vụ chuyên sâu; lập danh sách lớp bồi dưỡng; tham gia quản lý lớp bồi dưỡng; thực hiện việc theo dõi quản lý theo quy định.
- Thời gian hoàn thành: Thực hiện theo các mốc thời gian của chương trình, kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ.
(iv) Bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ liên quan đến công tác pháp chế
- Nghiên cứu, xác định chủ đề, lĩnh vực cần bồi dưỡng kỹ năng như rà soát, hệ thống hoá và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật tài chính; phổ biến, giáo dục pháp luật; giải quyết bồi thường nhà nước, tham gia hoạt động tố tụng…
- Xác định nội dung bồi dưỡng kỹ năng; đối tượng, phương thức và xác định lịch trình thời gian bồi dưỡng thực hiện
- Phân công thực hiện
+ Vụ Pháp chế Bộ nghiên cứu xác định chủ đề bồi dưỡng, kế hoạch, nội dung; triển khai tổ chức các lớp bồi dưỡng (mời báo cáo viên; tổ chức lớp bồi dưỡng và cấp chứng chỉ bồi dưỡng theo quy định).
+ Các đơn vị lập danh sách cử người tham gia lớp bồi dưỡng theo thông báo của Vụ Pháp chế.
Vụ Tổ chức cán bộ ra Quyết định cử cán bộ, công chức tham gia lớp bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ; lập danh sách lớp bồi dưỡng kỹ năng; tham gia quản lý lớp bồi dưỡng; thực hiện việc theo dõi quản lý theo quy định.
- Thời gian hoàn thành: Thực hiện hàng năm
IV. Tổ chức thực hiện Đề án
1. Căn cứ đề án được phê duyệt, thành lập Tổ Thường trực triển khai thực hiện Đề án.
Tổ thường trực do Vụ trưởng Vụ Pháp chế làm Tổ trưởng; Lãnh đạo Vụ Tổ chức cán bộ làm Tổ phó; Thành viên là Lãnh đạo phụ trách công tác pháp chế của đại diện một số loại hình đơn vị thuộc Bộ.
Tổ Thường trực có trách nhiệm hướng dẫn triển khai, chỉ đạo chung thực hiện Đề án; định kỳ báo cáo Bộ trưởng, Thứ trưởng phụ trách và các Lãnh đạo Bộ liên quan.
2. Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ căn cứ nhiệm vụ chủ trì, nghiên cứu phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ có liên quan tổ chức thực hiện Đề án trong phạm vi lĩnh vực phụ trách.
3. Vụ Kế hoạch - Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn, phối hợp với các đơn vị liên quan lập dự toán kinh phí, cấp phát và bố trí kinh phí thực hiện Đề án trên cơ sở khái toán kinh phí thực hiện nêu tại Phụ lục kèm theo. Nguồn kinh phí thực hiện lấy từ nguồn kinh phí thường xuyên của cơ quan Bộ, kinh phí của các đơn vị được giao tự chủ và nguồn kinh phí hỗ trợ, huy động khác theo quy định của pháp luật.
4. Vụ Hợp tác quốc tế thực hiện rà soát các dự án quốc tế của Vụ, phát hiện khả năng tài trợ từ các dự án để đề xuất việc hỗ trợ thực hiện Đề án./.