Số 18.2007 (323) ngày 11/05/2007

 QUỐC HỘI


Pháp lệnh bảo vệ công trình quan trọng về an ninh quốc gia
(SMS: 202708)
- Pháp lệnh số 32/2007/PL-UBTVQH11 được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 20/4/2007 quy định: bảo vệ công trình quan trọng liên quan đến ANQG là trách nhiệm của toàn dân, của cơ quan, tổ chức quản lý công trình, của lực lượng bảo vệ, trong đó lực lượng bảo vệ công an, quân đội làm nòng cốt.
Công trình quan trọng liên quan đến ANQG được đầu tư bằng 100% vốn từ ngân sách Nhà nước thì kinh phí dành cho công tác bảo vệ được bảo đảm theo quy định của Chính phủ. Công trình quan trọng về ANQG được đầu tư bằng các nguồn vốn không thuộc ngân sách Nhà nước thì được bảo đảm kinh phí hoạt động cho lực lượng Công an, Quân đội, riêng kinh phí bảo vệ của cơ quan, tổ chức, cá nhân được Nhà nước hỗ trợ một phần.
Công trình quan trọng liên quan đến ANQG phải có đủ 2 tiêu chí. Một là, công trình tập trung bí mật Nhà nước hoặc là nơi lưu giữ, bảo quản những hiện vật, tài liệu có giá trị đặc biệt quan trọng, nơi bảo quản những vật liệu, chất đặc biệt nguy hiểm đối với sự sống con người, môi trường sinh thái, cơ sở vật chất đặc biệt quan trọng khác liên quan an ninh quốc gia. Hai là, công trình đòi hỏi phải áp dụng công tác bảo vệ đặc biệt, tuyệt đối an toàn trong quá trình khảo sát, thiết kế, xây dựng, quản lý và sử dụng.
Trách nhiệm chủ yếu bảo vệ công trình quan trọng về ANQG được giao cho Bộ Công an, Bộ Quốc phòng như: Tổ chức thu thập thông tin, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình và đề xuất các chủ trương, giải pháp, phương án bảo vệ công trình; thực hiện các hoạt động bảo vệ, tuần tra, canh gác; áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm an ninh, an toàn cho người và công trình trong quá trình khảo sát, thiết kế, xây dựng, sử dụng...

Pháp lệnh có hiệu lực kể từ ngày 01/10/2007.
 

 CHÍNH PHỦ


Triển khai thi hành Luật Kinh doanh bất động sản
(SMS: 202725)
- Theo Chỉ Thị số 11/2007/CT-TTg ra ngày 08/5/2007, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu: chậm nhất trong quý II/2007, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải hoàn thành việc rà soát và bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định do địa phương đã ban hành trước đây không còn phù hợp hoặc trái với quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản...
Bộ Tài chính khẩn trương nghiên cứu, đề xuất ban hành các chính sách về thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế và các nghĩa vụ tài chính khác liên quan đến hoạt động kinh doanh bất động sản nhằm thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển...
Bộ Xây dựng nghiên cứu trình Chính phủ Đề án thúc đẩy phát triển đồng bộ thị trường bất động sản tạo khung pháp lý để mở rộng từng bước quyền của các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường bất động sản phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế...
Chỉ thị này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.


Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4 năm 2007
(SMS: 202726)
- Theo Nghị quyết số 26/2007/NQ-CP ra ngày 07/5/2007, Chính phủ đánh giá: về tình hình thực hiện công tác cải cách hành chính trong quý I năm 2007, Chính phủ yêu cấu việc cải cách không chỉ tháo gỡ những vướng mắc về thủ tục, đặc biệt là các thủ tục trong lĩnh vực quản lý đất đai, đầu tư, xây dựng, đăng ký kinh doanh... cho người dân và doanh nghiệp mà còn có tác dụng thiết thực trong việc chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính và đổi mới lề lối làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước. Trong thời gian tới, các bộ, ngành và địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh công tác này; tiến hành thành lập Tổ rà soát các thủ tục hành chính, tiếp tục nghiên cứu, lấy ý kiến rộng rãi của các đối tượng thi hành để cải tiến, sửa đổi các thủ tục hành chính có liên quan theo hướng ngày càng đơn giản, thuận tiện và nhanh chóng...
Để hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2007, cần kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, đồng thời tập trung chỉ đạo các biện pháp kiểm soát kinh tế vĩ mô và giá cả thị trường, không để tăng giá đột biến, nhất là đối với giá xăng dầu; tiếp tục đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài, nhất là các dự án quy mô lớn, có công nghệ tiên tiến; đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, nhất là các dự án quan trọng quốc gia; nâng cao hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn ngân sách và trái phiếu Chính phủ...


Tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ôtô
(SMS: 202740)
- Ngày 07/5/2007, Thủ tướng Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 59/2007/QĐ-TTg quy định tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng phương tiện đi lại trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, công ty nhà nước.
Theo đó, nghiêm cấm việc sử dụng xe ô tô vào việc riêng, bán, trao đổi, tặng cho, mượn hoặc điều chuyển cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào nếu không được phép của cơ quan nhà nước. Trường hợp một cán bộ giữ nhiều chức danh thì được áp dụng tiêu chuẩn sử dụng xe theo chức danh cao nhất.
Ủy viên Bộ Chính trị và các chức danh có hệ số lương khởi điểm từ 10,4 trở lên được sử dụng thường xuyên trong thời gian công tác một xe ôtô với giá mua tối đa 900 triệu đồng/xe.
Trưởng ban của Đảng, Ủy viên ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội chuyên trách của hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh hoặc các chức danh tương đương và chức danh có hệ số lương khởi điểm từ 9,7 trở lên được sử dụng thường xuyên trong thời gian công tác một xe ô tô với giá mua tối đa 800 triệu đồng/xe...
Các chức danh được sử dụng xe ôtô phục vụ công tác ở Trung ương gồm: các cán bộ lãnh đạo cấp Tổng cục, Cục, Vụ, Viện thuộc Bộ và cán bộ lãnh đạo có hệ số phụ cấp chức vụ lãnh đạo từ 0,7 đến dưới 1,25 của các đơn vị hành chính sự nghiệp. Đối với địa phương là các chức danh cấp Trưởng, phó các Sở, ban ngành và tương đương cấp tỉnh. Chủ tịch và Phó Chủ tịch cấp huyện và các cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo có hệ số phụ cấp chức vụ lãnh đạo tư 0,7 đến dưới 1,25...
Cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, Ban quản lý dự án được thành lập sau ngày văn bản này có hiệu lực có các chức danh có hệ số phụ cấp lãnh đạo từ 0,7 đến dưới 1,25 được trang bị 1 xe ô tô từ nguồn xe điều chuyển. Nếu không có xe điều chuyển thì được mua tối đa 550 triệu đồng/xe để phục vụ công tác. Đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp hoạt động tại miền núi, hải đảo mà không có xe điều chuyển thì được mua 1 xe ô tô với giá tối đa là 550 triệu đồng/xe, nếu phải mua xe 2 cầu thì giá tối đa 800 triệu đồng/xe...
Đối với chức danh Chủ tịch hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc các Tổng công ty Nhà nước, các Tập đoàn do Thủ tướng quyết định thành lập và các chức danh tương đương được sử dụng 1 xe ô tô đưa đón từ nơi ở đến nơi làm việc hàng ngày và đi công tác theo mức giá mua tối đa 650 triệu đồng/xe...
Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.


Chính sách thu hồi đất
(SMS: 202727)
- Ngày 04/5/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 57/2007/QĐ-TTg về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 146/2005/QĐ-TTg về chính sách thu hồi đất sản xuất của các nông trường, lâm trường để giao cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo.
Theo đó, việc thu hồi đất sản xuất, vườn cây lâu năm, rừng trồng của các nông trường, lâm trường quốc doanh (NLT) được thực hiện khi đã rà soát, điều chỉnh lại quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của NLT theo quy định của pháp luật hiện hành. Trường hợp đến hết ngày 30/6/2007 mà các NLT chưa thực hiện xong việc rà soát, điều chỉnh diện tích đất đang sử dụng thì việc thu hồi đất được căn cứ vào phương án dự kiến bàn giao diện tích đất của các NLT cho địa phương quản lý...
Đất của NLT được giao không thu tiền sử dụng đất thì khi thu hồi sẽ không được bồi thường. Trường hợp NLT giao khoán cho hộ gia đình, cá nhân thì được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại và được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ về bồi thường và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất...
Vườn cây lâu năm, rừng trồng của NLT gồm: cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lấy gỗ... được hình thành từ nguồn vốn vay hoăc từ nguồn vốn đầu tư của hộ gia đình, cá nhân nhận khoán của NLT thì khi Nhà nước thu hồi đất được bồi thường theo giá trị hiện có của vườn cây, không bao gồm giá trị quyền sử dụng đất...
Nguồn kinh phí bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất của NLT không nằm trong định mức hỗ trợ chung (5 triệu đồng/ha) của ngân sách Trung ương...
Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.


Phát triển ngành công nghiệp công nghệ thông tin
(SMS: 202718)
- Ngày 03/5/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 71/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Công nghệ thông tin về công nghiệp công nghệ thông tin.
Theo đó, Khu công nghệ thông tin tập trung có ranh giới địa lý xác định được công nhận khi có ít nhất 300 lao động trực tiếp làm việc tại các cơ sở CNTT. Riêng tại Hà Nội và Hồ Chí Minh phải có ít nhất là 500 lao động; những cơ sở CNTT và trang thiết bị đi kèm phải sử dụng ít nhất một nửa diện tích mặt bằng...
Xác định được tầm quan trọng của ngành CNTT, Nhà nước xếp lĩnh vực CNTT vào nhóm ưu tiên trong các chương trình học bổng đào tạo nước ngoài bằng ngân sách nhà nước. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư hoặc tham gia vào hoạt động CNTT ở Việt Nam được tạo điều kiện thuận lợi để mua nhà, đất ở theo quy định của pháp luật về đất đai, nhà ở. Nhà nước cũng tạo điều kiện thuận lợi để đưa lao động phần mềm và thông tin số Việt Nam ra làm việc, học tập, thực tập ở nước ngoài. Các tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất CNTT được hưởng chế độ ưu đãi về thuế và sử dụng đất và các sản phẩm này được áp dụng mức ưu đãi cao nhất về thuế giá trị gia tăng và thuế xuất khẩu.
Tổ chức, cá nhân được tham gia nghiên cứu-phát triển và sản xuất sản phẩm CNTT tin trọng điểm khi có đầy đủ các điều kiện: có lĩnh vực hoạt động, trình độ chuyên môn phù hợp với việc nghiên cứu-phát triển CNTT trọng điểm; có năng lực kỹ thuật, công nghệ, giải pháp phát triển các sản phẩm CNTT phù hợp với chương trình phát triển các sản phẩm CNTT trọng điểm...
Bên cạnh đó, tổ chức, cá nhân tham gia nghiên cứu-phát triển CNTT trọng điểm được Nhà nước ưu tiên đầu tư, được hưởng ưu đãi theo quy định của pháp luật. Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm nộp lại cho ngân sách nhà nước một phần doanh thu mang lại từ việc kinh doanh sản phẩm CNTT và không được phép chuyển giao, bán, chuyển nhượng công nghệ CNTTTĐ do Nhà nước đầu tư khi chưa có sự đồng ý của cơ quan tiếp nhận, xử lý và đăng ký hồ sơ ban đầu...
Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.


Phát triển công nghiệp nội dung số
(SMS: 202719)
- Ngày 03/5/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 56/2007/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp nội dung số Việt Nam đến năm 2010.
Mục tiêu tổng quát của Chương trình là phát triển công nghiệp nội dung số thành một ngành kinh tế trọng điểm, đóng góp ngày càng nhiều cho GDP, tạo điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp nhân dân tiếp cận các sản phẩm nội dung thông tin số, thúc đẩy mạnh mẽ sự hình thành và phát triển xã hội thông tin và kinh tế tri thức.
Đến năm 2010, phấn đấu công nghiệp nội dung số đạt tốc độ tăng trưởng trung bình từ 35 - 40%/năm. Tổng doanh thu từ công nghiệp nội dung số đạt 400 triệu USD/năm; xây dựng được một đội ngũ 10 - 20 doanh nghiệp nội dung số mạnh, có trên 500 lao động chuyên nghiệp; làm chủ các công nghệ nền tảng trong công nghiệp nội dung số, sản xuất được một số sản phẩm trọng điểm có khả năng cạnh tranh cao; hình thành hệ thống thư viện số trực tuyến; xây dựng được một số cơ sở dữ liệu chuyên ngành; cung cấp hiệu quả các dịch vụ tư vấn khám, chữa bệnh và đào tạo từ xa...
Chương trình đưa ra các giải pháp kích cầu, phát triển thị trường nội địa như xây dựng văn hóa sử dụng Internet cho các tầng lớp nhân dân, đẩy mạnh các chương trình đào tạo, hỗ trợ người dân và học sinh, sinh viên khai thác, sử dụng nội dung thông tin số và các dịch vụ công; các giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu, đầu tư phát triển một số sản phẩm nội dung thông tin số trọng điểm có khả năng thay thế sản phẩm nhập ngoại và có triển vọng xuất khẩu; tăng cường quảng bá, tiếp thị với thế giới về công nghiệp nội dung số Việt Nam. Đẩy mạnh số hóa và cung cấp nội dung thông tin số trong các cơ quan nhà nước; tăng cường nghiên cứu phát triển, xây dựng Đề án thành lập Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ triển khai về nội dung thông tin số và đa phương tiện quốc gia trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định...

Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
 

 BỘ TÀI CHÍNH


Thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt
(SMS: 202728)
- Theo Thông tư số 45/2007/TT-BTC ban hành ngày 07/5/2007, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện: thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với các chi tiết, linh kiện rời đồng bộ nhập khẩu để lắp ráp sản phẩm cơ khí, điện, điện tử được thực hiện như sau: các chi tiết (cụm chi tiết), linh kiện (cụm linh kiện) rời đồng bộ có C/O ưu đãi đặc biệt được áp dụng mức thuế suất ưu đãi đặc biệt của mặt hàng nguyên chiếc nếu thoả mãn các điều kiện theo quy định. Các chi tiết, linh kiện rời còn lại không có C/O ưu đãi đặc biệt áp dụng mức thuế suất MFN hoặc thuế suất thông thường của mặt hàng nguyên chiếc; Doanh nghiệp phải xuất trình một hoặc nhiều hoá đơn thương mại riêng biệt cho các chi tiết (cụm chi tiết), linh kiện (cụm linh kiện) có C/O ưu đãi đặc biệt để đề nghị áp dụng mức thuế suất ưu đãi đặc biệt...
Trường hợp người khai hải quan nộp C/O quá thời hạn 30 ngày đã được cho phép chậm nộp, nếu C/O còn hiệu lực và phù hợp với bộ chứng từ, với kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá (trong trường hợp hàng hoá phải kiểm tra thực tế) thì cơ quan hải quan vẫn chấp nhận và áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt cho lô hàng nhập khẩu...
Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.


Tổ chức và hoạt động công ty chứng khoán
(SMS: 202707)
- Ngày 24/4/2007, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 27/2007/QĐ-BTC về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động công ty chứng khoán.
Theo đó, để được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, công ty chứng khoán phải đảm bảo các yêu cầu sau: Quyền sử dụng trụ sở làm việc tối thiểu 01 năm, trong đó diện tích làm sàn giao dịch phục vụ nhà đầu tư tối thiểu là 150m2; Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động kinh doanh, bao gồm: thiết bị văn phòng, hệ thống máy tính, phần mềm thực hiện hoạt động giao dịch chứng khoán; trang thông tin điện tử, bảng tin để công bố thông tin cho khách hàng; hệ thống kho, két bảo quản chứng khoán, tiền mặt, tài sản có giá trị khác và lưu giữ tài liệu, chứng từ giao dịch đối với công ty chứng khoán có nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán...
Cá nhân góp vốn điều lệ từ 5% trở lên phải chứng minh tài sản bằng tiền, chứng khoán hoặc các tài sản khác. Đối với tài sản bằng tiền, phải có xác nhận của ngân hàng về số dư. Đối với tài sản bằng chứng khoán, phải có xác nhận của công ty chứng khoán hoặc của tổ chức phát hành về số chứng khoán đó...
Cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% vốn điều lệ thực góp ban đầu...
Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán phải đảm bảo tách biệt về văn phòng làm việc, nhân sự, hệ thống dữ liệu, báo cáo giữa các bộ phận nghiệp vụ có xung đột giữa lợi ích của công ty và của khách hàng hoặc giữa lợi ích của các khách hàng với nhau...
Tối thiểu mỗi năm 01 lần, công ty chứng khoán phải đánh giá hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ. Báo cáo đánh giá hoạt động của hệ  thống kiểm soát nội bộ phải gửi UBCKNN cùng với báo cáo tài chính năm...
Công ty cổ phần chứng khoán được mua lại không quá 10% số cổ phần phổ thông đã bán làm cổ phiếu quỹ. Khoảng cách giữa lần mua và lần bán cổ phiếu quỹ gần nhất không dưới 06 tháng, trừ trường hợp phân phối cho người lao động trong công ty hoặc dùng làm cổ phiếu thưởng. Trường hợp dùng làm cổ phiếu thưởng cho người lao động phải đảm bảo có nguồn thanh toán từ quỹ phúc lợi, khen thưởng...

Quyết định này có sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.