Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Thông tư số 86/2005/TT-BTC của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Quyết định số 136/2005/QĐ-TTg ngày 09/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án dân sự
- Tóm tắt
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
- Báo lỗi
- Gửi liên kết tới Email
- In tài liệu
- Chia sẻ:
- Chế độ xem: Sáng | Tối
- Thay đổi cỡ chữ:17
- Chú thích màu chỉ dẫn
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 86/2005/TT-BTC NGÀY 03 THÁNG 10 NĂM 2005
HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ ĐIỀU CỦA QUYẾT ĐỊNH SỐ 136/2005/QĐ-TTG NGÀY 09 THÁNG 6 NĂM 2005 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC HỖ TRỢ TÀI CHÍNH TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
- Căn cứ Nghị định số 77/2003/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2003 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính;
- Căn cứ Quyết định số 136/2005/QĐ-TTg ngày 09 tháng 6 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án dân sự,
Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Quyết định số 136/2005/QĐ-TTg ngày 09 tháng 6 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ như sau:
- Đối với trường hợp hợp nhất, sáp nhập thì tổ chức mới tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Nếu tổ chức mới là đối tượng được quy định tại các điểm từ điểm 1.1 đến điểm 1.4 Khoản này và đáp ứng đủ các điều kiện tại Khoản 2 Mục này thì được hỗ trợ tài chính để thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
- Đối với trường hợp chia, tách thì cơ quan ra quyết định chia tách phải xác định rõ tổ chức phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Trường hợp quyết định chia, tách không quy định nghĩa vụ của các tổ chức mới thì các tổ chức được hình thành sau chia, tách phải liên đới chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Nếu các tổ chức mới thuộc đối tượng được quy định tại các điểm từ điểm 1.1 đến điểm 1.4 Khoản này và đáp ứng đủ các điều kiện tại Khoản 2 Mục này thì được hỗ trợ tài chính để thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
- Đối với trường hợp giải thể thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định giải thể có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án trong việc xử lý tài sản của tổ chức bị giải thể để thi hành án. Nếu nghĩa vụ thi hành án của tổ chức bị giải thể được chuyển giao cho tổ chức khác thì tổ chức mới tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Nếu tổ chức mới thuộc đối tượng được quy định tại các điểm từ điểm 1.1 đến điểm 1.4 Khoản này và đáp ứng đủ các điều kiện tại Khoản 2 Mục này thì được hỗ trợ tài chính để thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
- Việc thi hành án làm cho tổ chức phải thi hành án bị ảnh hưởng lớn đến thực hiện nhiệm vụ được giao khi số tiền phải thi hành án bằng hoặc lớn hơn 30% kinh phí hoạt động thường xuyên được cấp trong năm của tổ chức phải thi hành án. Kinh phí hoạt động thường xuyên được cấp trong năm gồm nguồn kinh phí hoạt động thường xuyên được ngân sách nhà nước cấp và nguồn thu được để lại sử dụng theo quy định (nếu có).
- Việc thi hành án làm cho tình hình tài chính và điều kiện làm việc của tổ chức phải thi hành án bị ảnh hưởng nghiêm trọng, dẫn đến bị giải thể hoặc ngừng hoạt động.
- Việc thi hành án của tổ chức phải thi hành án làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, quốc phòng và trật tự công cộng.
Tổ chức phải thi hành án có trách nhiệm giải trình cụ thể về những ảnh hưởng của việc thi hành án tới hoạt động của tổ chức, có xác nhận của cơ quan thi hành án, cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp về những nội dung giải trình. Trong trường hợp việc thi hành án có thể ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng, trật tự công cộng thì ngoài xác nhận của các cơ quan nói trên còn phải có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cùng cấp với cơ quan thi hành án, nơi tổ chức phải thi hành án có trụ sở chính.
Các biện pháp tài chính tổ chức phải thi hành án cần áp dụng gồm:
Người đứng đầu tổ chức phải thi hành án chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện các biện pháp tài chính đảm bảo thi hành án.
Các tài liệu trong hồ sơ đề nghị hỗ trợ thi hành án không bắt buộc phải là bản gốc. Trong trường hợp là bản sao thì phải được công chứng hoặc có chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tổ chức phải thi hành án chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực của các tài liệu, hồ sơ.
- Xem xét tính đầy đủ, xác thực của hồ sơ;
- Xem xét điều kiện hỗ trợ của tổ chức phải thi hành án;
- Kiểm tra, thẩm định các số liệu về số tiền phải thi hành án, số tiền mà tổ chức phải thi hành án có được để thi hành án do áp dụng các biện pháp tài chính và mức đề nghị được hỗ trợ;
- Kiến nghị mức hỗ trợ đối với tổ chức phải thi hành án.
- Kiểm tra lại tính chính xác của các số liệu, tài liệu;
- Kiểm tra, xác định mức hỗ trợ theo hướng dẫn tại điểm 3.3 khoản 3 Mục này;
- Quyết định hoặc trình Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp trên quyết định theo thẩm quyền mức hỗ trợ thi hành án và thông báo cho tổ chức phải thi hành án, cơ quan thi hành án về mức hỗ trợ được duyệt. Trong trường hợp không hỗ trợ vẫn phải thông báo bằng văn bản tới tổ chức phải thi hành án, cơ quan thi hành án và nêu rõ lý do.
- Việc cấp kinh phí hỗ trợ thi hành án tới tổ chức phải thi hành án được thực hiện theo chế độ quản lý tài chính hiện hành.
Kinh phí hỗ trợ để thi hành án phải được sử dụng đúng mục đích. Quá 10 ngày kể từ ngày nhận được kinh phí do cơ quan tài chính cấp mà tổ chức phải thi hành án chưa thanh toán cho người được thi hành án thì phải nộp trả kinh phí hỗ trợ vào ngân sách nhà nước.
Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kinh phí hỗ trợ thi hành án, tổ chức phải thi hành án có trách nhiệm lập báo cáo bằng văn bản về tình hình thanh toán tiền thi hành án cho người được thi hành án, gửi cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp, đồng thời gửi cơ quan tài chính đã cấp kinh phí hỗ trợ thi hành án.
- Phối hợp với cơ quan thi hành án tiến hành thanh toán tiền thi hành án cho người được thi hành án theo thứ tự ưu tiên quy định tại Điều 51 và Điều 52 của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.
- Tự bố trí, thực hiện phần nghĩa vụ thi hành án còn lại.
Người đứng đầu tổ chức phải thi hành án phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu sử dụng tiền hỗ trợ thi hành án sai mục đích hoặc chậm thanh toán tiền cho người được thi hành án.
Trong trường hợp tổ chức phải thi hành án vẫn không có khả năng thực hiện nốt nghĩa vụ thi hành án còn lại, cơ quan thi hành án được phép thực hiện các biện pháp nghiệp vụ cần thiết buộc thực hiện nốt nghĩa vụ với người được thi hành án.
Việc quyết toán thu nộp ngân sách số tiền thu hồi thực hiện theo chế độ quản lý tài chính hiện hành.
Mọi khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án dân sự phải được giải quyết kịp thời theo đúng các quy định tại Luật khiếu nại tố cáo và Pháp lệnh thi hành án dân sự.
Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày đăng Công báo. Trong quá trình thực hiện nếu gặp khó khăn, vướng mắc đề nghị phản ánh kịp thời về Bộ Tài chính để xem xét, giải quyết.
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
(đã ký)
Trần Văn Tá
thuộc tính Thông tư 86/2005/TT-BTC
Cơ quan ban hành: | Bộ Tài chính | Số công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 86/2005/TT-BTC | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Thông tư | Người ký: | Trần Văn Tá |
Ngày ban hành: | 03/10/2005 | Ngày hết hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày hết hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Áp dụng: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Thuế-Phí-Lệ phí , Chính sách , Tư pháp-Hộ tịch |
* Hỗ trợ tài chính thi hành án - Ngày 03/10/2005, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 86/2005/TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Quyết định số 136/2005/QĐ-TTg về việc hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án dân sự. Tổ chức phải thi hành án được hỗ trợ tài chính khi việc thi hành án làm cho tổ chức phải thi hành án bị ảnh hưởng lớn đến thực hiện nhiệm vụ được giao khi số tiền phải thi hành án bằng hoặc lớn hơn 30% kinh phí hoạt động thường xuyên được cấp trong năm của tổ chức phải thi hành án... Mức hỗ trợ tài chính để thi hành án do người có thẩm quyền quyết định, được xác định bằng toàn bộ hoặc một phần khoản chênh lệch giữa tổng số tiền thuộc các nghĩa vụ phải thực hiện đối với đối tượng được thi hành án (bằng tiền mặt và bằng tài sản nếu bản án đã quy ra thành tiền) và tổng số tiền mà tổ chức phải thi hành án có được để thi hành án do áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết... Kinh phí hỗ trợ để thi hành án phải được sử dụng đúng mục đích. Quá 10 ngày kể từ ngày nhận được kinh phí do cơ quan tài chính cấp mà tổ chức phải thi hành án chưa thanh toán cho người được thi hành án thì phải nộp trả kinh phí hỗ trợ vào ngân sách nhà nước... Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Xem chi tiết Thông tư86/2005/TT-BTC tại đây
tải Thông tư 86/2005/TT-BTC
THÔNG TƯ
CỦA BỘ
TÀI CHÍNH SỐ 86/2005/TT-BTC NGÀY
03 THÁNG 10 NĂM 2005 HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ
ĐIỀU CỦA QUYẾT ĐỊNH
SỐ 136/2005/QĐ-TTG NGÀY 09 THÁNG 6 NĂM 2005 CỦA
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC HỖ TRỢ
TÀI CHÍNH
TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
- Căn cứ
Nghị định số 77/2003/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm
2003 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính;
- Căn cứ
Quyết định số 136/2005/QĐ-TTg ngày 09 tháng 6
năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về
việc hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước
để thi hành án dân sự,
Bộ Tài chính
hướng dẫn thi hành một số điều
của Quyết định số 136/2005/QĐ-TTg ngày 09
tháng 6 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ
như sau:
I. QUY ĐỊNH CHUNG
1. Thông tư này hướng dẫn thực
hiện một số quy định của Quyết
định số 136/2005/QĐ-TTg ngày 09/6/2005 của
Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ
trợ tài chính từ ngân sách nhà nước để thi
hành án dân sự (dưới đây gọi chung là Quyết
định 136/2005/QĐ-TTg). Đối với những
nội dung khác không được hướng dẫn
tại Thông tư này phải được thực
hiện theo đúng các quy định của Quyết
định 136/2005/QĐ-TTg.
2. Việc hỗ trợ tài chính từ ngân
sách nhà nước để thi hành án dân sự
hướng dẫn tại Thông tư này được áp
dụng đối với bản án, quyết định
dân sự có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7
năm 2004 (ngày Pháp lệnh thi hành án dân sự có hiệu
lực thi hành) nhưng chưa được thi hành,
thuộc đối tượng được quy
định tại Điều 1 và có đủ các
điều kiện theo quy định tại Điều 2
Quyết định 136/2005/QĐ-TTg.
II. QUY ĐỊNH CỤ THỂ
1. Đối
tượng được hỗ trợ tài chính
để thi hành án gồm:
1.1. Cơ quan nhà nước;
1.2. Tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị-xã hội và các cơ quan, đơn
vị thuộc tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị-xã hội hoạt động hoàn toàn bằng
kinh phí do ngân sách nhà nước cấp;
1.3. Đơn vị sự nghiệp do nhà
nước thành lập, được ngân sách nhà
nước bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt
động;
1.4. Đơn vị thuộc lực
lượng vũ trang được nhà nước
bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động.
1.5. Đối với các tổ chức
phải thi hành án quy định tại các điểm
từ điểm 1.1 đến điểm 1.4 Khoản này
đã bị chia, tách, giải thể khi chưa thực
hiện xong nghĩa vụ thi hành án thì việc hỗ
trợ tài chính được thực hiện như sau:
- Đối với trường hợp
hợp nhất, sáp nhập thì tổ chức mới
tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
Nếu tổ chức mới là đối tượng
được quy định tại các điểm từ
điểm 1.1 đến điểm 1.4 Khoản này và
đáp ứng đủ các điều kiện tại
Khoản 2 Mục này thì được hỗ trợ tài
chính để thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
- Đối với trường hợp chia,
tách thì cơ quan ra quyết định chia tách phải xác
định rõ tổ chức phải tiếp tục
thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Trường
hợp quyết định chia, tách không quy định
nghĩa vụ của các tổ chức mới thì các
tổ chức được hình thành sau chia, tách phải
liên đới chịu trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ thi hành án. Nếu các tổ chức mới
thuộc đối tượng được quy
định tại các điểm từ điểm 1.1
đến điểm 1.4 Khoản này và đáp ứng
đủ các điều kiện tại Khoản 2 Mục
này thì được hỗ trợ tài chính để
thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
- Đối với trường hợp
giải thể thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định giải thể có trách nhiệm phối hợp
với cơ quan thi hành án trong việc xử lý tài sản
của tổ chức bị giải thể để thi
hành án. Nếu nghĩa vụ thi hành án của tổ
chức bị giải thể được chuyển giao
cho tổ chức khác thì tổ chức mới tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Nếu
tổ chức mới thuộc đối tượng
được quy định tại các điểm từ
điểm 1.1 đến điểm 1.4 Khoản này và
đáp ứng đủ các điều kiện tại
Khoản 2 Mục này thì được hỗ trợ tài
chính để thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
1.6. Các doanh nghiệp nhà nước đã
bị giải thể, bị tuyên bố phá sản, bị
chia, tách, cổ phần hoá thì nghĩa vụ thi hành án
được chuyển giao theo quy định của pháp
luật về thi hành án dân sự. Nếu tổ chức
tiếp nhận nghĩa vụ thi hành án của các doanh
nghiệp nhà nước đã bị giải thể,
bị tuyên bố phá sản, bị chia, tách, cổ phần
hoá thuộc đối tượng được quy
định tại các điểm từ điểm 1.1
đến điểm 1.4 Khoản này và đáp ứng
đủ các điều kiện được quy
định tại Khoản 2 Mục này thì được
hỗ trợ tài chính để thực hiện nghĩa
vụ thi hành án.
2. Tổ
chức phải thi hành án quy định tại Điều
1 của Quyết định 136/2005/QĐ-TTg
được hỗ trợ tài chính để thi hành án khi
có đủ cả 2 điều kiện sau đây:
2.1. Việc thi hành án làm cho tổ chức
phải thi hành án bị ảnh hưởng lớn
đến việc thực hiện nhiệm vụ
được giao; phải ngừng hoạt động;
bị giải thể hoặc ảnh hưởng
đến an ninh, quốc phòng, trật tự công cộng.
Cụ thể như sau:
- Việc thi hành án làm cho tổ chức
phải thi hành án bị ảnh hưởng lớn
đến thực hiện nhiệm vụ được
giao khi số tiền phải thi hành án bằng hoặc
lớn hơn 30% kinh phí hoạt động thường
xuyên được cấp trong năm của tổ
chức phải thi hành án. Kinh phí hoạt động
thường xuyên được cấp trong năm gồm
nguồn kinh phí hoạt động thường xuyên
được ngân sách nhà nước cấp và nguồn thu
được để lại sử dụng theo quy
định (nếu có).
- Việc thi hành án làm cho tình hình tài chính và
điều kiện làm việc của tổ chức
phải thi hành án bị ảnh hưởng nghiêm trọng,
dẫn đến bị giải thể hoặc ngừng
hoạt động.
- Việc thi hành án của tổ chức
phải thi hành án làm ảnh hưởng đến tình hình
an ninh, quốc phòng và trật tự công cộng.
Tổ chức phải thi hành án có trách
nhiệm giải trình cụ thể về những ảnh
hưởng của việc thi hành án tới hoạt
động của tổ chức, có xác nhận của
cơ quan thi hành án, cơ quan quản lý cấp trên trực
tiếp về những nội dung giải trình. Trong trường
hợp việc thi hành án có thể ảnh hưởng
đến an ninh, quốc phòng, trật tự công cộng
thì ngoài xác nhận của các cơ quan nói trên còn phải có
xác nhận của Uỷ ban nhân dân cùng cấp với cơ
quan thi hành án, nơi tổ chức phải thi hành án có
trụ sở chính.
2.2. Sau khi tổ chức phải thi hành án
đã áp dụng mọi biện pháp tài chính cần thiết
theo quy định của pháp luật mà vẫn không có
khả năng thực hiện nghĩa vụ thi hành án
hoặc chỉ có khả năng thực hiện một
phần nghĩa vụ thi hành án.
Các biện pháp tài chính tổ chức phải
thi hành án cần áp dụng gồm:
2.2.1. Đối với cơ quan, tổ
chức được ngân sách nhà nước bảo
đảm toàn bộ kinh phí hoạt động phải áp
dụng các biện pháp tiết kiệm kinh phí chi
thường xuyên của đơn vị để
thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
2.2.2. Đối với các cơ quan, tổ
chức đang thực hiện cơ chế khoán chi hành
chính phải điều chỉnh định mức,
chế độ chi tiêu xuống mức thấp nhất
theo chế độ hiện hành của Nhà nước
để tiết kiệm từ kinh phí khoán chi thực
hiện nghĩa vụ thi hành án.
2.2.3. Ngoài các biện pháp trên, tổ chức
phải thi hành án có thể áp dụng các biện pháp tài chính
khác phù hợp với quy định của pháp luật
hiện hành.
Người đứng đầu tổ
chức phải thi hành án chịu trách nhiệm trước
pháp luật về việc thực hiện các biện pháp
tài chính đảm bảo thi hành án.
2.3. Sau 12 tháng tính từ ngày tổ chức
phải thi hành án áp dụng các biện pháp tài chính
được quy định tại điểm 2.2
Khoản này mà vẫn không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ thi hành án thì được xem xét hỗ
trợ tài chính từ ngân sách nhà nước để thi
hành án theo quy định tại Quyết định
136/2005/QĐ-TTg và hướng dẫn tại Thông tư này.
3. Phạm vi và
mức hỗ trợ
3.1. Hỗ trợ tài chính để thi hành án
chỉ thực hiện đối với trách nhiệm
thanh toán bằng tiền cho người được thi
hành án, bao gồm nghĩa vụ bằng tiền mặt và
bằng tài sản nếu bản án đã quy ra thành
tiền.
3.2. Trong trường hợp tổ chức
phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thi
hành án với nhiều đối tượng
được thi hành án trong một bản án hoặc
phải thực hiện nhiều nghĩa vụ thi hành án
trong nhiều bản án khác nhau thì số tiền phải thi
hành án là tổng các nghĩa vụ thi hành án mà tổ
chức phải thi hành án phải thực hiện.
3.3. Mức
hỗ trợ tài chính để thi hành án do người có
thẩm quyền quyết định, được xác
định bằng toàn bộ hoặc một phần
khoản chênh lệch giữa tổng số tiền thuộc
các nghĩa vụ phải thực hiện đối
với đối tượng được thi hành án
(bằng tiền mặt và bằng tài sản nếu
bản án đã quy ra thành tiền) và tổng số tiền
mà tổ chức phải thi hành án có được
để thi hành án do áp dụng các biện pháp tài chính
cần thiết.
4. Thủ
tục hỗ trợ tài chính để thi hành án
4.1. Tổ chức phải thi hành án lập
hồ sơ đề nghị ngân sách nhà nước
hỗ trợ tài chính để thi hành án theo quy định
tại Khoản 3 Điều 5 Quyết định
136/2005/QĐ-TTg gửi cơ quan quản lý cấp trên
trực tiếp để kiểm tra, gửi Bộ, cơ
quan Trung ương của tổ chức phải thi hành án
(nếu là đơn vị dự toán của ngân sách Trung
ương) hoặc cơ quan tài chính cùng cấp (nếu là
đơn vị dự toán của ngân sách địa
phương).
4.2. Cơ quan có thẩm quyền quy
định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 5
của Quyết định 136/2005/QĐ-TTg có quyền
từ chối tiếp nhận đề nghị hỗ
trợ tài chính thi hành án trong trường hợp tổ
chức phải thi hành án không cung cấp đủ hồ
sơ theo quy định tại Khoản 3 Điều 5
của Quyết định 136/2005/QĐ-TTg.
Các tài liệu trong hồ sơ đề
nghị hỗ trợ thi hành án không bắt buộc phải
là bản gốc. Trong trường hợp là bản sao thì
phải được công chứng hoặc có chứng
thực của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Tổ chức phải thi hành án chịu trách
nhiệm trước pháp luật về tính trung thực
của các tài liệu, hồ sơ.
4.3. Trong thời hạn 30 ngày làm việc,
kể từ ngày nhận được hồ sơ và
đề nghị của tổ chức phải thi hành án,
các Bộ, cơ quan Trung ương của tổ chức
phải thi hành án hoặc cơ quan tài chính địa
phương có trách nhiệm kiểm tra điều kiện
và thẩm định mức đề nghị hỗ
trợ thi hành án gửi Bộ Tài chính (nếu là đơn
vị dự toán của ngân sách Trung ương) hoặc
trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp (nếu là đơn vị dự toán của ngân sách
địa phương). Nội dung kiểm tra điều
kiện và thẩm định mức hỗ trợ
gồm:
- Xem xét tính đầy đủ, xác thực
của hồ sơ;
- Xem xét
điều kiện hỗ trợ của tổ
chức phải thi hành án;
- Kiểm tra, thẩm định các số
liệu về số tiền phải thi hành án, số
tiền mà tổ chức phải thi hành án có
được để thi hành án do áp dụng các biện
pháp tài chính và mức đề nghị được
hỗ trợ;
- Kiến nghị mức hỗ trợ
đối với tổ chức phải thi hành án.
4.4. Trong thời hạn 30 ngày làm việc
kể từ ngày nhận được hồ sơ
đầy đủ và ý kiến thẩm định
của các Bộ, cơ quan Trung ương của tổ
chức phải thi hành án, hoặc cơ quan tài chính cùng
cấp, Bộ Tài chính hoặc Uỷ ban nhân dân nơi
nhận hồ sơ đề nghị hỗ trợ tài
chính để thi hành án (quy định tại điểm
4.3 Khoản này) có trách nhiệm:
- Kiểm tra lại tính chính xác của các
số liệu, tài liệu;
- Kiểm tra, xác định mức hỗ
trợ theo hướng dẫn tại điểm 3.3
khoản 3 Mục này;
- Quyết định hoặc trình Thủ
tướng Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp trên
quyết định theo thẩm quyền mức hỗ
trợ thi hành án và thông báo cho tổ chức phải thi hành
án, cơ quan thi hành án về mức hỗ trợ
được duyệt. Trong trường hợp không
hỗ trợ vẫn phải thông báo bằng văn bản
tới tổ chức phải thi hành án, cơ quan thi hành án
và nêu rõ lý do.
- Việc cấp kinh phí hỗ trợ thi hành
án tới tổ chức phải thi hành án được
thực hiện theo chế độ quản lý tài chính
hiện hành.
5. Thanh toán,
quyết toán tiền thi hành án cho người
được thi hành án
5.1. Trong thời hạn 10 ngày làm việc
kể từ ngày nhận được kinh phí hỗ
trợ thi hành án, tổ chức phải thi hành án phải
tiến hành các thủ tục trực tiếp hoặc thông
qua cơ quan thi hành án thanh toán tiền thi hành án cho
người được thi hành án theo các quy định
của pháp luật về thi hành án dân sự.
Kinh phí hỗ trợ để thi hành án
phải được sử dụng đúng mục
đích. Quá 10 ngày kể từ ngày nhận được
kinh phí do cơ quan tài chính cấp mà tổ chức phải
thi hành án chưa thanh toán cho người được thi
hành án thì phải nộp trả kinh phí hỗ trợ vào ngân
sách nhà nước.
Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể
từ ngày nhận được kinh phí hỗ trợ thi
hành án, tổ chức phải thi hành án có trách nhiệm
lập báo cáo bằng văn bản về tình hình thanh toán
tiền thi hành án cho người được thi hành án,
gửi cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp,
đồng thời gửi cơ quan tài chính đã cấp
kinh phí hỗ trợ thi hành án.
5.2. Trong trường hợp ngân sách nhà
nước chỉ hỗ trợ một phần số
tiền phải thi hành án, tổ chức phải thi hành án
có trách nhiệm:
- Phối hợp với cơ quan thi hành án
tiến hành thanh toán tiền thi hành án cho người
được thi hành án theo thứ tự ưu tiên quy
định tại Điều 51 và Điều 52 của
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.
- Tự bố trí, thực hiện phần
nghĩa vụ thi hành án còn lại.
Người đứng đầu tổ
chức phải thi hành án phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật nếu sử dụng tiền
hỗ trợ thi hành án sai mục đích hoặc chậm
thanh toán tiền cho người được thi hành án.
Trong trường hợp tổ chức
phải thi hành án vẫn không có khả năng thực
hiện nốt nghĩa vụ thi hành án còn lại, cơ
quan thi hành án được phép thực hiện các biện
pháp nghiệp vụ cần thiết buộc thực
hiện nốt nghĩa vụ với người
được thi hành án.
5.3. Kết thúc năm ngân sách, tổ chức
phải thi hành án có trách nhiệm gửi báo cáo quyết toán
khoản kinh phí được ngân sách nhà nước
hỗ trợ thi hành án về Bộ, cơ quan Trung
ương của tổ chức phải thi hành án
(đối với tổ chức phải thi hành án là
đơn vị dự toán ngân sách Trung ương) hoặc
cơ quan tài chính cùng cấp (đối với tổ
chức phải thi hành án là đơn vị dự toán
của ngân sách địa phương) để tổng
hợp vào báo cáo quyết toán của Bộ, ngành,
địa phương theo quy định của Luật
Ngân sách nhà nước.
6. Thủ
tục hoàn trả các khoản hỗ trợ thi hành án vào
ngân sách nhà nước
6.1. Tổ chức phải thi hành án có trách
nhiệm thu hồi, nộp ngân sách nhà nước số
tiền, tài sản của người gây ra thiệt
hại phải hoàn trả theo quy định của pháp
luật. Số tiền thu hồi từ người gây ra
thiệt hại ở các tổ chức phải thi hành án là
đơn vị thuộc Trung ương quản lý nộp
vào ngân sách Trung ương. Số tiền thu hồi từ
người gây ra thiệt hại ở các tổ chức
phải thi hành án là đơn vị thuộc địa
phương quản lý nộp
vào ngân sách địa phương.
Việc quyết toán thu nộp ngân sách số
tiền thu hồi thực hiện theo chế độ
quản lý tài chính hiện hành.
6.2. Mức hoàn trả vào ngân sách nhà
nước phải do Hội đồng xét hoàn trả
quyết định trên cơ sở xem xét mức
độ lỗi, mức tiền thuộc trách nhiệm phải
thi hành án, hoàn cảnh gia đình, nhân thân và điều
kiện kinh tế của người gây ra thiệt
hại.
6.3. Người đứng đầu
tổ chức phải thi hành án có trách nhiệm ra quyết
định thành lập Hội đồng xét hoàn trả,
chậm nhất là sau 15 ngày kể từ ngày cơ quan có
thẩm quyền ra quyết định về việc
hỗ trợ tài chính để thi hành án.
6.4. Thành viên Hội đồng xét hoàn trả
gồm: Chủ tịch Hội đồng xét hoàn trả là
người đứng đầu hoặc cấp phó
của người đứng đầu tổ chức
phải thi hành án, đại diện của tổ chức
công đoàn cơ sở, người phụ trách trực
tiếp của người gây ra thiệt hại, kế
toán trưởng, những người có liên quan. Trong
trường hợp cần thiết có thể mời thêm
chuyên gia thuộc các lĩnh vực có liên quan. Hội
đồng tự giải thể sau khi hoàn thành nhiệm
vụ.
6.5. Người đứng đầu
tổ chức phải thi hành án ra quyết định
về mức hoàn trả, thời hạn hoàn trả trên
cơ sở đề nghị của Hội đồng.
Quyết định hoàn trả phải gửi cho
người gây ra thiệt hại và những người
có liên quan để thực hiện. Trong trường
hợp có đơn yêu cầu được miễn,
giảm mức hoàn trả, người đứng
đầu tổ chức phải thi hành án có trách nhiệm
xem xét, quyết định theo thẩm quyền. Tại
quyết định về việc miễn, giảm
mức hoàn trả phải nêu rõ căn cứ pháp lý và lý do
giải quyết.
6.6. Trong trường hợp người gây
ra thiệt hại cũng đồng thời là
người đứng đầu tổ chức phải
thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan quản lý
cấp trên trực tiếp của tổ chức phải
thi hành án là người ra quyết định về
mức hoàn trả vào ngân sách nhà nước.
6.7. Nếu người phải hoàn trả
không thống nhất với mức hoàn trả hoặc
từ chối hoàn trả thì tổ chức phải thi hành
án phải lập hồ sơ yêu cầu toà án giải
quyết.
7. Giải
quyết khiếu nại, tố cáo
Mọi khiếu nại, tố cáo liên quan
đến việc hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà
nước để thi hành án dân sự phải
được giải quyết kịp thời theo đúng
các quy định tại Luật khiếu nại tố cáo
và Pháp lệnh thi hành án dân sự.
8. Điều
khoản thi hành
Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày
kể từ ngày đăng Công báo. Trong quá trình thực
hiện nếu gặp khó khăn, vướng mắc
đề nghị phản ánh kịp thời về Bộ
Tài chính để xem xét, giải quyết.
KT.
BỘ TRƯỞNG
THỨ
TRƯỞNG
(đã
ký)
Trần
Văn Tá
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Hiệu lực.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem VB liên quan.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây