Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
- Báo lỗi
- Gửi liên kết tới Email
- In tài liệu
- Chia sẻ:
- Chế độ xem: Sáng | Tối
- Thay đổi cỡ chữ:17
- Chú thích màu chỉ dẫn
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
SỐ 03/2006/NQ-HĐTP NGÀY 08 THÁNG 07 NĂM 2006
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005
VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ vào Luật tổ chức Toà án nhân dân;
Căn cứ vào Nghị quyết số 45/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 của Quốc hội “Về việc thi hành Bộ luật dân sự”;
Để áp dụng đúng và thống nhất quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 trong việc giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
QUYẾT NGHỊ:
Theo quy định tại Điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005 (sau đây gọi tắt là BLDS), về nguyên tắc chung thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau đây:
Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần.
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin... vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.
Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật.
Cần chú ý là đối với trường hợp pháp luật có quy định việc bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại trong trường hợp này được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.
- Do lỗi vô ý mà gây thiệt hại;
- Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ không thể có khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó.
- Trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 606 BLDS thì người gây thiệt hại là bị đơn dân sự, trừ khi họ mất năng lực hành vi dân sự;
- Trong trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 606 BLDS thì cha, mẹ của người gây thiệt hại là bị đơn dân sự;
- Trong trường hợp quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 606 BLDS thì người gây thiệt hại là bị đơn dân sự và cha, mẹ của người gây thiệt hại là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS thì cá nhân, tổ chức giám hộ là bị đơn dân sự.
Các khoản chi phí hợp lý quy định tại các điểm a và c khoản 1 Điều 609, các điểm b và c khoản 1 Điều 610 và điểm a khoản 1 Điều 611 BLDS là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ của thiệt hại, phù hợp với giá trung bình ở từng địa phương tại thời điểm chi phí.
Việc xác định thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại được thực hiện như sau:
Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường bao gồm:
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khoẻ nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 609 BLDS.
Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị có hay không. Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu.
Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 1.2 này. Nếu không có khoản thu nhập thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất.
Ví dụ 1: A làm nghề sửa xe máy tự do. Thu nhập thực tế của A trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là một triệu đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, A phải điều trị nên không có khoản thu nhập nào. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của A bị mất.
Ví dụ 2: B làm công cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập thực tế của B trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 600 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, B phải điều trị và trong thời gian điều trị công ty trả cho B 50% tiền lương là 300 ngàn đồng. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của B mỗi tháng bị giảm sút 300 ngàn đồng.
Ví dụ 3: C là công chức có thu nhập hàng tháng ổn định 500 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, C phải điều trị và trong thời gian điều trị cơ quan vẫn trả đủ các khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của C không bị mất.
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.
- Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường.
Thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm tính mạng bị xâm phạm.
- Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;
- Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;
- Cha, mẹ là người không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà con là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động không có tài sản để cấp dưỡng cho con được anh, chị đã thành niên không sống chung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm gồm có thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm; thiệt hại do danh dự, uy tín của tổ chức bị xâm phạm.
Ví dụ: Các thoả thuận sau đây là không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường:
- Thoả thuận cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
- Thoả thuận chủ sở hữu bồi thường thiệt hại trước, sau đó người được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu khoản tiền đã bồi thường;
- Ai có điều kiện về kinh tế hơn thì người đó thực hiện việc bồi thường thiệt hại trước.
Trong trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không theo đúng quy định của pháp luật mà gây thiệt hại, thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: Chủ sở hữu biết người đó không có bằng lái xe ô tô, nhưng vẫn giao quyền chiếm hữu, sử dụng cho họ mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.
- Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
Ví dụ: Xe ô tô đang tham gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật, thì bất ngờ có người lao vào xe để tự tử và hậu quả là người này bị thương nặng hoặc bị chết. Trong trường hợp này chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó không phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ (xe ô tô) gây ra.
- Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cần chú ý là trong trường hợp pháp luật có quy định khác về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.
Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật) thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Ví dụ: A là chủ sở hữu xe ô tô đã giao xe ô tô đó cho B. B lái xe ô tô tham gia giao thông đã gây ra tai nạn và gây thiệt hại thì cần phải phân biệt:
- Nếu B chỉ được A thuê lái xe ô tô và được trả tiền công, có nghĩa B không phải là người chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà A vẫn chiếm hữu, sử dụng; do đó, A phải bồi thường thiệt hại.
