Thông tư 08/1998/TT-BCA của Bộ Công an về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Quy chế về trường giáo dưỡng ban hành kèm theo Nghị định số 33/CP ngày 14/4/1997 của Chính phủ
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Thông tư 08/1998/TT-BCA
Cơ quan ban hành: | Bộ Công an | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 08/1998/TT-BCA | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Thông tư | Người ký: | Lê Minh Hương |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 03/12/1998 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày hết hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Vi phạm hành chính |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Thông tư 08/1998/TT-BCA
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
THÔNG TƯ
CỦA BỘ
CÔNG AN SỐ 08/1998/TT-BCA NGÀY 3 THÁNG 12 NĂM 1998
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA QUY CHẾ VỀ
TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG BAN HÀNH KÈM THEO NGHỊ ĐỊNH
SỐ 33/CP NGÀY 14 THÁNG 4 NĂM 1997 CỦA CHÍNH PHỦ
Thi hành Nghị định số
33/CP ngày 14 tháng 4 năm 1997 của Chính phủ ban hành Quy chế về Trường giáo
dưỡng, Bộ Công an hướng dẫn thực hiện một số quy định của Quy chế về Trường
giáo dưỡng như sau:
I- VỀ ĐỐI TƯỢNG ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
1. Đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng.
a) Đối với những đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng được quy định tại điểm a Điều 1 của Quy chế về Trường giáo dưỡng phải có đủ các điều kiện sau:
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi;
- Thực hiện hành vi có các dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng quy định tại Bộ luật hình sự. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đã được quy định trong Bộ luật hình sự đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Đối với loại đối tượng này chỉ cần lần đầu tiên thực hiện hành vi có các dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng, đã đủ điều kiện để lập ngay hồ sơ đưa vào trường giáo dưỡng.
b) Đối với những đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 1 của Quy chế về Trường giáo dưỡng phải có đủ các điều kiện sau:
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi;
- Thực hiện hành vi có các dấu hiệu của một tội phạm ít nghiêm trọng quy định tại Bộ luật hình sự. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm ấy là từ năm năm tù trở xuống.
- Đã được chính quyền và nhân dân địa phương giáo dục nhiều lần mà vẫn không chịu sửa chữa. Về điều kiện này cần được thực hiện thống nhất như sau:
Đã được Uỷ ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND), cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, tổ chức xã hội, đơn vị dân cư cơ sở hoặc nhà trường giáo dục bằng một trong các hình thức như họp để kiểm điểm, phê bình, nhắc nhở (có biên bản), cảnh cáo, phạt tiền theo quy định của pháp luật hoặc đã áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo Quy chế Giáo dục tại xã, phường, thị trấn, ban hành kèm theo Nghị định số 19/CP ngày 6/4/1996 của Chính phủ, nhưng vẫn không chịu sửa chữa, lại tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật.
c) Đối với những đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 1 của Quy chế về Trường giáo dưỡng phải có đủ các điều kiện sau:
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi;
- Nhiều lần có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự, an toàn xã hội.
- Đã được chính quyền và nhân dân địa phương giáo dục nhiều lần mà vẫn không chịu sửa chữa.
"Nhiều lần có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự, an toàn xã hội và đã được chính quyền và nhân dân địa phương giáo dục nhiều lần mà vẫn không chịu sửa chữa" được thực hiện thống nhất như sau: ít nhất đã 2 lần được UBND, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, tổ chức xã hội, đơn vị dân cư cơ sở hoặc nhà trường giáo dục bằng một trong các hình thức như tổ chức họp để kiểm điểm, phê bình, nhắc nhở (có biên bản), cảnh cáo, phạt tiền theo quy định của pháp luật hoặc đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo Quy chế Giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà nay vẫn không chịu sửa chữa, lại tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật.
Thời hạn để tính số lần có hành vi vi phạm của đối tượng phải căn cứ vào Điều 10 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Trường hợp người chưa thành niên đang phải chấp hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn lại thực hiện hành vi vi phạm pháp luật được quy định tại khoản 2 Điều 1 của Quy chế về Trường giáo dưỡng, thì Công an cấp xã làm báo cáo đề nghị Chủ tịch UBND cấp xã và lập ngay hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng trình cấp có thẩm quyền xét duyệt.
2. Khi lập hồ sơ đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng cần chú ý các vấn đề sau:
- Khi xác định đối tượng để lập hồ sơ đưa vào trường giáo dưỡng phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng, độ tuổi, nhân thân, số lần vi phạm, hoàn cảnh gia đình của đối tượng.
- Không tiến hành lập hồ sơ những người chưa đủ 12 tuổi và từ đủ 18 tuổi trở lên để đưa vào trường giáo dưỡng.
- Thời điểm để tính độ tuổi đưa vào trường giáo dưỡng là ngày ký quyết định đưa vào trường giáo dưỡng. Trường hợp thời điểm người chưa thành niên thực hiện hành vi vi phạm pháp luật gần sát với thời điểm họ tròn 18 tuổi mà không kịp hoàn chỉnh thủ tục để ra quyết định đưa vào trường giáo dưỡng trước khi họ tròn 18 tuổi, nếu các hành vi đó đủ điều kiện đưa vào cơ sở giáo dục thì phải lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục theo đúng trình tự, thủ tục đã được quy định tại Quy chế về Cơ sở giáo dục ban hành kèm theo Nghị định số 32/CP ngày 14 tháng 4 năm 1997 của Chính phủ.
- Người có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng bỏ trốn, nhưng khi bắt lại đã đủ 18 tuổi hoặc trên 18 tuổi thì cơ quan Công an cấp tỉnh nơi đã lập hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng phải báo cáo Chủ tịch UBND cấp tỉnh đình chỉ việc chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, nếu đối tượng đủ điều kiện đưa vào cơ sở giáo dục thì lập hồ sơ theo đúng trình tự, thủ tục đã được quy định tại Quy chế về Cơ sở giáo dục để trình Chủ tịch UBND cấp tỉnh ra quyết định đưa vào cơ sở giáo dục.
- Căn cứ để xác định độ tuổi của đối tượng là giấy khai sinh. Nếu không có giấy khai sinh thì phải căn cứ vào sổ hộ khẩu, giấy chứng minh nhân dân, lý lịch hoặc các tài liệu khác có xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn.
- Không áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng đối với người nước ngoài.
II - VỀ THỦ TỤC LẬP HỒ SƠ ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
1. Phân cấp và phân công trách nhiệm cho các đơn vị Công an giúp Chủ tịch UBND các cấp trong việc lập hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng.
a) Công an xã, phường, thị trấn (sau đây viết tắt là Công an cấp xã):
- Thu thập tài liệu giúp Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn (sau đây viết tắt là UBND cấp xã) lập hồ sơ các đối tượng có nơi cư trú (nơi đăng ký nhân khẩu thường trú, đăng ký tạm trú hoặc sinh sống ở đó) gửi Chủ tịch UBND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây viết tắt là UBND cấp huyện).
- Đối với người không có nơi cư trú nhất định thì công an cấp xã nơi người đó có hình vi vi phạm pháp luật giúp Chủ tịch UBND cấp xã lập biên bản, hồ sơ gửi Chủ tịch UBND cấp huyện.
Công an cấp xã lập xong hồ sơ của đối tượng nào thì phải báo cáo ngay Chủ tịch UBND cấp xã để Chủ tịch UBND cấp xã làm văn bản trình Chủ tịch UBND cấp huyện, không được chờ tập hợp nhiều hồ sơ để trình theo từng đợt.
b) Công an quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây viết tắt là Công an cấp huyện):
- Lực lượng Cảnh sát hình sự chủ trì phối hợp với lực lượng cảnh sát điều tra và các đơn vị khác có liên quan thẩm tra lại hồ sơ, làm báo cáo để Trưởng công an cấp huyện báo cáo Chủ tịch UBND cấp huyện.
- Đối với người không có nơi cư trú nhất định mà do các lực lượng nghiệp vụ của Công an cấp huyện phát hiện, lập biên bản vi phạm pháp luật thì Cảnh sát hình sự chủ trì phối hợp với các đơn vị có liên quan tiến hành xác minh, lập hồ sơ, làm báo cáo để Trưởng Công an cấp huyện báo cáo Chủ tịch UBND cấp huyện.
- Đối với người đang bị Đội Cảnh sát điều tra của Công an cấp huyện trực tiếp thụ lý trong các vụ án hình sự, qua điều tra thấy chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng lại thuộc diện đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 1 của Quy chế về Trường giáo dưỡng thì Đội Cảnh sát điều tra lập hồ sơ, làm báo cáo để Trưởng Công an cấp huyện báo cáo Chủ tịch UBND cấp huyện.
c) Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây viết tắt là Công an cấp tỉnh):
- Phòng Cảnh sát hình sự chủ trì phối hợp với Phòng Cảnh sát điều tra và các đơn vị khác có liên quan giúp lãnh đạo Công an cấp tỉnh xem xét, thẩm tra lại hồ sơ đối tượng và giúp thường trực Hội đồng tư vấn chuẩn bị phiên họp Hội đồng; sao gửi các tài liệu cần thiết (bản tóm tắt lý lịch của người vi phạm, bản tóm tắt hành vi vi phạm, bản đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng của Chủ tịch UBND cấp huyện) cho các thành viên của Hội đồng Tư vấn và đại diện của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh chậm nhất là bẩy ngày trước khi họp Hội đồng; xem xét, đề xuất việc hoãn, miễn chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng; chủ trì việc tổ chức đưa người vào trường giáo dưỡng và truy bắt đối tượng có lệnh truy bắt hành chính của Giám đốc Công an cấp tỉnh.
- Đối với người không có nơi cư trú nhất định do các Phòng nghiệp vụ của Công an cấp tỉnh phát hiện, lập biên bản vi phạm pháp luật, nếu thuộc diện đưa vào trường giáo dưỡng thì Phòng Cảnh sát hình sự chủ trì phối hợp với các phòng liên quan tiến hành xác minh, lập hồ sơ, báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh để trình Chủ tịch UBND cấp tỉnh.
- Đối với người đang bị Phòng cảnh sát điều tra của Công an cấp tỉnh trực tiếp thụ lý trong các vụ án hình sự, qua điều tra thấy chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng lại thuộc diện đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 1 của Quy chế về Trường giáo dưỡng thì Phòng Cảnh sát điều tra chủ trì lập hồ sơ, phối hợp với phòng Cảnh sát hình sự báo cáo trình Giám đóc Công an cấp tỉnh để báo cáo Chủ tịch UBND cấp tỉnh.
2. Về hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng
Hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng gồm có:
- Bản tóm tắt lý lịch của người vi phạm;
- Tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó:
+ Đơn tố giác (nếu có);
+ Bản tự khai về hành vi vi phạm;
+ Biên bản ghi lời khai;
+ Biên bản vi phạm hành chính hoặc biên bản phạm pháp quả tang (nếu có);
+ Bản tóm tắt quá trình vi phạm và hành vi vi phạm lần cuối;
+ Tài liệu xác minh của cơ quan Công an;
+ Biên bản tạm giữ tang vật có liên quan đến việc vi phạm (nếu có).
- Các biện pháp giáo dục đã áp dụng:
+ Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn (nếu có);
+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính (nếu có);
+ Biên bản các cuộc họp kiểm điểm, giáo dục (nếu có).
Nhận xét của cơ quan Công an, ý kiến của Đoàn thanh niên và Hội phụ nữ, Ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em ở cơ sở; của cha mẹ hoặc người giám hộ;
- Báo cáo, đề nghị của UBND cấp xã, huyện;
- Lệnh tạm giữ (nếu có).
3. Về Hội đồng tư vấn
Theo Điều 8 của Quy chế về Trường giáo dưỡng thì Hội đồng Tư vấn chỉ được thành lập ở cấp tỉnh. Ở cấp huyện, cấp xã không thành lập Hội đồng Tư vấn.
Chủ tịch UBND cấp tỉnh thành lập Hội đồng Tư vấn gồm 3 thành viên đại diện cho lãnh đạo Cơ quan Công an, Sở Tư pháp và Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em cấp tỉnh. Phó giám đốc Công an cấp tỉnh phụ trách Cảnh sát là thường trực Hội đồng Tư vấn. Thường trực Hội đồng Tư vấn phải chuẩn bị và chủ trì phiên họp. Phiên họp của Hội đồng Tư vấn có đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp tham dự, phát biểu ý kiến, nhưng không tham gia biểu quyết. Hội đồng Tư vấn họp xét duyệt và biểu quyết từng đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng. Căn cứ vào ý kiến và đa số phiếu của các thành viên trong Hội đồng, thường trực Hội đồng Tư vấn kết luận về từng đối tượng. Phiên họp của Hội đồng tư vấn phải lập biên bản; trong biên bản phải ghi rõ ý kiến phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân. Phòng Cảnh sát hình sự có trách nhiệm giúp thường trực Hội đồng Tư vấn hoàn chỉnh hồ sơ, làm văn bản (có gửi kèm theo biên bản họp Hội đồng tư vấn) để thường trực Hội đồng Tư vấn duyệt và trình Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị của Hội đồng Tư vấn, Chủ tịch UBND cấp tỉnh phải xem xét và ra quyết định.
III - VỀ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VÀO
TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
Trong thời hạn năm ngày kể từ ngày nhận được quyết định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh đưa vào trường giáo dưỡng, Phòng Cảnh sát hình sự giúp Giám đốc Công an cấp tỉnh tổ chức đưa người đó vào trường giáo dưỡng. Công an cấp tỉnh chỉ đạo và phối hợp với Công an cấp huyện, xã tổ chức đưa người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng đến nơi lưu giữ của Công an cấp tỉnh. Thực chất của việc lưu giữ là lưu lại Công an cấp tỉnh để làm các thủ tục cần thiết như lăn tay, chụp ảnh, lập danh chỉ bản và chờ đưa vào trường giáo dưỡng. Giám đốc Công an cấp tỉnh ra quyết định lưu giữ người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng. Thời gian lưu giữ không được quá mười lăm ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định. Quyết định này được gửi kèm theo hồ sơ đưa vào trường giáo dưỡng để làm cơ sở tính thời hạn chấp hành quyết định.
Chế độ ăn, ở của người bị lưu giữ trong thời gian lưu giữ được hưởng như chế độ ăn, ở của học sinh trường giáo dưỡng. UBND cấp tỉnh có trách nhiệm cấp tiền ăn cho các đối tượng này. Để giải quyết những khó khăn tạm thời, đối với những địa phương chưa có nơi lưu giữ, Công an cấp tỉnh phải giành một số buồng trong trại tạm giam làm nơi lưu giữ những người có quyết định vào trường giáo dưỡng. Trước cửa buồng phải có biển "buồng lưu giữ hành chính" để phân biệt với tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự; không được lưu giữ nam, nữ trong cùng một buồng.
Công an cấp tỉnh phải lập ngay kế hoạch, đề xuất với UBND cấp tỉnh cấp kinh phí, địa điểm để xây dựng nơi tạm giữ và lưu giữ hành chính.
IV - VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
Theo quy định tại Điều 12 của Quy chế về Trường giáo dưỡng, trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, người có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại hoặc tố cáo về hành vi trái pháp luật của người có thẩm quyền trong việc lập hồ sơ và ra quyết định đưa vào trường giáo dưỡng với Chủ tịch UBND cấp tỉnh đã ra quyết định. Giải quyết việc khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo Điều 89, Điều 90 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và các quy định khác của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND cấp tỉnh, người khiếu nại có quyền khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an). Trong thời hạn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Bộ trưởng Bộ Công an có trách nhiệm giải quyết khiếu nại và trả lời bằng văn bản cho người khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Công an là quyết định cuối cùng về mặt hành chính. Việc khiếu nại quyết định đưa vào trường giáo dưỡng không làm đình chỉ việc thi hành quyết định. Người có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng vẫn phải đến trường. Nếu sau này việc khiếu nại của họ được giải quyết, quyết định đưa vào trường giáo dưỡng bị huỷ, thì người được đưa vào trường giáo dưỡng được trở về gia đình, về với cuộc sống cộng đồng, được khôi phục lại các quyền hợp pháp của họ.
Trường hợp người có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng hoặc người đại diện hợp pháp của họ vẫn không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Công an thì có thể khởi kiện tại Toà án hành chính.
V- VỀ VIỆC HOàN HOẶC MIỄN THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH
ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
1. Về việc hoãn thi hành quyết định đưa vào Trường giáo dưỡng
Theo khoản 1 Điều 15 của Quy chế về Trường giáo dưỡng, người có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng được hoãn thi hành quyết định khi có một trong những lý do sau đây:
a) Đang ốm nặng có chứng nhận của bệnh viện từ cấp huyện trở lên;
"Người đang ốm nặng" "là người đang bị bệnh nặng không còn khả năng lao động và sinh hoạt bình thường hoặc đang nguy hiểm đến tính mạng, cần phải được đưa đến bệnh viện để điều trị một thời gian nhất định mới có thể có khả năng bình phục hoặc kéo dài thêm sự sống và người đang mắc "bệnh hiểm nghèo". "Bệnh hiểm nghèo" là những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong hủi, lao nặng, nhiễm HIV/AIDS hoặc những bệnh khác theo quy định của ngành y tế coi là bệnh hiểm nghèo.
b) Gia đình có khó khăn đặc biệt như thân nhân trong gia đình bị ốm nặng mà ngoài người đó, gia đình không còn ai để chăm sóc hoặc gia đình bị thiên tai hoặc hoả hoạn.
"Thân nhân trong gia đình" là những người thân thích như ông bà nội, ông bà ngoại, bố, mẹ, anh, chị, em ruột và những người trực tiếp nuôi dưỡng đang sống trong cùng một gia đình. Nếu những người này bị ốm nặng mà ngoài người có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, gia đình không còn ai để chăm sóc, thì được hoãn việc thi hành quyết định.
Chỉ xét hoãn thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng đối với trường hợp thiên tai, hoả hoạn gây cho gia đình người có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng lâm vào hoàn cảnh khó khăn đặc biệt. Sự có mặt của người đó ở nhà là cần thiết để giúp gia đình giải quyết hậu quả do thiên tai, hoả hoạn gây ra, để chăm sóc giúp đỡ những người trong gia đình bị tai nạn, mà ngoài người đó, gia đình không còn ai để chăm sóc hoặc người đó là lao động duy nhất để bảo đảm cuộc sống gia đình.
Khi điều kiện hoãn thi hành quyết định không còn thì quyết định được tiếp tục thi hành (trừ trường hợp nêu ở mục 2 sau đây).
2. Về việc miễn thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng
Theo khoản 2 Điều 15 của Quy chế về Trường giáo dưỡng, người có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng có thể được miễn chấp hành quyết định khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Thời gian hoãn đã quá nửa thời hạn ghi trong quyết định;
- Trong thời gian hoãn, người có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật hoặc lập công thì có thể được miễn chấp hành quyết định.
"Người có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật" phải là người đã thành thật hối lỗi, chăm chỉ lao động, học tập, tích cực tham gia các phong trào chung của địa phương, nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, được UBND từ cấp xã trở lên xác nhận và đề nghị.
"Người lập công" là người có một trong những thành tích như: đã phát hiện tố cáo tội phạm nghiêm trọng, cứu được tính mạng người khác, cứu được tài sản có giá trị lớn của Nhà nước, của tập thể hoặc của người khác hoặc có thành tích đặc biệt xuất sắc trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc và được nhận giấy khen của UBND hoặc cơ quan Công an từ cấp huyện trở lên; có sáng kiến cải tiến kỹ thuật có giá trị lớn trong lao động, sản xuất và có thành tích nổi bật trong học tập được cơ quan chức năng từ cấp tỉnh trở lên công nhận.
Đối với người đang ốm nặng hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, nếu thời gian hoãn thi hành quyết định đã kéo dài hết thời gian phải chấp hành quyết định mà vẫn chưa bình phục, thì có thể xét cho miễn chấp hành quyết định.
3. Thủ tục hoãn, miễn thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng
Thủ tục hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng được quy định như sau: Trên cơ sở có đơn đề nghị hoãn hoặc miễn việc chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, Chủ tịch UBND cấp xã nơi người đó cư trú, làm văn bản báo cáo (kèm các tài liệu liên quan) gửi Chủ tịch UBND cấp huyện. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo Chủ tịch UBND cấp huyện xem xét, đề nghị Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định.
Cơ quan Công an cùng cấp có trách nhiệm giúp Chủ tịch UBND trong việc xem xét, nghiên cứu hồ sơ các trường hợp đề nghị hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định để báo cáo Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định.
VI- VỀ HỒ SƠ, THỦ TỤC ĐƯA NGƯỜI Đà CÓ QUYẾT ĐỊNH
VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
Theo Điều 16 của Quy chế về Trường giáo dưỡng, khi đưa người vào trường giáo dưỡng phải có hồ sơ kèm theo bao gồm:
- Quyết định đưa người vào trường giáo dưỡng;
- Bản tóm tắt lý lịch;
- Bản tóm tắt hành vi vi phạm pháp luật, đề nghị đưa người vào trường giáo dưỡng;
- Danh chỉ bản;
- Những tài liệu khác liên quan đến nhân thân người đó (nếu có).
"Những tài liệu khác liên quan đến nhân thân" là những tài liệu cần thiết giúp trường giáo dưỡng hiểu rõ nhân thân người đó để phục vụ cho việc quản lý, giáo dục họ; cụ thể như những tài liệu phản ánh về tiền án, tiền sự (nếu có) hoặc những tài liệu phản ánh về hành vi chống lại việc thi hành quyết định; lệnh truy bắt và biên bản bắt người có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng bỏ trốn; giấy khai sinh; học bạ; bằng tốt nghiệp các cấp (nếu có) v.v...
Hiệu trưởng trường giáo dưỡng chỉ nhận người khi có đủ hồ sơ, thủ tục. Khi tiếp nhận phải kiểm tra hồ sơ, sức khoẻ của người đó và lập biên bản giao nhận. Nếu sức khoẻ của người đó không bình thường thì phải lập biên bản xác nhận tình trạng sức khoẻ của họ khi đến trường giáo dưỡng với sự chứng kiến của bên giao và bên nhận. Biên bản giao nhận phải sao gửi ngay về Cục Quản lý Trại giam, Cơ sở giáo dục và Trường giáo dưỡng để theo dõi.
VII - VỀ VIỆC
TRÍCH XUẤT HỌC SINH
Theo quy định tại Điều 23 của Quy chế về Trường giáo dưỡng thì việc trích xuất học sinh ra khỏi trường giáo dưỡng để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử hoặc trong những trường hợp đặc biệt khác chỉ được thực hiện theo lệnh trích xuất của cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy khi cơ quan có các yêu cầu trích xuất thì Thủ trưởng cơ quan đó phải làm công văn nói rõ họ, tên, quê quán học sinh, lý do, thời gian trích xuất đề nghị Cục trưởng Cục Quản lý Trại giam, Cơ sở giáo dục và Trường giáo dưỡng ra lệnh trích xuất. Thời hạn trích xuất được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại trường. Nếu học sinh phạm tội bị kết án tù giam thì Thủ trưởng cơ quan đã đề nghị trích xuất phải thông báo bằng văn bản (kèm theo bản sao quyết định thi hành án phạt tù của Toà án) cho Hiệu trưởng trường giáo dưỡng biết để báo cáo Cục trưởng Cục Quản lý Trại giam, Cơ sở giáo dục và Trường giáo dưỡng trình Bộ trưởng Bộ Công an ra quyết định đình chỉ việc chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng đối với người đó để họ chấp hành án phạt tù. Quyết định này được sao gửi cho UBND cấp tỉnh nơi trước đây đã ra quyết định đưa vào trường giáo dưỡng và gia đình họ biết. Trường hợp học sinh bị trích xuất không bị Toà án tuyên phạt tù giam, thì cơ quan đã đề nghị trích xuất phải tổ chức đưa học sinh trở lại trường giáo dưỡng để tiếp tục chấp hành quyết định.
VIII- VỀ VIỆC TẠM
ĐÌNH CHỈ CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH
Theo Điều 31 của Quy chế về Trường giáo dưỡng thì điều kiện tạm đình chỉ việc chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng chỉ được thực hiện trong trường hợp học sinh đang chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng bị "ốm nặng" hoặc "mắc các bệnh hiểm nghèo" vượt quá khả năng điều trị tại cơ sở y tế của trường mà gia đình có đơn bảo lãnh xin về điều trị, chăm sóc tại nhà hoặc phải chuyển đến bệnh viện điều trị. Các trường hợp này Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải báo cáo, đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành quyết định. Hiệu trưởng trường giáo dưỡng chỉ được giải quyết cho học sinh về gia đình hoặc đưa đến bệnh viện điều trị khi đã có quyết định tạm đình chỉ của Bộ trưởng Bộ Công an (trừ trường hợp học sinh bị bệnh phải đưa đến bệnh viện để cấp cứu). Nếu sau khi cấp cứu mà phát hiện học sinh bị bệnh nặng hoặc mắc bệnh hiểm nghèo phải ở lại bệnh viện để điều trị lâu dài, thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải báo cáo, đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành quyết định.
Đối với học sinh được tạm đình chỉ chấp hành quyết định để đưa đi bệnh viện điều trị thì thân nhân người bệnh có trách nhiệm phối hợp với trường giáo dưỡng quản lý, chăm sóc. Kinh phí khám chữa bệnh do Nhà nước cấp. Trường giáo dưỡng trực tiếp thanh toán viện phí với bệnh viện. Trường hợp gia đình bảo lãnh học sinh về nhà điều trị thì gia đình phải chịu trách nhiệm quản lý và chịu toàn bộ kinh phí khám, chữa bệnh.
Khi học sinh đã khỏi bệnh, tức là điều kiện tạm đình chỉ không còn thì học sinh phải trở lại trường giáo dưỡng để tiếp tục chấp hành quyết định. Nếu học sinh không tự nguyện đến trường thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết đưa học sinh về trường tiếp tục chấp hành quyết định. Nếu học sinh bỏ trốn thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng ra lệnh truy bắt và giải quyết theo Điều 22 của Quy chế về Trường giáo dưỡng; đồng thời lập hồ sơ báo cáo Cục Quản lý Trại giam, Cơ sở giáo dục và Trường giáo dưỡng trình Bộ trưởng Bộ Công an ra quyết định huỷ quyết định tạm đình chỉ (nếu thời gian chấp hành quyết định vẫn còn). Thời gian tạm đình chỉ và thời gian học sinh bỏ trốn không được tính vào thời hạn chấp hành quyết định.
Trường hợp học sinh bị mắc bệnh hiểm nghèo không có khả năng phục hồi sức khoẻ để trở lại trường tiếp tục chấp hành quyết định thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải báo cáo Cục Quản lý Trại giam, Cơ sở giáo dục và Trường giáo dưỡng để Cục trưởng làm công văn đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an ra quyết định miễn chấp hành thời gian còn lại. Quyết định này phải gửi cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh và cấp xã nơi lập hồ sơ đưa vào trường giáo dưỡng, đồng thời gửi cho Công an cấp tỉnh nơi học sinh cư trú biết.
Hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành quyết định gồm có:
- Bản sao bệnh án hoặc kết luận của Bệnh viện từ cấp huyện trở lên;
- Đơn xin bảo lãnh của thân nhân học sinh có xác nhận của Chủ tịch UBND cấp xã (đối với trường hợp xin về nhà điều trị);
- Bản đề nghị tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành quyết định của trường giáo dưỡng.
Hồ sơ được gửi về Cục Quản lý Trại giam, Cơ sở giáo dục và Trường giáo dưỡng để nghiên cứu, xem xét. Nếu đủ điều kiện tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành quyết định thì Cục Quản lý Trại giam, Cơ sở giáo dục và Trường giáo dưỡng làm công văn (kèm theo hồ sơ đề nghị của trường giáo dưỡng) báo cáo Bộ trưởng Bộ Công an xét ra quyết định.
Trường hợp học sinh bị chết trong thời gian về gia đình chữa bệnh thì thân nhân của học sinh phải thông báo cho trường giáo dưỡng.
Trường hợp học sinh chết tại trường hoặc tại bệnh viện thì phải thực hiện theo các thủ tục được quy định tại Điều 32 khoản 1 của Quy chế về Trường giáo dưỡng. Hiệu trưởng trường giáo dưỡng có thể giải quyết cho thân nhân đưa tử thi học sinh về mai táng tại nơi cư trú với điều kiện họ có đơn đề nghị được UBND cấp xã xác nhận đồng ý và phải bảo đảm tốt yêu cầu về giữ gìn an ninh, trật tự cũng như vệ sinh môi trường theo quy định của pháp luật.
Tất cả các trường hợp học sinh chết tại trường, bệnh viện hoặc tại gia đình trong thời gian tạm đình chỉ để chữa bệnh, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải báo cáo Cục Quản lý Trại giam, Cơ sở giáo dục và Trường giáo dưỡng và thông báo cho UBND cấp tỉnh nơi đã ra quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, UBND cấp xã nơi học sinh cư trú biết và Cục trưởng có trách nhiệm báo cáo lên Bộ trưởng.
IX- VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT CHO HỌC SINH VỀ NHÀ KHI CÓ VIỆC
TANG CỦA THÂN NHÂN TRONG GIA ĐÌNH HOẶC
TRƯỜNG HỢP CẤP THIẾT KHÁC
Việc giải quyết cho học sinh về gia đình khi có việc tang hoặc trong những trường hợp cấp thiết khác thực hiện theo quy định tại Điều 34 của Quy chế về Trường giáo dưỡng.
"Việc tang của thân nhân học sinh" là khi có ông, bà nội, ông, bà ngoại: bố, mẹ, người trực tiếp nuôi dưỡng hoặc anh, chị, em ruột chết.
"Trường hợp cấp thiết khác" là khi những thân nhân nêu trên của học sinh bị bệnh nặng đang chờ chết hoặc bị tai nạn mà ngoài học sinh đó ra không còn ai để chăm sóc, giúp đỡ. Trong trường hợp này, nếu thời hạn năm ngày đã hết mà thân nhân của học sinh vẫn chưa bình phục để tự phục vụ mình, thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng có thể xét cho học sinh được gia hạn tiếp cho đến khi thân nhân của học sinh tự phục vụ mình được.
Hiệu trưởng trường giáo dưỡng chỉ xem xét giải quyết đối với những trường hợp nêu trên khi có đơn xin bảo lãnh của gia đình, có xác nhận và đề nghị của UBND cấp xã. Nếu gia đình học sinh đó không còn ai hoặc còn nhưng người đó đang trong tình trạng hiểm nghèo không có khả năng để bảo lãnh thì phải có đơn của người cùng họ hàng hoặc Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ hoặc Ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em ở cơ sở bảo lãnh trong thời gian ở nhà. Thời gian học sinh ở nhà để chăm sóc, giúp đỡ thân nhân bị bệnh nặng hoặc tai nạn nặng không được tính vào thời gian chấp hành quyết định.
Hết thời hạn cho về nhà, học sinh phải tự nguyện đến trường giáo dưỡng. Nếu học sinh không đến trường mà không có lý do chính đáng thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải áp dụng biện pháp cưỡng chế đưa đến trường để tiếp tục chấp hành quyết định. Trường hợp học sinh bỏ trốn thì giải quyết theo Điều 22 của quy chế về Trường giáo dưỡng.
Thời gian học sinh bỏ trốn không được tính vào thời gian chấp hành quyết định.
X- VỀ VIỆC GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH
1. Điều kiện được xét giảm
Theo quy định tại Điều 35 của Quy chế về Trường giáo dưỡng thì những học sinh đã chấp hành được một nửa thời hạn, nếu có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được xét giảm thời hạn chấp hành quyết định.
Học sinh "có tiến bộ rõ rệt" thể hiện ở các mặt sau đây:
+ Thành thật hối lỗi;
+ Tích cực lao động, học tập;
+ Nghiêm chỉnh chấp hành Quy chế, Nội quy Trường giáo dưỡng.
Học sinh "lập công" là học sinh có một trong những thành tích như: đã giúp trường giáo dưỡng hoặc cơ quan điều tra phát hiện, ngăn ngừa tội phạm nghiêm trọng hoặc các hành vi trốn trường, chống, phá trường giáo dưỡng hoặc vi phạm nghiêm trọng khác của các học sinh khác, có sáng kiến cải tiến kỹ thuật có giá trị lớn trong sản xuất, có thành tích xuất sắc trong học tập, cứu được tính mạng người khác, cứu được tài sản có giá trị lớn của Nhà nước, của tập thể hoặc của người khác.
2. Mức giảm
Tuỳ theo thời gian phải chấp hành quyết định và thành tích, mức độ tiến bộ của từng học sinh mà xem xét, đề nghị mức giảm từ 1 tháng đến 6 tháng. Mỗi người chỉ được giảm một lần. Trường hợp đặc biệt, người đã được giảm tiếp tục lập công hoặc có thành tích xuất sắc khác thì có thể xem xét đề nghị giảm lần thứ 2. Trong mọi trường hợp, tổng số thời gian được giảm không vượt quá một phần ba thời gian phải chấp hành đã ghi trong quyết định.
3. Tổ chức Hội đồng xét giảm và thủ tục, hồ sơ đề nghị giảm thời hạn chấp hành quyết định
a) Các trường giáo dưỡng do Hiệu trưởng thành lập Hội đồng xét giảm thời hạn chấp hành quyết định gồm có:
- Hiệu trưởng trường giáo dưỡng làm Chủ tịch Hội đồng;
- Phó hiệu trưởng phụ trách công tác giáo vụ làm Phó Chủ tịch Hội đồng;
- Đội trưởng giáo vụ, hồ sơ làm uỷ viên thư ký;
- Đội trưởng giáo viên chủ nhiệm làm uỷ viên;
- Đội trưởng giáo viên văn hoá làm uỷ viên.
Căn cứ vào tiêu chuẩn, điều kiện và kết quả học tập, rèn luyện của học sinh 3 tháng một lần (trừ trường hợp đột xuất) Hội đồng xét giảm của trường giáo dưỡng họp xem xét từng trường hợp và đề nghị giảm thời hạn chấp hành quyết định cho những học sinh đủ điều kiện. Khi Hội đồng họp giáo viên chủ nhiệm phải trình bày cụ thể và đề xuất mức giảm cho từng học sinh thuộc lớp mình phụ trách. Sau đó Hội đồng xem xét, quyết định và làm hồ sơ đề nghị giảm thời hạn cho học sinh gửi về Cục Quản lý Trại giam, Cơ sở giáo dục và Trường giáo dưỡng.
Hồ sơ đề nghị giảm thời hạn gồm;
- Biên bản họp xét đề nghị giảm thời hạn chấp hành quyết định;
- Báo cáo tóm tắt quá trình phấn đấu, rèn luyện và điều kiện được giảm của từng học sinh trong thời gian ở trường giáo dưỡng;
- Danh sách học sinh được đề nghị xét giảm.
Các văn bản này phải lập thành 3 bản (theo mẫu thống nhất), 1 bản lưu lại Trường giáo dưỡng, 2 bản gửi về Cục Quản lý Trại giam, Cơ sở giáo dục và Trường giáo dưỡng.
b) Cục trưởng Cục Quản lý Trại giam, Cơ sở giáo dục và Trường giáo dưỡng thành lập Hội đồng xét duyệt gồm:
- Cục trưởng hoặc phó cục trưởng được Cục trưởng uỷ quyền làm Chủ tịch Hội đồng.
- Trưởng phòng theo dõi công tác cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng làm uỷ viên thường trực.
- Phó trưởng phòng phụ trách tổ theo dõi công tác trường giáo dưỡng làm uỷ viên.
- Cán bộ theo dõi công tác xét giảm làm uỷ viên.
- Đại diện lãnh đạo trường giáo dưỡng trực tiếp báo cáo trước Hội đồng xét giảm từng trường hợp.
Hội đồng xét giảm căn cứ vào hồ sơ đề nghị của trường giáo dưỡng, đối chiếu với các tiêu chuẩn để xem xét đề nghị mức giảm cho từng học sinh.
Trong thời hạn bẩy ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ của trường giáo dưỡng, Cục Quản lý Trại giam, Cơ sở giáo dục và Trường giáo dưỡng phải xem xét và làm đề nghị (kèm theo danh sách đã được duyệt và hồ sơ đề nghị của trường giáo dưỡng) báo cáo Bộ trưởng Bộ Công an xem xét quyết định.
Ngay sau khi nhận được quyết định giảm thời hạn, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải sao hoặc trích sao quyết định đó gửi cho UBND cấp tỉnh nơi ra quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, UBND cấp xã nơi người đó cư trú và gia đình của học sinh, đồng thời tổ chức công bố cho học sinh biết và lưu vào hồ sơ học sinh để theo dõi.
XI - VỀ KHEN THƯỞNG, KỶ LUẬT ĐỐI VỚI HỌC SINH
1. Khen thưởng đối với học sinh
Việc khen thưởng học sinh được thực hiện theo quy định tại Điều 38 của Quy chế về Trường giáo dưỡng. Quyết định khen thưởng phải bằng văn bản và lưu vào hồ sơ của học sinh để theo dõi.
Khi khen thưởng học sinh bằng hình thức cho về phép thăm gia đình phải là những học sinh đã thực sự tiến bộ, liên tục học tập, rèn luyện đạt từ loại khá trở lên, đang còn bố mẹ, người thân (ông, bà, anh, chị em ruột hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng), những người này phải có địa chỉ cụ thể.
Thời gian học sinh về phép được tính vào thời hạn chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng.
2. Kỷ luật đối với học sinh
Việc kỷ luật học sinh thực hiện theo quy định tại Điều 39 của Quy chế về Trường giáo dưỡng. Trong thời gian bị đưa vào phòng kỷ luật học sinh phải thực hiện tốt các yêu cầu về học tập, tu dưỡng hoặc làm một số công việc trong khu vực trường do Hiệu trưởng trường giáo dưỡng đề ra.
Nếu học sinh đó có tiến bộ rõ rệt, nhận rõ lỗi lầm của mình, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng có thể xem xét, quyết định giảm thời hạn giáo dục tại phòng kỷ luật.
3. Những nhận xét, đề nghị áp dụng biện pháp quản lý, giáo dục khi học sinh chấp hành xong thời hạn quyết định đưa vào trường giáo dưỡng.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 36 của Quy chế về Trường giáo dưỡng, những học sinh đã chấp hành xong thời hạn ghi trong quyết định mà vẫn chưa thực sự tiến bộ thì chậm nhất là 15 ngày trước ngày học sinh chấp hành xong quyết định, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải có bản nhận xét riêng và kiến nghị biện pháp giáo dục, quản lý tiếp theo gửi UBND cấp tỉnh, cấp xã nơi cư trú và đồng gửi cơ quan Công an cùng cấp.
XII - TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày ký ban hành. Các quy định trước đây của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) trái với Thông tư này đều bãi bỏ.
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo các ngành và UBND cấp dưới thực hiện các quy định của pháp luật về biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
3. Tổng cục trưởng các Tổng cục, Vụ trưởng, Cục trưởng các Vụ, Cục trực thuộc Bộ trưởng, giám đốc Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ của mình, có trách nhiệm tổ chức thực hiện Thông tư này.
4. Trong quá trình tổ chức thực hiện Thông tư, nếu có gì vướng mắc cần báo cáo kịp thời về Bộ Công an (qua Vụ Pháp chế, Tổng cục Cảnh sát và Cục Quản lý Trại gian, Cơ sở giáo dục và Trường giáo dưỡng) để có hướng dẫn kịp thời.
5. Vụ Pháp chế chủ trì phối hợp với Tổng cục Cảnh sát và Cục Quản lý Trại giam, Cơ sở giáo dục và Trường giáo dưỡng kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Thông tư này.