THÔNG TƯ
SỐ
222/NH-TT NGÀY 20-10-1990 CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
HƯỚNG DẪN THI HÀNH CHỈ THỊ 330-CT NGÀY
13-9-1990
CỦA CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG
QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
Ngày 13-9-1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Chỉ thị
330-CT về việc tăng cường quản lý ngoại hối, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam hướng dẫn việc thực hiện như sau:
1. Các tổ chức xuất nhập khẩu và
dịch vụ phải chuyển toàn bộ số ngoại tệ thu được do xuất khẩu hàng hoá hay dịch
vụ về nước vào các tài khoản tiền gửi ngoại tệ của mình mở tại các ngân hàng
được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam uỷ quyền cho phép hoạt động kinh doanh ngoại
tệ: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng xuất nhập khẩu, Ngân hàng Công
thương thành phố Hồ Chí Minh, Sài gòn công thương Ngân hàng... (dưới đây gọi
chung là Ngân hàng được uỷ quyền).
Các tổ chức kinh tế kinh doanh
hàng hoá và làm dịch vụ ở trong nước được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép
trực tiếp thu ngoại tệ, hàng ngày phải nộp số ngoại tệ thu được vào tài khoản
tiền gửi tại các Ngân hàng phục vụ mình.
Các Ngân hàng được uỷ quyền phải
đảm bảo chi trả và thanh toán kịp thời theo yêu cầu của chủ tài khoản trong
phạm vi số dư trên tài khoản của họ; mọi sự chậm trễ gây thiệt hại đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh của chủ tài khoản thì Ngân hàng được uỷ quyền phải
chịu phạt theo các quy định hiện hành.
Chủ tài khoản được sử dụng ngoại
tệ trên tài khoản của mình để thanh toán tiền hàng nhập khẩu, trả nợ tiền vay,
chi trả dịch vụ và các khoản kinh phí cho cán bộ đi nước ngoài cũng như cơ quan
đại diện của mình ở nước ngoài trong khuôn khổ quy định quản lý ngoại hối của
Nhà nước và chế độ chi tiêu ngoại tệ do Bộ Tài chính quy định, hoặc bán cho
Ngân hàng.
Nhà nước khuyến khích các tổ chức
xuất nhập khẩu, dịch vụ và cá nhân có ngoại tệ nếu chưa có nhu cầu sử dụng vào
sản xuất, kinh doanh, hoặc không muốn gửi vào tài khoản tại Ngân hàng thì bán
cho các ngân hàng được uỷ quyền theo hình thức mua bán trả tiền ngay hoặc mua
bán có kỳ hạn.
Mọi việc thanh toán, mua bán,
chuyển nhượng bằng ngoại tệ giữa các tổ chức hoặc cá nhân với nhau đều phải
thực hiện thông qua các Ngân hàng đựơc uỷ quyền.
Các tổ chức và cá nhân không được
mua bán ngoại tệ dưới bất cứ hình thức nào ngoài các Ngân hàng được uỷ quyền.
2. Các tổ chức có ngoại tệ không
được mở tài khoản và gửi ngoại tệ ở nước ngoài dưới bất kỳ hình thức nào, trừ
trường hợp đặc biệt được Ngân hàng Nhà nước Trung ương cho phép.
a) Những tổ chức (kể cả các Ngân
hàng được uỷ quyền) đã được Ngân hàng Nhà nước Trung ương cho phép mở tài khoản
ngoại tệ ở nước ngoài phải báo cáo cho Ngân hàng Nhà nước Trung ương (Vụ quản
lý ngoại hối) tình hình các tài khoản hiện đang gửi ở nước ngoài với những chi
tiết sau đây: Số hiệu tài khoản, Ngân hàng mở tài khoản, doanh số hoạt động
(Nợ, Có) trong 10 tháng qua và số dư có trên tài khoản đến cuối ngày
31-10-1990.
Từ tháng 11-1990 trở lại, hàng
tháng báo cáo tình hình hoạt động của các tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài theo
mẫu do Ngân hàng Nhà nước quy định đính kèm theo Thông tư này (Phụ lục số 1).
b) Những tổ chức hiện đang có tài
khoản ngoại tệ ở Ngân hàng nước ngoài hoặc gửi ngoại tệ ở nước ngoài mà chưa
được Ngân hàng Nhà Nước Trung ương cho phép đều phải báo cáo trước ngày
15-11-1990 cho Thủ trưởng Bộ, Ngành chủ quản đồng gửi Ngân hàng Nhà nước Trung
ương về số dư tài khoản ngoại tệ và số ngoại tệ để ở nước ngoài đến cuối tháng
10-1990. Đồng thời làm đơn gửi Ngân hàng Trung ương xin được mở tài khoản Ngoại
tệ ở nước ngoài. Trong đơn cần nói rõ lý do và sự cần thiết phải mở tài khoản ở
nước ngoài và phải được Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp quản lý xem xét
đề nghị.
Những tổ chức xin mở tài khoản
ngoại tệ ở nước ngoài mà Ngân hàng Nhà nước Trung ương xét không đủ điều kiện
cấp giấy phép Kèm theo Thông tư này (phụ lục số 2) thì phải tất toán tài khoản
và chuyển hết số ngoại tệ đó về nước trước ngày 15-11-1990.
3. Đối với số ngoại tệ của cá
nhân là công dân nước ngoài, Việt kiều và công dân Việt Nam được áp dụng theo
Thông tư số 33/NH-TT ngày 15-3-1989 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thi hành
Điều lệ quản lý ngoại hối (Nghị định 161-HĐBT 18-10-1988).
4. Các tổ chức và cá nhân nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam phải chuyển đủ phần góp vốn bằng ngoại tệ vào Việt
Nam theo cam kết và phải gửi vào tài khoản ngoại tệ mở tại các Ngân hàng được
uỷ quyền.
Trong tháng 10 và tháng 11 năm
1990, các Ngân hàng được uỷ quyền quản lý các tài khoản của các tổ chức, cá
nhân đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh, Xí
nghiệp liên doanh, Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài... căn cứ vào giấy phép do Uỷ
ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư cấp và hồ sơ có liên quan để kiểm tra lại
việc góp vốn bằng ngoại tệ của bên nước ngoài và báo cáo kết quả về Ngân hàng
Nhà nước Trung ương (danh sách các tổ chức được Uỷ ban Nhà nước về hợp tác đầu
tư cấp giấy phép sẽ được thông báo cho các Ngân hàng).
5. Tất cả các tổ chức bán hàng,
làm dịch vụ thu ngoại tệ và dịch vụ kiều hối tại Việt Nam đã có giấy phép của
các Ngân hàng hay của cơ quan nào khác cấp trước đây hoặc chưa có giấy phép đều
phải làm lại thủ tục để xin Ngân hàng Nhà nước Trung ương cấp giấy phép. Kể từ
ngày 15-11-1990, các giấy phép không phải do Ngân hàng Nhà nước Trung ương cấp
đều không có giá trị để hoạt động thu ngoại tệ.
Ngân hàng Nhà nước Trung ương sẽ
cấp giấy phép cho các tổ chức hoạt động thu ngoại tệ đối với những trường hợp
sau đây:
a) Các tổ chức bán hàng và làm
dịch vụ thu ngoại tệ:
- Các cửa hàng bán miễn thuế cho
người nước ngoài (duty free Shop) tại các sân bay và hải cảng quốc tế;
- Các tổ chức làm dịch vụ thu
ngoại tệ như hàng không quốc tế, hàng hải quốc tế, bưu điện quốc tế, cung ứng
tàu biển và một số dịch vụ thu ngoại tệ khác ở trong và ngoài nước;
- Một vài điểm bán hàng thu ngoại
tệ.
Những tổ chức, đơn vị trên đây
đều phải làm đơn nói rõ loại hình hoạt động thu ngoại tệ là bán hàng hoá hay
làm dịch vụ gì ? Doanh số thu ngoại tệ trong 3 năm gần đây, tỷ lệ hàng nhập
khẩu so với hàng xuất khẩu tại chỗ, hiệu quả kinh doanh, hướng phát triển sắp
tới...
Đơn phải có nhận xét và đề nghị
của thủ trưởng Bộ, Ngành chủ quản hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố, đặc khu và ý kiến của Giám đốc Ngân hàng được uỷ quyền hoặc Ngân hàng Nhà
nước (nơi không có Ngân hàng uỷ quyền) trên địa bàn.
Thời gian Ngân hàng Nhà nước
Trung ương nhận đơn chậm nhất là ngày 5-11-1990 (mẫu đơn xin cấp giấy phép xem
phụ lục số 3).
Tổ chức nào không đủ điều kiện để
cấp giấy phép, Ngân hàng Nhà nước Trung ương sẽ thông báo ngay để tổ chức đó
đình chỉ hoạt động thu ngoại tệ và chuyển sang phương thức bán hàng hoá và làm
dịch vụ thu bằng tiền Việt Nam.
b) Các tổ chức làm dịch vụ kiều
hối:
Việc huy động và chi trả kiều hối
do các Ngân hàng được uỷ quyền đảm nhận. Các tổ chức khác ở trong và ngoài nước
có thể làm đại lý cho Ngân hàng được uỷ quyền về việc huy động và chi trả kiều
hối.
Các Ngân hàng được uỷ quyền có
thể tự huy động và chi trả kiều hối hoặc liên doanh với các tổ chức ngoài nước
và tổ chức trong nước để huy động và chi trả kiều hối.
Cơ quan Trung ương của Ngân hàng
được uỷ quyền phải báo cáo về Ngân hàng Nhà nước Trung ương danh sách những tổ
chức ngoài Ngân hàng liên doanh với mình để huy động và chi trả kiều hối (kèm
theo hợp đồng liên doanh) và danh sách những tổ chức nhận làm đại lý để huy
động hoặc chi trả kiều hối (kèm theo đơn nhận làm đại lý).
Hợp đồng liên doanh và đơn xin
làm đại lý chỉ được thực hiện dịch vụ kiều hối khi đã có quyết định của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước.
c) Đối với các bàn thu đổi ngoại
tệ:
Các Ngân hàng được uỷ quyền phải
mở rộng màng lưới mua bán ngoại tệ, lập các bàn đổi tiền ở những nơi cần thiết
như cửa khẩu, sân bay, hải cảng, khách sạn quốc tế, trung tâm đô thị, các cửa
hàng lớn...
Ở
những nơi mà Ngân hàng dược uỷ quyền chưa bố trí được bàn đổi tiền thì có thể
uỷ thác cho đơn vị giao dịch với mình làm nghiệp vụ thu đổi ngoại tệ. Các ngân
hàng được uỷ quyền phải lập danh sách những bàn đổi tiền của các đơn vị được uỷ
thác đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Trung ương (Vụ quản lý ngoại hối).
Các bàn đổi tiền uỷ thác đều phải
treo biển của Ngân hàng được uỷ quyền theo mẫu thống nhất; chỉ được mua ngoại
tệ vào không được bán ngoại tệ, không được thoái hối và phải chịu sự kiểm tra
giám sát hướng dẫn về mọi mặt của Ngân hàng được uỷ quyền.
Đơn vị làm uỷ thác chỉ được đưa
vào tài khoản tiền gửi ngoại tệ của mình tối đa là 50 % số ngoại tệ thu đổi
được và sử dụng vào mục đích theo quy định tại điểm 1 của Thông tư này, số
ngoại tệ còn lại phải bán cho Ngân hàng được uỷ quyền.
Việc tổ chức bàn đổi tiền phải
đảm bảo thuận lợi, nhanh chóng, an toàn, phục vụ kịp thời yêu cầu của khách
hàng. Các Ngân hàng được uỷ quyền tuỳ theo khả năng kinh doanh ngoại tệ của
mình mà quy định các loại ngoại tệ thu đổi (các loại ngoại tệ mua vào), trang
bị phương tiện làm việc cần thiết phục vụ cho việc thu đổi, bố trí cán bộ có đủ
trình độ, năng lực, phẩm chất, thái độ phục vụ tốt làm ở các bàn đổi tiền.
6. Các Ngành, địa phương và các
tổ chức của các Bộ, các tỉnh, thành phố có thu chi ngoại tệ đều lập kế hoạch
thu chi ngoại tệ theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Trung ương bằng văn bản
riêng.
7. Trong khi chờ tổ chức phòng
giao dịch thị trường hối đoái để xác định tỷ giá thị trường trong mua bán ngoại
tệ thì các ngân hàng được uỷ quyền căn cứ vào tỷ giá chính thức giữa đồng Việt
Nam với đôla Mỹ và các ngoại tệ khác do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước công bố để
quy định tỷ giá kinh doanh mua bán ngoại tệ trong biên độ cộng trừ năm phần trăm
(± 5%)
so với tỷ giá chính thức. Tỷ giá bán ngoại tệ không được vượt quá năm phần ngàn
(0,5%) so với tỷ giá mua ngoại tệ.
8. Việc nhập khẩu vàng do Ngân
hàng Nhà nước đảm nhận, các tổ chức khác chỉ được nhập vàng khi được Ngân hàng
Nhà nước cấp giấy phép (Hồ sơ xin nhập vàng xem phụ lục số 4 kèm theo Thông tư
này).
Ngân hàng Nhà nước Trung ương là
cơ quan cấp giấy phép nhập khẩu vàng (bao gồm nhập vàng kiều hối theo Quyết
định 270-CT ngày 20-10-1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng).
Vàng thỏi của cá nhân mang vào
Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước mua hoặc giao cho các Ngân hàng hoặc các Công ty
kinh doanh vàng bạc mua theo giá thị trường tại thời điểm mua.
Việc lưu thông vàng thỏi trên thị
trường nội địa do Ngân hàng Nhà nước đảm nhận.
Cấm các tổ chức và cá nhân sử
dụng vàng dưới bất kỳ dạng nào để thanh toán, chi trả cho việc mua bán hàng hoá
và dịch vụ qua biên giới và cửa khẩu.
Việc quản lý kinh doanh vàng tư
trang của các tổ chức và cá nhân trong nước thực hiện theo Quyết định 139-CT
ngày 24-5-1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Các tổ chức đã được Ngân hàng Nhà
nước cấp giấy phép cho nhập khẩu vàng từ đầu năm 1990 đến nay phải báo cáo về
Ngân hàng Nhà nước Trung ương (Vụ quản lý ngoại hối) số lượng vàng đã nhập, số
lượng vàng đã tiêu thụ và số lượng vàng tồn kho tính đến ngày 31-10-1990. Thời
hạn gửi báo cáo chậm nhất về Ngân hàng Nhà nước Trung ương là hết ngày
10-11-1990.
Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành
phố, đặc khu có trách nhiệm kiểm tra thường xuyên tình hình tồn kho và hoạt
động mua bán vàng của các tổ chức kinh doanh vàng bạc trên địa bàn và báo cáo
Ngân hàng Nhà nước Trung ương (theo mẫu đính kèm phụ lục số 5).
9. Việc huy động tiền gửi tiết
kiệm bằng ngoại tệ sẽ có hướng dẫn riêng của Ngân hàng Nhà nước Trung ương.
Thông tư này có hiệu lực kể từ
ngày ký và bãi bỏ những quy định trước đây của Ngân hàng Nhà nước trái với
thông tư này.
Để thi hành nghiêm chỉnh chỉ thị
330-CT ngày 13-9-1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc tăng cường quản
lý ngoại hối, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đề nghị Thủ trưởng các Bộ, Ngành và
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu chỉ đạo các tổ chức, đơn
vị, cá nhân trực thuộc thực hiện tốt chỉ thị của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và
Thông tư này.
Các Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước
tỉnh, thành phố, đặc khu có trách nhiệm phối kết hợp với các Ngành hữu quan ở
địa phương mình tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh Thông tư này và kịp thời phản
ánh những vấn đề vướng mắc, tồn tại về Ngân hàng Nhà nước Trung ương để giải
quyết.