- Nếu B được A giao xe ô tô thông qua hợp đồng thuê tài sản, có nghĩa A không còn chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà B là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp; do đó, B phải bồi thường thiệt hại. Nếu trong trường hợp này được sự đồng ý của A, B giao xe ô tô cho C thông qua hợp đồng cho thuê lại tài sản, thì C là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó; do đó, C phải bồi thường thiệt hại.
Nghị quyết này thay thế Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28-4-2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
CHÁNH ÁN
Nguyễn Văn Hiện
thuộc tính Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP
Cơ quan ban hành: | Toà án nhân dân tối cao | Số công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 03/2006/NQ-HĐTP | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Nguyễn Văn Hiện |
Ngày ban hành: | 08/07/2006 | Ngày hết hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày hết hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Áp dụng: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Tư pháp-Hộ tịch |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỐI CAO
SỐ 03/2006/NQ-HĐTP NGÀY 08 THÁNG 07
NĂM 2006
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT
SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ
NĂM 2005
VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn
cứ vào Luật tổ chức Toà án nhân dân;
Căn cứ vào Nghị quyết số
45/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 của Quốc hội
"Về việc thi hành Bộ luật dân sự";
Để áp dụng đúng và
thống nhất quy định của Bộ luật dân
sự năm 2005 trong việc giải quyết các tranh
chấp về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng;
Sau khi có ý kiến thống
nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
QUYẾT
NGHỊ:
I. Về những quy định
chung
1. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại
Theo quy định
tại Điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005
(sau đây gọi tắt là BLDS), về nguyên tắc chung thì trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi
có đầy đủ các yếu tố sau đây:
1.1. Phải có thiệt
hại xảy ra.
Thiệt hại bao
gồm thiệt hại về vật chất và thiệt
hại do tổn thất về tinh thần.
a) Thiệt hại
về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài
sản bị xâm phạm quy định tại Điều 608
BLDS; thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm quy
định tại khoản 1
Điều 609 BLDS; thiệt hại do tính mạng bị xâm
phạm quy định
tại khoản 1 Điều 610 BLDS; thiệt hại do danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy
định tại khoản 1 Điều 611 BLDS.
b) Thiệt hại do tổn thất về
tinh thần của cá nhân được hiểu là do
sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người
bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm
phạm mà người thân thích gần gũi nhất
của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về
tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị
hiểu nhầm... và cần phải được bồi
thường một khoản tiền bù đắp
tổn thất mà họ phải chịu.
Thiệt
hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân
và các chủ thể khác không
phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức)
được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức
đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín
nhiệm, lòng tin... vì bị hiểu nhầm và cần
phải được bồi thường một
khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ
chức phải chịu.
1.2.
Phải có hành vi trái pháp luật.
Hành vi trái pháp luật là những xử
sự cụ thể của con người được
thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái
với các quy định của pháp luật.
1.3. Phải có mối quan hệ nhân quả
giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật.
Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất
yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là
nguyên nhân gây ra thiệt hại.
1.4.
Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của
người gây thiệt hại.
a)
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một
người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây
thiệt hại cho người khác mà vẫn thực
hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng
để mặc cho thiệt hại xảy ra.
b)
Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một
người không thấy trước hành vi của mình có
khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải
biết hoặc có thể biết trước thiệt
hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi
của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho
rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có
thể ngăn chặn được.
Cần
chú ý là đối với trường hợp pháp luật
có quy định việc bồi thường thiệt hại cả khi không có
lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của
người gây thiệt hại trong trường
hợp này được thực hiện theo quy
định của văn bản quy phạm pháp luật
đó.
2. Nguyên tắc
bồi thường thiệt hại
2.1.
Khi giải quyết tranh chấp về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
cần phải thực hiện đúng nguyên tắc bồi
thường thiệt hại quy định tại
Điều 605 BLDS. Cần
phải tôn trọng thoả thuận của các bên về
mức bồi thường, hình thức bồi
thường và phương thức bồi thường,
nếu thoả thuận đó không trái pháp luật,
đạo đức xã hội.
2.2. Trong trường hợp các bên không thoả thuận
được thì khi giải quyết tranh chấp về
bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng cần chú ý:
a) Thiệt hại phải
được bồi thường toàn bộ, có nghĩa
là khi có yêu cầu giải
quyết bồi thường thiệt hại do tài sản,
sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm,
uy tín bị xâm phạm phải căn cứ vào các
điều luật tương ứng của BLDS quy
định trong trường hợp cụ thể đó
thiệt hại bao gồm những khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là
bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để
buộc người gây thiệt hại phải
bồi thường các khoản thiệt hại
tương xứng đó.
b) Để thiệt
hại có thể được bồi thường
kịp thời, Toà án phải giải quyết nhanh chóng yêu cầu đòi bồi
thường thiệt hại trong thời hạn luật
định. Trong
trường hợp cần thiết có thể áp dụng
một hoặc một số biện pháp khẩn cấp
tạm thời theo quy định của pháp luật
tố tụng để giải quyết yêu cầu
cấp bách của đương sự.
c) Người gây thiệt
hại chỉ có thể được giảm mức
bồi thường khi có đủ hai điều kiện
sau đây:
- Do lỗi vô ý mà gây
thiệt hại;
- Thiệt hại xảy ra
quá lớn so với khả năng kinh tế trước
mắt và lâu dài của
người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt
hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi
thường so với hoàn cảnh kinh tế trước
mắt của họ cũng như về lâu dài họ
không thể có khả năng bồi thường
được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt
hại đó.
d) Mức bồi
thường thiệt hại không còn phù hợp với
thực tế, có nghĩa là do có
sự thay đổi về tình hình kinh tế, xã hội,
sự biến động về giá cả mà mức bồi
thường đang được thực hiện không
còn phù hợp trong điều kiện đó hoặc do có
sự thay đổi về tình trạng thương
tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại cho nên mức
bồi thường thiệt hại không còn phù hợp
với sự thay đổi đó hoặc do có sự
thay đổi về khả năng kinh tế của
người gây thiệt hại...
3.
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại
3.1. Khi thực
hiện quy định tại Điều 606 BLDS về
năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cần
phải chú ý xác định đúng tư cách
đương sự trong từng
trường hợp; cụ thể như sau:
- Trong trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều 606 BLDS
thì người gây thiệt
hại là bị đơn dân sự, trừ khi họ
mất năng lực hành vi dân sự;
- Trong trường
hợp quy định tại đoạn 1 khoản 2
Điều 606 BLDS thì cha, mẹ của người gây thiệt hại là bị
đơn dân sự;
- Trong trường hợp quy
định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 606 BLDS thì người gây
thiệt hại là bị đơn dân sự và cha, mẹ
của người gây thiệt hại là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Trong trường hợp quy
định tại khoản 3 Điều 606 BLDS thì cá nhân,
tổ chức giám hộ là bị
đơn dân sự.
3.2. Việc quyết định
về bồi thường (lấy tài sản để
bồi thường) phải cụ thể và theo đúng quy định tại Điều
606 BLDS.
4. Chi phí hợp lý
Các khoản chi phí
hợp lý quy định tại các điểm a và c
khoản 1 Điều 609, các
điểm b và c khoản 1 Điều 610 và điểm a
khoản 1 Điều 611 BLDS là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với
tính chất, mức độ của thiệt hại, phù
hợp với giá trung bình
ở từng địa phương tại thời
điểm chi phí.
5. Nghĩa vụ chứng
minh của các đương sự
a) Người bị thiệt hại yêu cầu bồi
thường thiệt hại phải nêu rõ từng
khoản thiệt hại thực
tế đã xảy ra, mức yêu cầu bồi
thường và phải có chứng từ hoặc giấy
biên nhận hợp lệ về các khoản chi phí hợp
lý, về thu nhập của người bị thiệt
hại.
b) Người gây thiệt hại yêu
cầu giảm mức bồi thường thiệt
hại phải có tài liệu,
chứng cứ về khả năng kinh tế
trước mắt và lâu dài của mình không đủ
để bồi thường toàn bộ hoặc phần
lớn thiệt hại đã xảy ra.
c) Người bị thiệt hại
hoặc người gây thiệt hại yêu cầu thay
đổi mức bồi thường thiệt hại phải có
đơn xin thay đổi mức bồi thường
thiệt hại. Kèm theo
đơn là các tài liệu, chứng cứ làm căn cứ
cho việc xin thay đổi mức bồi thường
thiệt hại.
d) Việc chứng minh không có lỗi
thuộc nghĩa vụ của người có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại.
6. Về thời hiệu khởi kiện yêu cầu
bồi thường thiệt hại.
Việc xác định thời hiệu khởi kiện
yêu cầu bồi thường thiệt hại
được thực hiện như sau:
a) Đối với những trường hợp
bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng phát sinh kể từ ngày 01-01-2005 (ngày Bộ
luật tố tụng dân sự có hiệu lực), thì
thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi
thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân,
chủ thể khác bị xâm phạm.
b) Đối với những trường hợp
bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng phát sinh trước ngày 01-01-2005, thì thời
hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường
thiệt hại là hai năm, kể từ ngày 01-01-2005.
II.
Xác định thiệt hại
1. Thiệt
hại do sức khoẻ bị xâm phạm
Thiệt
hại do sức khoẻ bị xâm phạm được
bồi thường bao gồm:
1.1. Chi phí hợp lý
cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục
hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của
người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa
người bị thiệt hại đi cấp cứu
tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế,
chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm,
mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ
định của bác sỹ; tiền viện phí;
tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền
bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt
hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí
thực tế, cần thiết khác cho người
bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc
lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn,
xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm
mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế
một phần chức năng của cơ thể bị
mất hoặc bị giảm sút của người
bị thiệt hại (nếu có).
1.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc
bị giảm sút của người bị thiệt
hại. Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm
phạm người bị thiệt hại có thu nhập
thực tế, nhưng do sức khoẻ bị xâm phạm
họ phải đi điều trị và do đó khoản
thu nhập thực tế của họ bị mất
hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi
thường khoản thu nhập thực tế bị
mất hoặc bị giảm sút đó.
a) Thu nhập thực tế của người bị
thiệt hại được xác định như sau:
- Nếu trước khi sức
khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt
hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên
chế, tiền công từ hợp đồng lao
động, thì căn cứ vào
mức lương, tiền công của tháng liền kề
trước khi người đó bị xâm phạm sức
khoẻ nhân với thời gian điều trị
để xác định khoản thu nhập thực
tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm
phạm, người bị thiệt hại có làm việc
và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu
nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu
nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu
chưa đủ 6 tháng thì của
tất cả các tháng) trước khi sức khoẻ
bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị
để xác định khoản thu nhập thực
tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm
phạm, người bị thiệt hại có thu nhập
thực tế, nhưng không ổn định và không
thể xác định được, thì áp dụng mức
thu nhập trung bình của lao
động cùng loại nhân với thời gian điều
trị để xác định khoản thu nhập
thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm
phạm, người bị thiệt hại chưa làm
việc và chưa có thu nhập
thực tế thì không được bồi thường
theo quy định tại điểm b khoản 1
Điều 609 BLDS.
b) Xác định thu nhập thực
tế bị mất hoặc bị giảm sút của
người bị thiệt hại
được thực hiện như sau:
Bước
một: Xác định thu
nhập thực tế của người bị thiệt
hại trong thời gian
điều trị có hay không. Nếu có thì tổng số
thu nhập là bao nhiêu.
Bước hai: Lấy tổng số thu
nhập thực tế mà người bị thiệt
hại có được trong thời gian điều trị so sánh với thu nhập thực
tế tương ứng được xác định
theo hướng dẫn tại
điểm a tiểu mục 1.2 này. Nếu không có khoản
thu nhập thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian
điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt
hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản
chênh lệch đó là thu nhập thực tế của
người bị thiệt
hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập
thực tế của người bị thiệt hại
không bị mất.
Ví dụ 1: A làm nghề
sửa xe máy tự do. Thu nhập thực tế của A
trước khi sức
khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình
mỗi tháng là một triệu đồng. Do sức
khoẻ bị xâm phạm, A phải điều trị nên
không có khoản thu nhập nào. Trong trường hợp này
thu nhập thực tế của A bị mất.
Ví dụ 2: B làm công cho một công ty trách nhiệm hữu
hạn. Thu nhập thực
tế của B trước khi sức khoẻ bị xâm
phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là
600 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, B
phải điều trị và trong thời gian điều trị công ty trả cho B
50% tiền lương là 300 ngàn đồng. Trong
trường hợp này thu nhập thực tế
của B mỗi tháng bị giảm sút 300 ngàn đồng.
Ví dụ 3: C là công chức có thu nhập hàng tháng ổn
định 500 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm
phạm, C phải điều trị và trong thời gian
điều trị cơ quan vẫn trả đủ các
khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu
nhập thực tế của C không bị mất.
1.3. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế
bị mất của người chăm sóc người
bị thiệt hại trong thời gian điều trị.
a) Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người
bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi
lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở
địa phương nơi thực hiện việc chi
phí (nếu có) cho một trong những người chăm
sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian
điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ
sở y tế.
b) Thu nhập thực tế bị mất của người
chăm sóc người bị thiệt hại trong thời
gian điều trị được xác định
như sau:
- Nếu người chăm sóc người bị
thiệt hại có thu nhập thực tế ổn
định từ tiền
lương trong biên chế, tiền công từ hợp
đồng lao động thì căn cứ vào mức lương,
tiền công của tháng liền kề trước khi
người đó phải đi chăm sóc người
bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc
để xác định khoản thu nhập thực
tế bị mất.
- Nếu người chăm sóc người bị
thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập
ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy
mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề
(nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các
tháng) trước khi người
đó phải đi chăm sóc người bị thiệt
hại nhân với thời gian chăm sóc để xác
định khoản thu nhập thực tế bị
mất.
- Nếu người chăm sóc
người bị thiệt hại không có việc làm
hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do
đó không có thu nhập ổn định thì
được hưởng tiền công chăm sóc bằng
mức tiền công trung bình trả cho người chăm
sóc người tàn tật tại địa phương
nơi người bị thiệt hại cư trú.
- Nếu trong thời gian chăm sóc người bị
thiệt hại, người chăm sóc vẫn
được cơ quan, người sử dụng lao
động trả lương, trả tiền công lao
động theo quy định
của pháp luật lao động, bảo hiểm xã
hội thì họ không bị mất thu nhập
thực tế và do đó không được bồi
thường.
1.4. Trong trường hợp sau khi điều trị,
người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có
người thường xuyên chăm sóc (người
bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột
sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng
và các trường hợp khác do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định
bị suy giảm khả
năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên)
thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho
việc chăm sóc người bị thiệt hại.
a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người
bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng tháng cho
việc nuôi dưỡng, điều trị người
bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người
thường xuyên chăm sóc người bị thiệt
hại.
b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên
chăm sóc người bị thiệt hại
được tính bằng mức tiền công trung bình
trả cho người chăm sóc người tàn tật
tại địa phương nơi người bị
thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính
bồi thường thiệt hại cho một
người chăm sóc người bị thiệt hại
do mất khả năng lao động.
1.5. Khoản tiền bù đắp tổn thất về
tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm.
a) Khoản tiền bù đắp
tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị
xâm phạm được bồi thường cho chính
người bị thiệt hại.
b) Trong mọi trường
hợp, khi sức khoẻ bị xâm phạm, người
bị thiệt hại được bồi thường
khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh
thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn
tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I
Nghị quyết này để xác định mức
độ tổn thất về tinh thần của
người bị thiệt hại. Việc xác định
mức độ tổn thất về tinh thần cần
căn cứ vào sự ảnh hưởng đến
nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội,
sinh hoạt gia đình và cá nhân…
c) Mức bồi thường khoản tiền bù
đắp tổn thất về tinh thần cho
người bị thiệt hại trước hết do
các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận
được, thì mức bồi thường khoản
tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho
người bị thiệt hại phải căn cứ
vào mức độ tổn thất về tinh thần,
nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối
thiểu do Nhà nước quy định tại thời
điểm giải quyết bồi thường.
2. Thiệt hại do tính mạng
bị xâm phạm
2.1. Chi phí hợp lý
cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc
người bị thiệt hại trước khi chết bao gồm: các
chi phí được hướng dẫn tại các
tiểu mục 1.1, 1.4 và thu
nhập thực tế bị mất của người
bị thiệt hại trong thời gian điều trị
được hướng dẫn tại tiểu mục
1.2 mục 1 Phần II này.
2.2. Chi phí hợp lý cho
việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các
vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm,
khăn tang, hương, nến, hoa,
thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc
chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân theo thông
lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi
thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây
mộ, bốc mộ...
2.3. Khoản tiền
cấp dưỡng cho những người mà người
bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng trước khi chết.
a) Chỉ xem xét khoản
tiền cấp dưỡng cho những người mà
người bị thiệt hại có nghĩa vụ
cấp dưỡng, nếu trước khi tính mạng bị
xâm phạm người bị thiệt hại thực
tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng. Những người đang được
người bị thiệt hại cấp dưỡng
được bồi thường khoản tiền
cấp dưỡng tương ứng đó. Đối
với những người mà người bị thiệt
hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi
dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt
hại bị xâm phạm tính mạng, thì những
người này được bồi thường
khoản tiền cấp dưỡng hợp lý phù hợp
với thu nhập và khả năng
thực tế của người phải bồi
thường, nhu cầu thiết yếu của
người được bồi thường.
Thời
điểm cấp dưỡng được xác
định kể từ thời điểm tính mạng
bị xâm phạm.
b) Đối tượng
được bồi thường khoản tiền
cấp dưỡng.
- Vợ hoặc chồng
không có khả năng lao động, không có tài sản
để tự nuôi mình và được chồng hoặc
vợ là người bị thiệt hại đang
thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;
- Con chưa thành niên
hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao
động, không có tài sản để tự nuôi mình mà
cha, mẹ là người bị thiệt hại đang
thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;
- Cha, mẹ là người
không có khả năng lao động, không có tài sản
để tự nuôi mình mà con là người bị
thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng;
- Vợ hoặc chồng
sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc
vợ trước khi ly hôn) là người bị thiệt
hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng;
- Con chưa thành niên
hoặc con đã thành niên không có khả năng lao
động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha
hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người
bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng;
- Em chưa thành niên không có
tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên
không có khả năng lao động, không có tài sản
để tự nuôi mình trong trường hợp không còn
cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động
không có tài sản để cấp dưỡng cho con
được anh, chị đã thành niên không sống chung
với em là người bị thiệt hại đang
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Anh, chị không có khả
năng lao động, không có tài sản để tự
nuôi mình mà em đã thành niên không sống chung với anh,
chị là người bị thiệt hại đang
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Cháu chưa thành niên
hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao
động, không có tài sản để tự nuôi mình và
không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội,
ông bà ngoại không sống chung với cháu là người
bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng;
- Ông bà nội, ông bà
ngoại không có khả năng lao động, không có tài
sản để tự nuôi mình và không có người khác
cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung
với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị
thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng.
2.4. Khoản tiền bù
đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng
bị xâm phạm.
a) Người
được nhận khoản tiền bù đắp
tổn thất về tinh thần trong trường hợp
này là những người thân thích thuộc hàng thừa
kế thứ nhất của người bị thiệt
hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ
đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của
người bị thiệt hại.
b)
Trường hợp không có những người
được hướng dẫn tại điểm a
tiểu mục 2.4 mục 2 này, thì người
được nhận khoản tiền bù đắp
tổn thất về tinh thần là người mà
người bị thiệt hại đã trực tiếp
nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi
dưỡng người bị thiệt hại.
c)
Trong mọi trường hợp, khi tính mạng bị xâm
phạm, những người thân thích thuộc hàng thừa
kế thứ nhất hoặc người mà người
bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi
dưỡng và người đã trực tiếp nuôi
dưỡng người bị thiệt hại (sau đây
gọi chung là người thân thích) của người
bị thiệt hại được bồi thường
khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh
thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn
tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I
Nghị quyết này để xác định mức
độ tổn thất về tinh thần của
những người thân thích của người bị thiệt
hại. Việc xác định mức độ tổn
thất về tinh thần phải căn cứ vào
địa vị của người bị thiệt
hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc
sống giữa người bị thiệt hại và
những người thân thích của người bị
thiệt hại…
d)
Mức bồi thường chung khoản tiền bù
đắp tổn thất về tinh thần trước
hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả
thuận được, thì mức bồi thường
khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh
thần cho tất cả những người thân thích
của người bị thiệt hại phải căn
cứ vào mức độ tổn thất về tinh
thần, số lượng người thân thích của
họ, nhưng tối đa không quá 60 tháng lương
tối thiểu do Nhà nước quy định tại
thời điểm giải quyết bồi thường".
3. Thiệt
hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
Thiệt hại do
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm gồm có
thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
nhân bị xâm phạm; thiệt hại do danh dự, uy tín
của tổ chức bị xâm phạm.
3.1. Chi phí hợp lý để hạn chế,
khắc phục thiệt hại bao gồm: chi phí cần thiết cho việc
thu hồi ấn phẩm có nội dung xúc phạm danh
dự, nhân phẩm, uy
tín của người bị thiệt hại; chi phí cho
việc thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm; tiền tàu,
xe đi lại, thuê nhà trọ
(nếu có) theo giá trung bình ở địa phương
nơi thực hiện việc chi phí để yêu cầu cơ quan
chức năng xác minh sự việc, cải chính trên các
phương tiện thông tin đại chúng; chi phí
tổ chức xin lỗi, cải chính công khai tại nơi
cư trú hoặc nơi làm việc của người
bị thiệt hại và các chi phí thực tế, cần
thiết khác để hạn chế, khắc phục
thiệt hại (nếu có).
3.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc
bị giảm sút.
a) Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín
bị xâm phạm, người bị xâm phạm có thu nhập thực tế, nhưng do danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm người bị xâm phạm
phải thực hiện những công việc để
hạn chế, khắc phục thiệt hại, nên
khoản thu nhập thực tế của họ bị
mất hoặc bị giảm sút, thì họ được
bồi thường khoản thu nhập thực tế
bị mất hoặc bị giảm sút đó.
b) Việc xác định thu nhập
thực tế của người bị xâm phạm và
việc xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc
bị giảm sút của người bị xâm phạm
được thực hiện theo hướng
dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II này.
3.3. Khoản tiền bù đắp
tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm.
a) Khoản tiền bù đắp
tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm
được bồi thường cho chính người
bị xâm phạm.
b)
Trong mọi trường hợp khi danh dự, nhân phẩm,
uy tín bị xâm phạm, người bị xâm phạm
được bồi thường khoản tiền bù
đắp tổn thất về tinh thần. Cần
căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b
tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này
để xác định mức độ tổn thất
về tinh thần của người bị xâm hại.
Việc xác định mức độ tổn thất
về tinh thần phải căn cứ vào hình thức xâm
phạm (bằng lời nói hay đăng trên báo viết hay
báo hình….), hành vi xâm phạm, mức độ lan truyền
thông tin xúc phạm…
c)
Mức bồi thường khoản tiền bù đắp
tổn thất về tinh thần cho người bị xâm
phạm trước hết do các bên thoả thuận.
Nếu không thoả thuận được, thì mức
bồi thường khoản tiền bù đắp tổn
thất về tinh thần phải căn cứ vào mức
độ tổn thất về tinh thần, nhưng
tối đa không quá 10 tháng lương tối thiểu do
Nhà nước quy định tại thời điểm
giải quyết bồi thường".
4.
Thời hạn hưởng bồi thường thiệt
hại do sức khoẻ, tính mạng bị xâm phạm
(Điều 612 BLDS)
a) Trong trường hợp người bị thiệt
hại mất hoàn toàn khả năng lao động, thì
người bị thiệt hại được
hưởng khoản tiền bồi thường
được hướng dẫn tại điểm a
tiểu mục 1.4 mục 1 Phần II này cho đến khi
chết.
b) Đối với việc cấp
dưỡng được hướng dẫn tại tiểu mục 2.3 mục 2 Phần II này
chấm dứt khi thuộc một trong các trường
hợp quy định tại Điều 61 Luật hôn nhân
và gia đình.
III. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra (Điều 623 BLDS)
1. Xác
định nguồn nguy hiểm cao độ
a) Khi có phương tiện giao thông,
công trình, vật, chất hoặc loại thú nào đó gây ra
thiệt hại để có căn cứ áp dụng các
khoản 2, 3 và 4 Điều 623 BLDS xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại, thì phải
xác định nguồn gây ra thiệt hại có
phải là nguồn nguy hiểm cao độ hay không.
b) Để xác định nguồn nguy hiểm cao
độ cần phải căn cứ vào khoản 1 Điều 623 BLDS và văn bản quy
phạm pháp luật khác có liên quan hoặc quy định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
lĩnh vực cụ thể đó. Ví dụ: Để xác
định phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ thì phải căn cứ vào Luật
giao thông đường bộ. Theo quy định tại
điểm 13 Điều 3 Luật giao thông
đường bộ thì phương tiện giao thông
cơ giới đường bộ gồm xe ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn
máy và các loại xe tương tự, kể cả xe
cơ giới dùng cho người tàn tật.
2. Xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra
a) Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao
độ đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra. Chủ
sở hữu đang chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ là đang thực hiện
mọi hành vi theo ý chí của mình
để nắm giữ, quản lý nguồn nguy hiểm
cao độ, nhưng không được trái pháp
luật, đạo đức xã hội; khai thác công
dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ
nguồn nguy hiểm cao độ.
b) Người được chủ
sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy
định của pháp luật phải bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp
giữa chủ sở hữu và
người được giao chiếm hữu, sử
dụng có thoả thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội
hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường.
Ví dụ: Các thoả thuận sau đây là không trái pháp
luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm
trốn tránh việc bồi thường:
- Thoả thuận cùng nhau liên đới chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại;
- Thoả thuận chủ sở hữu bồi
thường thiệt hại trước, sau đó
người được giao chiếm hữu, sử
dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu khoản
tiền đã bồi thường;
- Ai có điều kiện về kinh tế hơn thì
người đó thực hiện việc bồi
thường thiệt hại trước.
Trong trường hợp chủ
sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho
người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ không theo đúng quy định của pháp
luật mà gây thiệt hại, thì chủ sở hữu
phải bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: Chủ sở
hữu biết người đó không có bằng lái xe ô tô,
nhưng vẫn giao quyền chiếm hữu, sử
dụng cho họ mà gây thiệt hại thì chủ sở
hữu phải bồi thường thiệt hại.
c) Về nguyên tắc chung chủ
sở hữu, người được chủ sở
hữu giao chiếm hữu, sử
dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ
phải bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi,
trừ các trường hợp sau đây:
- Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý
của người bị thiệt hại;
Ví dụ: Xe ô tô đang tham gia
giao thông theo đúng quy định của pháp luật,
thì bất ngờ có người
lao vào xe để tự tử và hậu quả là
người này bị thương nặng hoặc
bị chết. Trong trường hợp này chủ sở
hữu, người được chủ sở hữu
giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó
không phải bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ (xe ô tô) gây ra.
- Thiệt hại xảy ra
trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình
thế cấp thiết, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
Cần chú ý là trong trường hợp pháp luật có quy định khác
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra trong trường hợp bất khả
kháng hoặc tình thế cấp
thiết thì trách nhiệm bồi thường thiệt
hại được thực hiện theo quy định
của văn bản quy phạm pháp luật đó.
d) Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp
luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra, nếu chủ sở hữu, người được chủ
sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp
pháp không có lỗi trong việc để nguồn nguy
hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử
dụng trái pháp luật (đã tuân thủ các quy định
về bảo quản, trông giữ, vận chuyển,
sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo
đúng các quy định của pháp luật).
Nếu chủ sở hữu,
người được chủ sở hữu giao
chiếm hữu, sử dụng hợp pháp có lỗi trong việc để
nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu,
sử dụng trái pháp
luật (không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy
đủ các quy định về bảo quản,
trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ theo quy định của pháp
luật) thì phải liên đới cùng với người
chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra.
đ) Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm
cao độ đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mà gây
thiệt hại thì phải xác định trong
trường hợp cụ
thể đó người được giao nguồn nguy
hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu,
sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ hay không để xác định ai có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: A là chủ sở hữu xe ô tô đã giao xe ô tô
đó cho B. B lái xe ô tô tham gia giao thông đã gây ra tai nạn
và gây thiệt hại thì cần phải phân biệt:
- Nếu B chỉ được A thuê lái xe ô tô và
được trả tiền công, có nghĩa B không phải là người chiếm
hữu, sử dụng xe ô tô đó mà A vẫn chiếm
hữu, sử dụng; do đó, A phải bồi
thường thiệt hại.
- Nếu B được A giao xe ô tô thông qua hợp
đồng thuê tài sản, có nghĩa A không còn chiếm
hữu, sử dụng xe ô tô đó mà B là người
chiếm hữu, sử dụng hợp pháp; do đó, B
phải bồi thường thiệt hại. Nếu trong
trường hợp này được sự đồng ý
của A, B giao xe ô tô cho C thông qua hợp đồng cho thuê
lại tài sản, thì C là
người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô
tô đó; do đó, C phải bồi thường
thiệt hại.
IV. Hiệu
lực thi hành của Nghị quyết
1. Nghị quyết này đã được Hội
đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 08
tháng 7 năm 2006 và có hiệu lực thi hành sau mười
lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Nghị
quyết này thay thế Nghị quyết số
01/2004/NQ-HĐTP ngày 28-4-2004 của
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
2.
Đối với những trường hợp bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà có
văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ
thể về bồi thường, thì việc giải
quyết được thực hiện theo quy định
của văn bản quy phạm pháp luật đó.
3. Đối với những
trường hợp bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng phát sinh trước ngày 01-01-2006
(ngày Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực),
thì áp dụng quy định của Bộ luật dân
sự năm 1995, các văn bản pháp luật hướng
dẫn áp dụng Bộ luật
dân sự năm 1995 và hướng dẫn của Nghị
quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28-4-2004 của
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
để giải quyết.
4.
Đối với các bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi
hành mà trong đó có quyết định về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng
được hướng dẫn trong Nghị quyết
này, thì không áp dụng Nghị quyết này để kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm, trừ trường hợp việc kháng
nghị bản án, quyết định có căn cứ khác.
TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
CHÁNH ÁN
Nguyễn
Văn Hiện
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Hiệu lực.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem VB liên quan.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Nâng cao để xem Nội dung MIX.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây