NGHỊ QUYẾT
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ
09/2001/NQ-CP NGÀY 28 THÁNG 8 NĂM 2001
VỀ TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THỜI KỲ 2001 - 2005
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng đã khẳng định kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế
khác. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ trương quan trọng, góp phần
khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên
sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển
đất nước.
Trong hơn mười năm qua kể từ khi ban hành Luật
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tích cực
vào việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, vào thắng lợi của công cuộc
đổi mới, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, tăng cường thế và lực của
Việt Nam trên trường quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một
trong những nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển; có tác dụng thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mở ra nhiều ngành nghề,
sản phẩm mới; nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, mở rộng thị
trường xuất khẩu; tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần mở rộng quan hệ đối
ngoại và chủ động hội nhập kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
những năm qua cũng đã bộc lộ những mặt yếu kém, hạn chế. Nhận thức, quan điểm
về đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa thực sự thống nhất và chưa được quán triệt
đầy đủ ở các cấp, các ngành; cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài có mặt còn bất
hợp lý và hiệu quả tổng thể về kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài chưa cao; môi trường đầu tư còn chưa hấp dẫn; môi trường kinh tế và
pháp lý còn đang trong quá trình hoàn thiện nên chưa đồng bộ; công tác quản lý
Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài còn những mặt yếu kém; thủ tục hành
chính còn phiền hà; công tác cán bộ còn nhiều bất cập. Nhịp độ tăng trưởng đầu
tư trực tiếp nước ngoài từ năm 1997 liên tục giảm sút, tuy từ năm 2000 có dấu
hiệu phục hồi nhưng chưa vững chắc, nếu không kịp thời có biện pháp khắc phục
sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư phát triển những năm tới. Trong khi đó, cạnh
tranh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới và khu vực diễn ra
ngày càng gay gắt, nhất là sau khủng hoảng kinh tế khu vực; nhịp tăng trưởng
của kinh tế thế giới đang chậm lại; các nền kinh tế khu vực, những đối tác
chính đầu tư vào Việt Nam, đang gặp khó khăn.
Nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, củng
cố niềm tin của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo điều kiện để thành
phần kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển thuận lợi, đóng góp
nhiều hơn vào phát triển kinh tế, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới, Chính phủ ban hành Nghị quyết
về "Tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài
thời kỳ 2001 - 2005", với những nội dung chính như sau:
I. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH
HƯỚNG THU HÚT ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1. Mục tiêu:
Để thực hiện Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và phương hướng nhiệm vụ Kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài phải
phát triển ổn định hơn, đạt kết quả cao hơn, đặc biệt là về chất lượng, so với
thời kỳ trước, để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cụ thể hơn,
hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời kỳ 2001 - 2005 phải đạt được các mục
tiêu sau:
a) Vốn đăng ký của các dự
án cấp giấy phép mới: khoảng 12 tỷ USD.
b) Vốn thực hiện: khoảng
11 tỷ USD.
c) Đến năm 2005 đóng góp
khoảng 15% GDP, 25% tổng kim ngạch xuất khẩu và khoảng 10% tổng thu ngân sách
của cả nước (không kể dầu khí).
2. Định hướng:
a) Khuyến khích mạnh mẽ
việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất
hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến; công nghiệp phục vụ phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn; các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông, sản xuất phát triển kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và các ngành mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh
tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
b) Tiếp tục thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai trò
của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác trên cơ
sở phát huy lợi thế so sánh. Khuyến khích và dành các ưu đãi tối đa cho đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào những vùng và địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn và đẩy mạnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở các địa
bàn này bằng các nguồn vốn khác để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Tập trung thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các Khu
công nghiệp tập trung đã hình thành theo quy hoạch được phê duyệt.
c) Khuyến khích các nhà
đầu tư trực tiếp nước ngoài từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt
Nam, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng lớn về tài chính và nắm
công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển; tiếp tục thu hút các nhà
đầu tư trực tiếp nước ngoài ở khu vực. Có kế hoạch vận động các tập đoàn, công
ty lớn đầu tư vào Việt Nam, đồng thời chú ý đến các công ty có quy mô vừa và
nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại; khuyến khích, tạo thuận lợi cho người Việt Nam
định cư ở nước ngoài đầu tư về nước.
II. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư trực
tiếp nước ngoài
a) Xây dựng Danh mục dự
án quốc gia kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2001 - 2005 và công bố
trong năm 2001, làm cơ sở cho việc vận động xúc tiến đầu tư. Các dự án khi được
lựa chọn đưa vào danh mục này phải có sự thống nhất trước về chủ trương và quy
hoạch và được bố trí vốn làm dự án tiền khả thi. Các Bộ, ngành, địa phương chủ
động xây dựng và công bố danh mục dự án kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài của
ngành, địa phương mình sau khi thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
b) Các Bộ, ngành xây dựng
và điều chỉnh quy hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu phù hợp với Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
2001 - 2005; xác định rõ nhu cầu về từng loại nguồn vốn, trong đó có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài để đạt được các mục tiêu, sản phẩm đặt ra trong kế hoạch.
2. Tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cơ chế chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài
a) Tiếp tục nghiên cứu
xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư trực
tiếp nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài phát triển theo đúng định hướng của Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội và phù hợp với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
b) Nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư
trực tiếp nước ngoài theo hướng:
- Thiết lập một mặt bằng
pháp lý chung áp dụng cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài
nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh; đồng
thời áp dụng một số quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối
tượng, lĩnh vực trong từng thời kỳ.
- Đa dạng hoá các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài để khai thác
thêm các kênh thu hút đầu tư mới; nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình
thức đầu tư như công ty hợp danh, công ty quản lý vốn; sửa đổi, bổ sung Nghị
định số 103/1999/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về giao, bán,
khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước, theo hướng cho phép nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài mua, nhận khoán kinh doanh, quản lý, thuê các doanh nghiệp trong
nước; nghiên cứu mô hình khu kinh tế mở.
- Mở rộng lĩnh vực thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với cam kết trong quá trình chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Từng bước mở thị trường bất động sản cho người Việt Nam định
cư ở nước ngoài và các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia đầu tư tại Việt
Nam; xây dựng cơ chế để doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài được xây dựng,
kinh doanh nhà ở và xây dựng, kinh doanh phát triển khu đô thị mới; khuyến
khích đầu tư trong các lĩnh vực dịch vụ khoa học, công nghệ dịch vụ thông tin,
chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực; từng bước mở rộng khả năng
hợp tác đầu tư trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch.
Trong năm 2001 cần thực hiện một số công việc cấp bách sau:
- Xây dựng Đề án mở rộng
lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên cơ sở tổng kết, đánh giá
những lĩnh vực đã cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài làm thí điểm, những lĩnh
vực mà trong thời gian qua có chủ trương không cấp phép hoặc hạn chế cấp phép
đầu tư; điều chỉnh danh mục các sản phẩm phải đảm bảo tỷ lệ xuất khẩu ít nhất
80%.
Căn cứ Đề án trên và các
quy định hiện hành, nhà đầu tư được chủ động lựa chọn dự án đầu tư theo đúng
quy định tại Điều 3 Nghị định số
24/2000/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Các
cơ quan quản lý Nhà nước không được tự ý đặt ra bất cứ hạn chế nào khác đối với
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Xây dựng Quy chế thực
hiện thí điểm việc chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần và tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp này được đăng ký tại thị trường chứng khoán. Nghiên cứu sửa đổi các quy
định cụ thể về thời hạn đàm phán dự án BOT và quy tắc, thẩm quyền chỉ định nhà
đầu tư trực tiếp nước ngoài làm dự án BOT trong một số trường hợp cần thiết.
- Ban hành các quy định
về việc cho phép nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài được đầu tư vào dịch vụ nhập
khẩu, dịch vụ phân phối trong nước theo tinh thần Nghị định số 24/2000/NĐ-CP
ngày 31 tháng 7 năm 2000 của Chính phủ. Thu hẹp danh mục hàng hoá không thuộc
đối tượng doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài mua để xuất khẩu.
- Nghiên cứu bổ sung, sửa
đổi Nghị định số 60/CP của Chính phủ
ngày 05 tháng 7 năm 1994 về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở
tại đô thị và Nghị định số 61/CP ngày 05 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ về mua
bán và kinh doanh nhà ở phù hợp với quy định của Bộ Luật Dân sự và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai; ban hành Nghị định của Chính phủ quy
định cụ thể người Việt Nam định cư ở nước ngoài có dự án đầu tư và thường trú
tại Việt Nam được mua nhà ở.
- Ban hành ngay các văn
bản hướng dẫn thực hiện chính sách, quy định về hợp tác đầu tư với nước ngoài
trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học theo Nghị định số
06/2000/NĐ-CP ngày 06 tháng 3 năm 2000 của Chính phủ để tăng cường thu hút được
những dự án đầu tư có chất lượng và quản lý được hoạt động của các dự án đầu tư
trong lĩnh vực này.
c) Tiếp tục thực hiện lộ
trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu
tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài theo Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg
ngày 26 tháng 3 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ.
Trong năm 2001, thống
nhất áp dụng phí đăng kiểm phương tiện cơ giới, phí cảng biển, phí quảng cáo
trên các phương tiện thông tin đại chúng, phí thăm quan các di tích văn hoá,
lịch sử, cách mạng.
Hoàn thành trước tháng 6
năm 2002 việc hoàn trả các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài số vốn hợp
thức, thực tế mà các doanh nghiệp này đã bỏ ra để xây dựng các công trình điện
ngoài hàng rào.
d) Đổi mới và hoàn thiện
chính sách tiền tệ liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo
hướng tiếp tục giảm dần, tiến tới xóa bỏ
việc bắt buộc kết hối ngoại tệ khi có đủ điều kiện. Sử dụng linh hoạt, có hiệu
quả các công cụ, chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất theo các nguyên tắc
của thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
đ) Tiếp tục cải cách hệ
thống thuế phù hợp tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và cam
kết quốc tế theo hướng đơn giản hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống
thuế chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xây dựng
chính sách thuế khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài sản xuất phụ tùng,
linh kiện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm; cho phép các dự án sản xuất
nguyên liệu phụ trợ phục vụ hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi tương tự như các
dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Bảo hộ có thời hạn hợp lý và hiệu quả đối
với một số sản phẩm quan trọng.
Trong năm 2001, ban hành
chính sách khuyến khích hoạt động của các quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam; sớm áp dụng quy định về việc kê khai nộp thuế, kết thúc năm tài chính
căn cứ vào kết quả kiểm toán độc lập để quyết toán thuế; cơ quan thuế chỉ kiểm
tra lại trong một số trường hợp cần thiết.
e) Giải quyết kịp thời
những khó khăn, vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ
triển khai dự án. Thí điểm việc cho phép tư nhân trong nước đã được cấp quyền
sử dụng lâu dài được cho nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài thuê lại đất trong
thời hạn được cấp quyền sử dụng đất.
Nghiên cứu cách giải
quyết yêu cầu của doanh nghiệp nước ngoài đầu tư thực hiện dự án lớn ở Việt Nam
cần thế chấp giá trị quyền sử dụng đất đã được giao hoặc cho thuê dài hạn để
vay vốn của các tổ chức tín dụng hoạt động ở nước ngoài trong trường hợp các tổ
chức tín dụng ở Việt Nam không có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn.
Trong năm 2001, cần thực
hiện các vấn đề cấp bách sau:
- Đẩy nhanh tiến độ đền
bù, giải phóng mặt bằng, tạo thuận lợi cho việc triển khai các dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Uỷ ban nhân dân địa phương kiên quyết tổ chức cưỡng chế
thực hiện giải phóng mặt bằng các trường hợp đã được đối xử theo đúng chính
sách và quy định của Nhà nước nhưng vẫn không chấp hành.
- Ban hành văn bản hướng
dẫn về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp hoạt
động trong Khu công nghiệp, Khu chế xuất.
- Ban hành văn bản hướng
dẫn việc xử lý trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên đối với đất góp vốn vào liên
doanh trong trường hợp doanh nghiệp chuyển đổi hình thức đầu tư, bị phá sản
hoặc giải thể trước thời hạn.
3. Nâng cao hiệu quả quản
lý Nhà nước
a) Các cơ quan cấp Giấy
phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã được cấp Giấy phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp, kịp
thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đối với các doanh nghiệp
đã đi vào sản xuất, kinh doanh, các Bộ, ngành và ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
trong phạm vi thẩm quyền của mình, cần động viên khen thưởng kịp thời để khuyến
khích các doanh nghiệp hoạt động tốt tiếp tục phát triển, đồng thời cần có biện
pháp thích hợp để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các vấn đề
liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, các nghĩa vụ thuế.
Đối với các dự án đang
triển khai thực hiện, các Bộ, ngành và ủy ban nhân dân cấp tỉnh tích cực hỗ trợ
doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, nhất là trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng
để nhanh chóng hoàn thành xây dựng cơ bản, đưa doanh nghiệp vào sản xuất, kinh
doanh.
Đối với các dự án chưa
triển khai, song xét thấy vẫn có khả năng thực hiện, cần thúc đẩy việc triển
khai trong một khoảng thời gian nhất định và giải quyết các vướng mắc, kể cả
việc điều chỉnh mục tiêu và quy mô hoạt động của dự án.
Đối với các dự án chưa
triển khai và không có triển vọng thực hiện, kiên quyết thu hồi giấy phép đầu
tư, dành địa điểm cho các nhà đầu tư khác.
Trong quý III năm 2001,
Thủ tướng Chính phủ sẽ xem xét kết quả bước đầu việc rà soát, xử lý các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã cấp phép đầu tư.
b) Kiểm soát chặt chẽ
việc thành lập mới các khu công nghiệp (KCN) và đánh giá tình hình triển khai
các KCN đã có quyết định thành lập; Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính
phủ trong tháng 10 năm 2001 phương án dừng hoặc giãn tiến độ xây dựng đối với
các KCN không đủ yếu tố khả thi.
Trong năm 2001, bổ sung,
sửa đổi Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao ban hành kèm
theo Nghị định số 36/CP ngày 24 tháng 4 năm 1997 của Chính phủ theo hướng: thu
hẹp khoảng cách và tiến tới thống nhất cơ chế, chính sách đối với đầu tư trong
nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu công nghiệp; bổ sung các mô hình
về khu công nghiệp nhỏ phục vụ cho việc phát triển ngành nghề ở nông thôn và
chỉnh trang đô thị; điều chỉnh cơ chế chính sách đầu tư phát triển hạ tầng
trong và ngoài hàng rào; tách việc cho thuê đất nguyên thổ và kinh doanh hạ
tầng.
c) Tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư
trực tiếp nước ngoài cho ủy ban nhân dân cấp tỉnh trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc
tập trung, thống nhất quản lý về quy hoạch, cơ cấu, chính sách và cơ chế; trong
đó chú trọng phân cấp quản lý Nhà nước đối với hoạt động sau giấy phép của các
dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra của
các Bộ, ngành Trung ương. Có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm
luật pháp, chính sách, quy hoạch trong việc thực hiện chủ trương phân cấp quản
lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài; kể cả việc chấm dứt hiệu lực của
các Giấy phép đầu tư cấp sai quy định.
4. Cải tiến các thủ tục
hành chính
Đẩy mạnh cải cách hành chính liên quan đến hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghiên cứu xây dựng cơ chế quản lý và tổ chức
quản lý theo hướng một cửa, một đầu mối ở Trung ương và ở địa phương để tạo
thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Để tạo bước chuyển căn
bản về thủ tục hành chính, trong năm 2001 cần thực hiện các giải pháp sau:
- Tăng cường phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và địa phương trong
quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài; phân định rõ quyền hạn, trách
nhiệm của từng cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh; thực hiện
chế độ giao ban định kỳ giữa các Bộ, ngành Trung ương với các địa phương có
nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài; duy trì thường xuyên việc tiếp xúc
trực tiếp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
- Cải tiến mạnh thủ tục
hành chính liên quan đến các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng
tiếp tục đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, mở rộng phạm vi các dự án thuộc
diện đăng ký cấp phép đầu tư. Lập tổ công tác liên ngành do Bộ Kế hoạch và Đầu
tư chủ trì để rà soát có hệ thống tất cả các loại Giấy phép, các quy định liên
quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, trên cơ sở đó có kiến nghị bãi
bỏ những loại Giấy phép, quy định không cần thiết đối với hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
- Các Bộ, ngành, địa
phương quy định rõ ràng, công khai các thủ tục hành chính, đơn giản hoá và giảm
bớt các thủ tục không cần thiết; kiên quyết xử lý nghiêm khắc các trường hợp
sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm của cán bộ công quyền.
5. Đẩy mạnh vận động, xúc
tiến đầu tư
a) Đổi mới về nội dung và
phương thức vận động, xúc tiến đầu tư. Triển khai các chương trình xúc tiến đầu
tư theo ngành, lĩnh vực, địa bàn với các dự án và đối tác cụ thể, hướng vào các
đối tác nước ngoài có tiềm lực về tài chính và công nghệ nguồn. Căn cứ vào Danh
mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư trực tiếp nước nước ngoài, chuẩn bị kỹ một số
dự án đầu tư quan trọng, lựa chọn, mời trực tiếp một vài tập đoàn lớn trong
ngành, lĩnh vực đó vào để đàm phán, tham gia đầu tư vào các dự án.
b) Chú trọng cả xúc tiến
đầu tư để thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài mới và các hoạt động hỗ
trợ các nhà đầu tư để triển khai hiệu quả các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
đang hoạt động. Giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc để các doanh nghiệp
đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động thuận lợi. Biểu dương, khen thưởng kịp
thời các doanh nghiệp, nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài có thành tích xuất sắc
trong kinh doanh, có đóng góp thiết thực vào xây dựng đất nước. Đồng thời phê
phán, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam.
- Đa dạng hoá các hoạt
động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng và Nhà
nước, các diễn đàn quốc tế, các hoạt động hợp tác xúc tiến đầu tư trong khuôn
khổ hợp tác AIA, ASEAN, APEC, ASEM, các cuộc hội thảo về đầu tư ở trong và
ngoài nước; sử dụng tổng hợp các phương tiện xúc tiến đầu tư qua truyền thông
đại chúng, mạng Internet, tiếp xúc trực tiếp ...
- Đẩy mạnh việc tuyên
truyền giới thiệu về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo dựng hình ảnh
mới về Việt Nam; tạo sự đánh giá thống nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong dư luận xã hội.
- Các cơ quan đại diện
ngoại giao - thương mại Việt Nam có trách nhiệm làm tốt việc vận động xúc tiến
đầu tư vào Việt Nam, bố trí cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở một số địa
bàn trọng điểm. Tăng cường cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở các Bộ, ngành,
địa phương.
- Bố trí nguồn tài chính
cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng
năm của các Bộ, ngành, địa phương.
- Tăng cường công tác
nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách đầu tư ra nước
ngoài của các nước, các tập đoàn và công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư
phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp.
- Xây dựng, hoàn thiện hệ
thống thông tin về đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ sở cho việc hoạch định
chính sách, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng tuyên truyền
đối ngoại trên cơ sở sử dụng thông tin hiện đại. Xây dựng và đưa vào hoạt động
trang web về đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ việc cung cấp thông tin cập
nhật về chủ trương, chính sách pháp luật về đầu tư, giới thiệu các dự án kêu gọi
đầu tư, biểu dương những dự án thành công,...
6. Công tác cán bộ và đào
tạo
Chú trọng tăng cường công
tác cán bộ và đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật làm việc trong khu vực kinh tế
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong năm 2001 phải hoàn thành các Đề án
sau:
- Xây dựng Quy chế cán bộ
Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị và quản lý doanh nghiệp liên doanh, quy
định rõ tiêu chuẩn tuyển chọn về chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ; trách
nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ làm việc tại các doanh nghiệp đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
- Xây dựng Đề án tổ chức
đào tạo theo nhiều hình thức đối với cán bộ làm công tác đầu tư trực tiếp nước
ngoài, cán bộ quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; tổ
chức thường xuyên việc tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp cho cán bộ
Việt Nam hiện nay đang làm việc tại các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
- Xây dựng Đề án tổ chức
đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước
ngoài, trước hết là phục vụ cho các khu công nghiệp lớn.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ làm đầu mối theo dõi, đôn đốc, kiểm
tra và tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ theo định kỳ về tình hình thực hiện
Nghị quyết này theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ.
Trong quá trình thực
hiện, nếu có vướng mắc phải kịp thời xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ.
2. Các Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành
Nghị quyết này.