Quyết định 28/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt các Đề án chi tiết thuộc Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Quyết định 28/2006/QĐ-TTg
Cơ quan ban hành: | Thủ tướng Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 28/2006/QĐ-TTg | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Quyết định | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 28/01/2006 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày hết hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Giáo dục-Đào tạo-Dạy nghề, Chính sách, Hành chính |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Quyết định 28/2006/QĐ-TTg
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
QUYẾT ĐỊNH
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ
28/2006/QĐ-TTG
NGÀY 28 THÁNG 01 NĂM 2006 PHÊ DUYỆT CÁC ĐỀ ÁN CHI
TIẾT THUỘC CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG QUỐC
GIA PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁT LUẬT VÀ NÂNG CAO Ý THỨC CHẤP HÀNH
PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, NHÂN DÂN Ở Xà, PHƯỜNG,
THỊ TRẤN
TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ
Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ vào
Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16 tháng 12
năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Chương trình hành động
quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao
ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở
xã, phường, thị trấn từ năm 2005
đến năm 2010;
Xét đề
nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt các
Đề án chi tiết thuộc Chương trình hành
động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp
luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán
bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ
năm 2005 đến năm 2010 thực hiện trong hai giai
đoạn: từ năm 2005 đến năm 2007 và
từ năm 2008 đến năm 2010 (kèm theo Quyết
định này) cụ thể như sau:
1. Đề án thứ nhất: Đưa
thông tin pháp luật đến cán bộ, nhân dân thông qua
phương tiện thông tin đại chúng và các thiết
chế văn hoá thông tin ở xã, phường, thị
trấn.
a) Cơ quan chủ trì: Bộ Văn hoá - Thông
tin.
b) Nội dung Đề án: phổ biến
kịp thời quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước tới cán bộ, nhân dân ở xã, phường,
thị trấn trong cả nước thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng và các thiết
chế văn hoá - thông tin cơ sở, góp phần nâng cao
nhận thức pháp luật, ý thức tự giác chấp
hành pháp luật trong nhân dân, bảo đảm trật
tự an toàn xã hội và hạn chế vi phạm pháp
luật trong cộng đồng dân cư. Bảo đảm
công tác thông tin, tuyên truyền pháp luật đến cán
bộ, nhân dân ở cơ sở một cách thường
xuyên và có hiệu quả.
2. Đề án thứ hai: Xây dựng và
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận
động chấp hành pháp luật trong cộng
đồng dân cư.
a) Cơ quan
chủ trì: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt
b) Nội dung Đề án: tập trung vào
việc tuyên truyền pháp luật, vận động nhân
dân chấp hành pháp luật, xây dựng các điểm sáng
trong chấp hành pháp luật; thu hút, vận động nhân
dân tham gia các phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa ở khu dân cư; phòng,
chống tội phạm, tệ nạn xã hội; hoạt
động hoà giải ở cơ sở và thực hiện
hương ước, quy ước ở cộng
đồng dân cư.
3. Đề án thứ ba: Tăng cường
phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu
nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn.
a) Cơ quan chủ trì: Thanh tra Chính phủ.
b) Nội dung Đề án: tập trung
đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các quy
định về tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn
bằng nhiều hình thức thiết thực; bồi
dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ
cho cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo; phổ biến pháp luật
về khiếu nại, tố cáo thông qua xuất bản,
biên dịch các tài liệu liên quan phù hợp với ngôn
ngữ của đồng bào các dân tộc; xây dựng quy
chế phối hợp giữa Hội Nông dân, Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị
trấn với chính quyền cấp xã trong tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo cho cán bộ, nhân dân
ở các xã, phường, thị trấn.
4. Đề án thứ tư: Phát huy vai trò
của cơ quan và cán bộ tư pháp trong phổ biến,
giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị
trấn.
a) Cơ quan chủ trì: Bộ Tư pháp
b) Nội dung Đề án: tập trung khai
thác có hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật thông qua các hoạt động tư pháp ở xã,
phường, thị trấn; bồi dưỡng lý
luận chính trị, kiến thức pháp luật, tập
huấn, hướng dẫn nghiệp vụ phổ
biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán
bộ tư pháp xã, phường, thị trấn; lồng
ghép phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp
với đặc thù từng loại hoạt động
tư pháp; xây dựng cơ chế phối hợp hiệu
quả giữa các cơ quan tư pháp và các cơ quan,
tổ chức của hệ thống chính trị ở xã,
phường, thị trấn trong phổ biến, giáo
dục pháp luật.
Điều 2. Quyết
định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày
đăng Công báo.
Điều 3. Trách nhiệm
thực hiện
1. Ban Chỉ đạo Chương trình hành
động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp
luật có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra,
đôn đốc việc tổ chức thực hiện
các Đề án chi tiết, định kỳ tổng
hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
2. Các Bộ, ngành, đoàn thể
được giao chủ trì các Đề án có trách
nhiệm phối hợp với các Bộ, ngành, đoàn
thể có liên quan ở Trung ương và Ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
tổ chức thực hiện các Đề án chi tiết
đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt.
3. Các Bộ, ngành được giao chủ
trì thực hiện Đề án, căn cứ vào mục
tiêu, nội dung Đề án chi tiết, lập dự toán
kinh phí gửi Bộ Tài chính tổng hợp trình cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và bố trí
vào dự toán ngân sách hàng năm của Bộ, ngành.
4. Các Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng
cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết
định này.
THỦ
TƯỚNG
Phan
Văn Khải - Đã ký
CHƯƠNG TRÌNH
HÀNH ĐỘNG QUỐC GIA PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT
CHO CÁN BỘ, NHÂN DÂN Ở Xà, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010
ĐỀ ÁN
THỨ NHẤT
ĐƯA THÔNG TIN PHÁP LUẬT ĐẾN CÁN BỘ, NHÂN
DÂN THÔNG QUA PHƯƠNG TIỆN THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG VÀ CÁC
THIẾT CHẾ
VĂN HOÁ - THÔNG TIN CƠ SỞ
(Ban hành kèm theo Quyết
định số 28/2006/QĐ-TTg
ngày 28 tháng 01năm 2006 của Thủ tướng Chính
phủ)
Cơ quan chủ trì: Bộ Văn hoá - Thông tin.
Cơ quan phối hợp:
- Bộ Tư pháp;
- Ban Tư tưởng - Văn hoá
Trung ương;
- Đài Truyền hình Việt Nam;
- Đài Tiếng nói Việt Nam.
I. SỰ CẦN
THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ
ÁN
Trong những
năm qua, báo chí nước ta đã làm tốt chức
năng là cơ quan ngôn luận của Đảng, nhà
nước và các tổ chức vừa là diễn đàn
của nhân dân, góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất
nước, cổ vũ nhân tố mới, điển hình
tiên tiến, mở rộng giao lưu hội nhập
quốc tế, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu
cực, tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp
luật. Báo chí đã thực sự trở thành
phương tiện quan trọng trong công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật, đóng góp hiệu
quả trong việc phổ cập, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, tăng
cường kỷ cương xã hội, nâng cao dân trí pháp
lý và văn hóa pháp luật trong nhân dân góp phần thực
hiện dân chủ hoá xã hội. Cùng với các cơ quan
thông tin đại chúng, các thiết chế văn hoá - thông
tin cơ sở cũng có vai trò rất quan trọng trong
việc tổ chức và vận động nhân dân thực
hiện chủ trương, đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi
khả năng phát triển kinh tế - xã hội. Hiện
nay, ở nước ta, các cơ quan thông tin đại
chúng đang phát triển rất mạnh trên tất cả
các lĩnh vực, cụ thể:
- Về
báo, tạp chí in:
hiện nay cả nước có 553 cơ quan báo chí với
713 ấn phẩm báo chí và hơn 1.000 bản tin. Ngoài hai
thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh
tập trung nhiều cơ quan báo chí trung ương,
tất cả các tỉnh, thành phố còn lại đều
có báo, tạp chí riêng. Hàng năm số lượng bản
báo được phát hành ở nước ta khoảng 600
triệu bản. Bình quân có 7,5 bản
báo/người/năm. Hầu hết các trung tâm tỉnh
lỵ đều được đọc báo phát hành trong
ngày. Nội dung, hình thức báo chí ngày càng phong phú, đa
dạng; tham gia tích cực vào việc đẩy mạnh
phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước; mở rộng quan hệ đối ngoại;
phát hiện, cổ vũ nhân tố mới, điển hình
tiên tiến; đấu tranh chống các hành vi tiêu cực,
tham nhũng, các tệ nạn; xây dựng bầu không khí dân
chủ, cởi mở trong xã hội.
- Các cơ quan phát thanh, truyền hình: cả
nước hiện có 1 Đài Truyền hình quốc gia, 1
Đài Phát thanh quốc gia và 4 Trung tâm truyền hình khu
vực đã thực hiện việc truyền dẫn tín
hiệu lên vệ tinh nhằm mở rộng phạm vi
phủ sóng. Tại 64 tỉnh, thành phố đều có
Đài phát thanh, truyền hình... đây là kênh thông tin quan
trọng, bảo đảm phổ biến pháp luật
kịp thời tới cán bộ, nhân dân.
- Hệ thống các cơ quan phát thanh, truyền thanh
cơ sở (bao
gồm hệ thống các cơ quan phát thanh, truyền thanh
ở cấp huyện và cấp xã, phường) với
hơn 606 Đài phát thanh, truyền thanh cấp huyện và
hàng ngàn trạm truyền thanh cấp xã, phường.
Đây là lực lượng quan trọng, trực tiếp
đưa thông tin pháp luật đến cán bộ, nhân dân
ở ngay trên địa bàn mà họ cư trú hoặc công
tác.
Thực tế, trong thời gian qua các đài phát thanh,
truyền thanh cơ sở luôn có sự phối hợp
chặt chẽ với các cơ quan phát thanh, truyền hình
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các
bộ phận chuyên trách của Ủy ban nhân dân các cấp
thực hiện hiệu quả việc tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa
phương.
- Về hệ thống báo chí điện tử và các nhà
cung cấp thông tin trên mạng Internet: Việt Nam là nước có tốc
độ tăng trưởng viễn thông Internet cao
nhất trong khu vực ASEAN với tốc độ bình
quân là 32,5%/năm. Hiện nay, nước ta đã có 6 nhà
cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP),
khoảng 20 nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP), trên 50
nhà cung cấp thông tin (ICP) và báo điện tử trên
mạng Internet, hơn 2500 website trên mạng Internet; cả
nước có trên 4 triệu người sử dụng
Internet, chiếm 4,84% dân số cả nước. Đây là
loại hình báo chí hiện đại, bảo đảm
cập nhật và thông tin nhanh tới độc giả
trong nước và quốc tế. Thời gian qua, hệ
thống các nhà cung cấp thông tin và các trang web đã
giới thiệu hầu hết những văn bản pháp
luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, góp phần
đẩy nhanh hợp tác quốc tế và hội nhập
của Việt Nam với thế giới.
- Về hệ thống các thiết
chế văn hóa - thông tin cơ sở
Cả
nước hiện có 64 Sở Văn hoá - Thông tin; 55 Trung
tâm văn hoá - thông tin cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; 595 Phòng văn hoá - thông tin cấp
quận, huyện với 338 Trung tâm văn hoá - thông tin; 156
Nhà văn hoá cấp quận, huyện; 4003 Nhà văn hoá
cấp xã, phường; 75 Nhà văn hoá (Cung văn hoá) thanh,
thiếu nhi; 195 Nhà văn hoá (Cung văn hoá) của các ngành;
642 Đội thông tin lưu động (trong đó có 56
Đội thông tin cấp tỉnh, 586 Đội thông tin
cấp quận, huyện); 10.680 xã, phường, thị trấn
với 10.680 chức danh cán bộ văn hoá - xã hội...
Đây chính là thế mạnh cơ bản của hệ
thống thiết chế văn hoá - thông tin cơ sở
trong việc truyền bá, hướng dẫn và cụ
thể hoá các chủ trương, đường lối
của Đảng, pháp luật của nhà nước
tới cán bộ, nhân dân ở cơ sở... trong hoạt
động, các thiết chế này luôn bảo đảm
bám sát các nhiệm vụ chính trị - xã hội của nhà
nước và địa phương để triển
khai hoạt động.
Bằng panô, áp phích, khẩu hiệu,
ảnh, triển lãm và các buổi nói chuyện, mít tinh,
những cuộc liên hoan, hội thi, hội diễn văn
hoá - nghệ thuật, lễ mừng công, lễ kỷ
niệm, lễ hội văn hoá - thể thao... hoạt
động văn hoá - thông tin đã tạo nên không khí sôi
động, gây ấn tượng và cảm xúc, vừa có
tác dụng tuyên truyền, vừa có tác dụng định
hướng tư tưởng và cổ vũ hành
động cho mọi người. Do vậy, các thiết
chế văn hoá - thông tin cơ sở là các trung tâm tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật rộng
rãi, thường xuyên và có tính hấp dẫn cao. Thiết
chế văn hoá - thông tin cơ sở cũng đồng
thời là diễn đàn của nhân dân bày tỏ thái
độ, quan điểm chính trị của mình.
Tuy nhiên, trong những năm qua,
hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
thông qua các cơ quan thông tin đại chúng chưa hiệu
quả cao. Nguyên nhân là do:
- Một
số phương tiện thông tin đại chúng còn tình
trạng thông tin thiếu chính xác, chưa phù hợp với
định hướng của Đảng và Nhà
nước.
- Công tác phát
hành báo, tạp chí in tới những vùng đặc biệt
khó khăn, vùng sâu, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc còn
hạn chế chưa rút ngắn được sự
chênh lệch quá lớn trong hưởng thụ thông tin báo
chí giữa khu vực thành phố, thị xã và khu vực
nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
- Tổ chức phân loại, xác định tính chất,
nhiệm vụ của báo chí để xây dựng cơ
chế, chính sách, đồng thời có sự đầu
tư phù hợp nhằm tạo điều kiện cho báo
chí phát huy cao nhất vai trò là phương tiện thông tin
đại chúng thiết yếu của đời sống
xã hội.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ; khắc phục tình trạng thiếu
đồng bộ trong đào tạo chuyên môn, nghiệp
vụ; bảo đảm theo kịp sự phát triển
của khoa học, công nghệ thông tin, đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ trong công tác thông
tin, tuyên truyền chưa được chú trọng.
- Cơ chế, chính sách về đầu tư phát
triển hệ thống cơ quan phát thanh, truyền hình,
đặc biệt việc nâng cao chất lượng
nội dung và trang thiết bị kỹ thuật, vật
chất đối với hệ thống truyền thanh
cơ sở; sự quan tâm của cơ quan chủ quản
trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ làm công tác truyền thanh ở cơ sở
chưa được hoàn thiện.
- Chất lượng các chương trình của hệ
thống phát thanh, truyền hình trong việc nâng cao dân trí
pháp lý của nhân dân, góp phần ổn định trật
tự an toàn xã hội chưa cao.
Chính vì lẽ đó, việc xây dựng và thực
hiện Đề án "Đưa thông tin pháp luật
đến cán bộ, nhân dân thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng và các thiết chế văn hoá thông
tin cơ sở" trong chương trình hành
động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp
luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán
bộ và nhân dân ở xã, phường, thị trấn
từ năm 2005 đến năm 2010 theo Quyết
định số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16 tháng 12 năm 2004
của Thủ tướng Chính phủ là cần thiết,
nhằm khắc phục một số tồn tại,
hạn chế và đề ra các biện pháp khắc
phục nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
phổ biến giáo dục pháp luật trên các phương
tiện thông tin đại chúng và các thiết chế văn
hóa - thông tin cơ sở ngày càng đạt hiệu quả
cao.
Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09 tháng 12 năm 2003
của Ban Bí thư Trung ương về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân
đã chỉ rõ: "các cơ quan thông tin đại chúng
ở trung ương và địa phương phối
hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan xây
dựng và thực hiện kế hoạch phổ biến,
giáo dục pháp luật, xây dựng các chuyên mục, chuyên
trang về pháp luật với hình thức phong phú sinh
động; tăng thời lượng, nội dung tuyên
truyền, phổ biến pháp luật bằng tiếng
Việt và các tiếng dân tộc thiểu số. Phát
triển và nâng cao trình độ chính trị, nghiệp
vụ đội ngũ phóng viên, biên tập viên, cộng
tác viên viết về pháp luật, bảo đảm tuyên
truyền đúng đường lối, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước".
Ngày 31 tháng 10
năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã có
Quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển
hệ thống thiết chế văn hoá - thông tin cơ
sở đến năm 2010. Đây là một cơ sở
pháp lý quan trọng cho việc triển khai thực hiện
Đề án với việc lồng ghép phổ biến,
giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân ở cơ
sở vào hoạt động của các thiết chế
văn hoá - thông tin cơ sở.
Quán triệt
chủ trương của Đảng, Nhà nước
về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và thực
hiện nhiệm vụ được Thủ tướng
Chính phủ giao, Bộ Văn hoá - Thông tin đã chủ trì,
phối hợp với một số Bộ, ngành có liên quan
xây dựng Đề án thứ nhất trong Chương
trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục
pháp luật "Đưa thông tin pháp luật đến
cán bộ, nhân dân thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng và các thiết chế văn hoá thông tin
cơ sở" với các nội dung sau:
II. MỤC TIÊU
CỦA ĐỀ ÁN
1. Mục
tiêu chung
Phát huy tối đa các lợi thế và nhanh chóng
khắc phục các hạn chế của các phương
tiện thông tin đại chúng và các thiết chế văn
hóa - thông tin bảo đảm thể chế hoá quan
điểm chỉ đạo của Đảng tại
Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09 tháng 12 năm 2003 của
Ban Bí thư Trung ương trong công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật của cán bộ, nhân dân.
Bảo đảm phổ biến kịp thời các
chính sách, pháp luật của nhà nước tới đông
đảo quần chúng nhân dân trên khắp các vùng, miền
trong cả nước, qua đó làm chuyển biến
về nhận thức, hành vi, nâng cao ý thức tự giác
chấp hành pháp luật trong nhân dân, bảo đảm
trật tự an toàn xã hội và hạn chế vi phạm
pháp luật trong cộng đồng dân cư ở cơ
sở (thôn, làng, xã, phường, tổ dân phố, bản,
ấp...).
2. Mục tiêu cụ thể
a) Qua công tác
thông tin, tuyên truyền, gợi ý việc đóng góp ý
kiến xây dựng các dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật trước khi các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành và phản ánh kịp
thời những ý kiến của nhân dân tham gia xây dựng
pháp luật.
b) Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn
kịp thời các quy định của các văn bản
quy phạm pháp luật sau khi được Quốc
hội và các cơ quan thẩm quyền nhà nước thông
qua.
c) Tuyên
truyền vận động cán bộ, nhân dân tự giác
tuân thủ pháp luật, góp phần bảo đảm phòng
ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, ổn định
an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong cộng
đồng dân cư ở cơ sở.
d) Việc thực hiện Đề
án bảo đảm giải quyết hiệu quả các
mục tiêu của "Chương trình hành động
quốc gia phổ biến giáo dục pháp luật và nâng cao
ý thức chấp hành pháp luật trong cán bộ, nhân dân
ở xã, phường, thị trấn"; chuyển
tải kịp thời các quan điểm của
Đảng, pháp luật của Nhà nước tới cán
bộ, nhân dân ở cơ sở (xã phường, thị
trấn, thôn, làng, bản, ấp...).
đ) Xây dựng được các mô hình, các
phương thức tuyên truyền phù hợp; bồi
dưỡng, nâng cao nghiệp vụ tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ nhà báo,
các cộng tác viên, tuyên truyền viên pháp luật bảo
đảm phục vụ lâu dài công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật.
e) Hàng năm, tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm
việc thực hiện công tác tuyên truyền, phổ
biến pháp luật, đồng thời đề ra các
biện pháp, giải pháp và kế hoạch thực hiện
cho những năm tiếp sau.
III. NỘI DUNG
CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN
1. Xây dựng chuyên mục thông tin, phổ biến pháp
luật phục vụ cán bộ nhân dân ở cơ sở
trên các cơ quan báo, đài, trang thông tin điện tử;
tăng thời lượng phát thanh, truyền hình, trang
viết trên tất cả các báo trung ương và
địa phương về thông tin pháp luật.
2. Chú trọng nêu gương người tốt,
việc tốt, điển hình tiên tiến trong chấp
hành pháp luật trên hệ thống phát thanh, truyền thanh
cơ sở. Bồi dưỡng kiến thức pháp
luật cơ bản và hướng dẫn kỹ năng
biên soạn thông tin pháp luật phù hợp từng
địa bàn, đối tượng cho cán bộ làm công
tác phát thanh, truyền thanh cơ sở.
3. Quan tâm, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ,
kỹ năng tuyên truyền và bồi dưỡng nâng cao
kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ,
phóng viên chuyên trách và lực lượng cộng tác viên
của các cơ quan thông tấn, báo chí.
4. Đưa nội dung tuyên truyền, phổ biến
pháp luật vào hoạt động của các Đội
văn hóa - thông tin cơ sở, Trung tâm văn hóa - thông tin,
Nhà văn hóa các cấp. Xây dựng, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ văn hóa - thông tin cơ sở
thành các tuyên truyền viên pháp luật.
5. Kịp thời kiến nghị xem xét, xử lý và
chấm dứt các hiện tượng vi phạm pháp
luật, các biểu hiện không lành mạnh trong lối
sống và sinh hoạt văn hóa, tích cực bài trừ
tệ nạn xã hội và các loại văn hóa phẩm
bạo lực, đồi trụy.
IV. GIẢI PHÁP
THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
Để
thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của
Đề án, cần tiến hành các hoạt động và
giải pháp cụ thể sau đây:
1.
Đối với báo, tạp chí in
- Mở các
chuyên trang, chuyên mục về phổ biến, giáo dục
pháp luật.
- Đăng
tải toàn văn hoặc những quy định mới,
quy định chủ yếu của các văn bản pháp
luật mới; đăng các dự án luật để lấy
ý kiến đóng góp của nhân dân.
- Phối
hợp với các cơ quan chuyên môn, các cơ quan tư pháp,
Hội luật gia, Đoàn luật sư từ trung
ương đến cơ sở thực hiện việc
giải đáp pháp luật theo chuyên đề hoặc theo
những vấn đề cụ thể trên cơ sở
đơn thư đề nghị của nhân dân.
- Đăng
tải các tin, bài, phóng sự điều tra, phối
hợp với các cơ quan chức năng trong việc phát
hiện, đưa ra truy tố và xét xử các vụ
việc vi phạm pháp luật, nhằm nâng cao ý thức
tự giác chấp hành pháp luật trong nhân dân.
- Thực
hiện phỏng vấn những cán bộ làm công tác chuyên
môn để giải đáp các vấn đề liên quan
đến pháp luật mà nhân dân quan tâm.
- Cùng với
các hình thức tuyên truyền trên đây, các cơ quan báo chí
in có thể chủ động mở các cuộc thi tìm
hiểu pháp luật để thực hiện công tác tuyên
truyền pháp luật.
2.
Đối với các cơ quan phát thanh, truyền hình
Dành thời
lượng phù hợp trong mỗi buổi phát sóng
để thực hiện công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật dưới các hình thức:
- Thông tin
về các quy định chủ yếu, quy định
mới của các văn bản pháp luật mới ban hành
và các dự án luật.
- Thông tin
về các kỳ họp Quốc hội, quá trình thảo
luận, thông qua các văn bản luật mới trong
kỳ họp.
- Phối
hợp với các cơ quan chuyên môn, mời cán bộ,
giảng viên pháp luật thực hiện thường xuyên
chương trình, chuyên mục, tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật.
- Đăng, phát các tin, bài, các phóng sự điều tra
về tình hình vi phạm pháp luật trên tất cả các
lĩnh vực để giáo dục, ngăn ngừa các hành
vi vi phạm pháp luật.
- Phối hợp với các cơ quan chuyên môn thực
hiện phỏng vấn cán bộ chuyên trách giải đáp
các vấn đề có liên quan.
- Các đài truyền thanh, phát thanh cấp huyện
phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
phát thanh, truyền hình tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và các bộ phận chuyên trách
của Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện giới
thiệu các chương trình phổ biến, giáo dục
pháp luật trong phạm vi địa phương.
Để bảo đảm hiệu quả của công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật,
các đài phát thanh, truyền hình có thể chủ
động xây dựng các chương trình phổ biến,
giáo dục pháp luật; tổ chức các cuộc thi tìm
hiểu pháp luật; phát sóng các chương trình, tiết
mục văn hoá - nghệ thuật có nội dung tuyên
truyền, cổ vũ, khuyến khích cán bộ, nhân dân
tự giác thực hiện nghiêm các quy định của
pháp luật.
3. Đối với báo
điện tử (Internet)
Xây dựng các trang, các địa chỉ phục vụ
công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật bằng tiếng Việt.
4. Đối với các đài phát thanh, truyền thanh
cơ sở
- Thực hiện chương trình phát thanh, truyền
thanh về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật vào thời điểm tập trung đông dân cư
trên địa bàn. Có thể tổ chức phát thanh vào
buổi sáng (khoảng từ 6 giờ đến 7 giờ)
hoặc buổi tối (từ 18 giờ đến 19 giờ)
hàng ngày, vì đây là thời gian sinh hoạt tập trung
của các gia đình trên địa bàn.
Tại các khu vực miền núi, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, tổ chức phát thanh
thường xuyên (hoặc định kỳ) bằng
tiếng dân tộc phù hợp với đặc
điểm của cộng đồng dân cư.
- Thông tin, phổ biến kịp
thời các Chỉ thị, Nghị quyết của cấp
uỷ, chính quyền địa phương; các văn
bản pháp quy do địa phương ban hành phù hợp
với quy định của pháp luật và điều
kiện kinh tế - xã hội của địa
phương; các quy định chủ yếu, quy
định mới trong các văn bản pháp luật và các
dự án luật.
- Thông tin kịp thời về các kỳ họp Quốc
hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân các cấp và quá trình thảo luận, thông qua các văn
bản quy phạm pháp luật tại các kỳ họp.
- Phối hợp với các Phòng, Ban Tư pháp, cơ quan
chuyên môn thực hiện thường xuyên việc giải
đáp thắc mắc về pháp luật cho nhân dân trong các
chương trình phát thanh, truyền thanh; phối hợp
với các phòng, ban, ngành chuyên môn của địa
phương thực hiện giải đáp các quy
định cụ thể ở các lĩnh vực mà nhân dân
trên địa bàn quan tâm.
- Phản ánh kịp thời tình hình vi phạm pháp
luật và công tác xử lý, qua đó giáo dục, ngăn
ngừa các hành vi vi phạm pháp luật trên địa bàn.
- Biểu dương, khen
thưởng kịp thời những gương
người tốt, việc tốt, các cá nhân, tập
thể gương mẫu trong việc thực hiện các quy
định của pháp luật, chấp hành nghiêm túc các quy
định của địa phương; những gương
người tốt, việc tốt, các cá nhân, tập
thể gương mẫu trong phong trào "Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá ở cơ
sở".
5. Đối với các thiết
chế văn hoá - thông tin cơ sở
Hiện nay, Bộ
Văn hoá - Thông tin đang thực hiện quản lý và
hướng dẫn nghiệp vụ cho 642 đội thông
tin chuyên nghiệp cấp tỉnh, thành phố, quận,
huyện, thị xã trong cả nước. Thông qua các
Đội thông tin chuyên nghiệp, có thể thực
hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật bằng ba cách:
- Tuyên truyền miệng.
- Tuyên truyền bằng các hình
thức trực quan: tranh cổ động, ảnh
thời sự, bộ triển lãm nhỏ, panô, áp phích...
- Tuyên truyền bằng các hình
thức văn nghệ, văn hoá dân gian, cổ
động: thông qua các chương trình, tiết mục
văn nghệ nhằm cổ động mọi người
thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật.
Các đội thông tin lưu
động thông qua chương trình hoạt động có
thể xây dựng các tiểu phẩm, kịch ngắn,
kịch vui... tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật. Đối với các vùng đồng bào dân tộc
ít người, tuyên truyền viên thông tin lưu động
sử dụng tiếng dân tộc để tuyên truyền
tới đồng bào các chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước. Định
mức mỗi năm, mỗi Đội thông tin lưu
động hoạt động ở cơ sở từ 80
đến 120 ngày và tới tận các làng, bản, biên
giới, vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, vùng đồng bào
dân tộc, tôn giáo... để tuyên truyền, vận
động quần chúng thực hiện đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, nghị quyết của cấp uỷ, các
văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân.
Để các thiết chế văn hoá -
thông tin cơ sở thực sự trở thành cầu
nối quan trọng không thể thiếu trong việc
đưa pháp luật đi vào cuộc sống cần
tiến hành một số giải pháp sau:
- Quán triệt, bồi dưỡng nâng cao
nhận thức về vai trò, ý nghĩa, tầm quan
trọng của công tác phổ biến giáo dục thông qua
hệ thống thiết chế văn hoá - thông tin cho
đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin, tuyên
truyền.
- Chú trọng công tác bồi dưỡng
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng
thông tin; xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ
chế chính sách bảo đảm phát triển, đổi
mới việc đưa thông tin đến cơ sở
thông qua các thiết chế văn hoá và đội ngũ
tuyên truyền viên.
- Trong khi hệ
thống thiết chế văn hoá ở cơ sở
chưa thực sự hoàn thiện (đặc biệt là
ở làng, thôn, bản...), cần phát huy triệt để
về chức năng và ưu thế của các
điểm Bưu điện văn hoá xã. Đặc
biệt quan tâm, chú trọng công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ văn hoá xã, phường, thị
trấn và củng cố tổ chức, trình độ
chuyên môn, trang thiết bị cho đội ngũ thông tin
lưu động cấp huyện.
- Để bảo đảm
hiệu quả của Đề án, thì đội ngũ
cán bộ văn hóa - thông tin ở cơ sở có vai trò
hết sức quan trọng. Đây là những người
trực tiếp thực hiện việc tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các hoạt
động văn hóa, nghệ thuật. Do vậy, cần
có cơ chế chính sách tài chính phù hợp bảo
đảm nâng cao chất lượng nghiệp vụ,
kiến thức pháp luật và kỹ năng tuyên truyền
cho đối tượng này.
- Đổi mới mạnh
mẽ công tác thông tin tuyên truyền miệng, coi đây là
một trong những kênh thông tin rất quan trọng và có
hiệu quả trong các phương tiện thông tin của
nước ta.
- Củng cố và kiện toàn
đội ngũ làm công tác thông tin tuyên truyền miệng
từ Trung ương đến cơ sở; duy trì
chế độ cung cấp thông tin định kỳ,
tổ chức sinh hoạt báo cáo viên đều đặn,
mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tuyên truyền miệng
để nâng cao hơn nữa chất lượng,
hiệu quả của công tác này.
- Đa dạng hoá nội dung
thông tin, cung cấp thông tin thông qua kênh thông tin tuyên truyền
miệng. Cần khai thác thế mạnh của công tác tuyên
truyền miệng để cung cấp các nội dung thông
tin mà các phương tiện thông tin khác không thể
thực hiện được.
- Củng cố và phát triển hệ
thống các đội thông tin lưu động, bảo
đảm mỗi huyện thị có ít nhất một
đội thông tin lưu động; các xã, phường,
làng, bản cần phát huy tính chủ động trong việc
xây dựng các tổ, nhóm làm công tác thông tin. Bảo
đảm để các đội thông tin lưu
động phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ,
thực hiện có hiệu quả việc đưa thông
tin về cơ sở, đến các làng, bản xa xôi
hẻo lánh.
- Thường xuyên
bồi dưỡng nghiệp vụ, cung cấp tài liệu
thông tin, hướng dẫn việc kết hợp các
phương thức thông tin tuyên truyền miệng, cổ
động trực quan, văn nghệ cổ động
trong hoạt động của các đội thông tin
lưu động.
6. Giải pháp về đào tạo
đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật thông qua hoạt động văn hoá -
thông tin cơ sở
Đào tạo đội ngũ cán
bộ quản lý, thực hành nghiệp vụ văn hoá -
thông tin cơ sở nói chung, trong đó chú trọng
đến nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp
luật nói riêng đến năm 2010 là một yêu cầu
rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Đội ngũ cán bộ này đòi hỏi phải có
phẩm chất chính trị tốt, năng lực chuyên môn
giỏi để đảm đương công tác tuyên
truyền của Đảng, là người làm công tác giáo
dục ngoài nhà trường bằng các phương
tiện văn hoá, nghệ thuật. Dự nguồn đào
tạo cán bộ công tác văn hoá - thông tin cơ sở
đến năm 2010: trong 10 năm, cần đào tạo
15.000 học viên hệ trung học, 1.200 sinh viên hệ
cử nhân. Đội ngũ cán bộ văn hoá này sẽ
là lực lượng tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật đắc lực ở cơ sở.
V. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Tổ chức điều hành Đề
án
Thành lập Ban Điều hành thực
hiện Đề án cấp trung ương:
Ban Điều hành thực hiện
Đề án ở trung ương gồm có các thành viên là đại diện lãnh
đạo Bộ Văn hoá - Thông tin (là Trưởng ban),
Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Bộ
Tư pháp, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng
nói Việt Nam.
Ban Chỉ đạo thực hiện
Đề án ở trung ương chịu trách nhiệm xây
dựng Kế hoạch và chỉ đạo tổ chức
việc triển khai thực hiện Đề án; chỉ
đạo, đôn đốc Ban Chỉ đạo thực
hiện Đề án ở địa phương giám sát
các cơ quan báo chí, các bộ phận của thiết
chế văn hóa - thông tin cơ sở thực hiện
tốt kế hoạch tuyên truyền, phổ biến pháp
luật; xây dựng và chỉ đạo triển khai các
biện pháp, giải pháp tuyên truyền; kịp thời
bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho đội
ngũ phóng viên chuyên trách và lực lượng tuyên
truyền viên.
Các thành viên Ban Chỉ đạo
trung ương có trách nhiệm phối hợp chặt
chẽ trong công tác xây dựng kế hoạch tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, đồng
thời chịu trách nhiệm chỉ đạo, đôn
đốc cơ quan, đơn vị mình làm tốt các
nhiệm vụ được Ban Chỉ đạo phân
công, bảo đảm tổ chức tốt công tác
phối hợp thực hiện Đề án.
Giúp việc Ban Chỉ đạo thực
hiện Đề án ở trung ương có Tổ thư
ký. Thành viên Tổ thư ký là cán bộ, chuyên viên thuộc
các đơn vị chức năng của Bộ Văn hoá
- Thông tin, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương,
Bộ Tư pháp, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài
Tiếng nói Việt Nam.
Tổ thư ký có trách nhiệm tham mưu,
giúp việc cho Ban Chỉ đạo trong công tác điều
hành, triển khai thực hiện Đề án.
2. Phân công trách nhiệm
a) Bộ Văn hoá - Thông tin
Bộ Văn hoá - Thông tin - cơ
quan chủ trì Đề án chịu trách nhiệm là
đầu mối tổ chức thực hiện và
phối hợp thực hiện Đề án.
Nhiệm vụ cụ thể
của Bộ Văn hoá - Thông tin là:
- Xây dựng mục tiêu, kế
hoạch thực hiện Đề án; tổ chức
lực lượng báo, chí và hệ thống thiết
chế văn hoá - thông tin bảo đảm cho công tác tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật.
- Tổ chức công bố, phổ
biến nội dung Đề án và kế hoạch triển
khai thực hiện tới các Bộ, ngành liên quan và Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố, các cơ quan báo chí và toàn
bộ hệ thống thiết chế văn hoá - thông tin.
- Phối hợp với Ban Tư
tưởng - Văn hoá Trung ương theo Quy chế
số 01-LT/TTVH-VHTT ngày 09 tháng 7 năm 2003 về hoạt
động phối hợp giữa Ban Tư tưởng -
Văn hoá Trung ương và Bộ Văn hoá - Thông tin trong
lãnh đạo, quản lý các hoạt động văn hoá,
thông tin để định hướng, chỉ
đạo nội dung và giám sát việc thực hiện
kế hoạch thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật. Đồng thời, quan tâm, chỉ
đạo, định hướng nội dung thông tin, chú
trọng quy hoạch mạng lưới báo chí trong cả
nước; quan tâm công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ những người làm báo
và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về báo chí tạo điều kiện thuận
lợi cho báo chí hoạt động thông tin, tuyên truyền
hiệu quả các chủ trương, chính sách pháp luật
của Đảng và pháp luật của Nhà nước
tới các tầng lớp nhân dân.
- Phối hợp với Bộ
Tư pháp tổ chức tập huấn nghiệp vụ
thông tin tuyên truyền pháp luật cho lực lượng cán
bộ, phóng viên; bảo đảm cung cấp thông tin
kịp thời cho báo chí và đội ngũ tuyên truyền
viên, thông tin viên về kế hoạch của Hội
đồng phối hợp công tác tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật của Chính phủ và
những nội dung tuyên truyền theo đề xuất
của Bộ Tư pháp - cơ quan thường trực
của Hội đồng phối hợp công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của
Chính phủ.
- Bên cạnh việc phối
hợp, định hướng nâng cao chất
lượng nội dung thông tin, Bộ Văn hoá - Thông tin và
Ban Tư tưởng - Văn hoá Thông tin còn có trách nhiệm
phối hợp với các cơ quan chủ quản báo chí và
các cơ quan hữu quan chú trọng công tác phát hành báo chí
tới các vùng miền trong cả nước, đặc
biệt là các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
bảo đảm tuyên truyền, phổ biến chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước tới đông đảo quần
chúng nhân dân.
- Phối hợp với Ban Tư
tưởng - Văn hoá Trung ương, Bộ Tư pháp
tổ chức đánh giá công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan báo chí
và hệ thống thiết chế văn hoá - thông tin cơ
sở; đề xuất với
Hội đồng phối hợp công tác tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật của
Chính phủ có hình thức khen thưởng kịp thời
đối với các cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có những đóng góp tích cực trong công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Chỉ đạo các Sở
Văn hoá - Thông tin và các cơ quan báo chí ở địa
phương phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên
giáo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
Sở Tư pháp và các cơ quan chức năng trên
địa bàn thực hiện tốt công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Sở Văn hoá - Thông tin là cơ quan
đầu mối chịu trách nhiệm phối hợp
với Ban Tuyên giáo tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, Sở Tư pháp và các cơ quan liên quan ở
địa phương tổ chức tập huấn, trao
đổi kinh nghiệm, nghiệp vụ công tác tuyên truyền
cho cán bộ, phóng viên trên địa bàn.
b) Ban Tư
tưởng - Văn hóa Trung ương
- Tổ chức sơ kết
định kỳ để rút kinh nghiệm việc
thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09
thánh 12 năm 2003 về công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật tới các cấp uỷ, các cơ quan thông tin
đại chúng và các thiết chế văn hoá cơ
sở.
- Phối hợp với
Bộ Văn hoá - Thông tin định hướng công tác
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật,
quản lý thiết chế văn hoá theo Quy chế số 01-LT/TTVH-VHTT ngày 09 tháng 7 năm 2003 về hoạt
động phối hợp giữa Ban Tư tưởng -
Văn hoá Trung ương và Bộ Văn hoá - Thông tin trong
lãnh đạo, quản lý các hoạt động văn hoá,
thông tin.
- Phối hợp với Bộ Văn hoá -
Thông tin xây dựng, hoạch định các kế hoạch
phát triển và hệ thống cơ chế, chính sách phát
triển báo chí; xây dựng quy hoạch, kế hoạch
đào tạo cán bộ báo chí bảo đảm đáp
ứng được yêu cầu công tác thông tin, tuyên
truyền.
- Lãnh đạo, chỉ đạo Ban Tuyên
giáo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
phối hợp tổ chức bồi dưỡng về
quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng trong công tác tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật cho cán bộ, phóng viên, tuyên truyền viên
ở địa phương.
c) Bộ Tư pháp
- Bộ Tư pháp - cơ
quan thường trực Hội đồng phổ
biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ chịu
trách nhiệm tổ chức cung cấp thông tin kịp
thời cho báo chí về kế hoạch tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ.
- Giúp Bộ Văn hoá - Thông tin tổ
chức nội dung các lớp tập huấn báo chí thông tin,
tuyên truyền phổ biến pháp luật; cử báo cáo viên
tham gia giảng bài tại các lớp tập huấn, nâng cao
kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ,
phóng viên, tuyên truyền viên.
- Thông tin cho báo chí về những quy
định pháp luật mới, văn bản pháp luật
mới được ban hành và gợi ý những nội
dung, quan điểm của Đảng, Nhà nước trong
việc lấy ý kiến góp ý của nhân dân tham xây dựng
pháp luật.
- Gợi ý, giúp đỡ các cơ quan, báo,
đài xây dựng các nội dung tuyên truyền, phổ
biến pháp luật.
- Lãnh đạo, chỉ đạo các
Sở Tư pháp giúp Sở Văn hoá - Thông tin và Ban Tuyên giáo
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho lực
lượng phóng viên, tuyên truyền viên; tham gia hướng
dẫn, giải thích pháp luật trên báo, đài ở địa
phương; phối hợp với Ban Tuyên giáo, Sở
Văn hoá - Thông tin xây dựng kế hoạch công tác phổ
biến giáo dục pháp luật cho cấp uỷ, chính
quyền địa phương.
d) Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam,
Đài Truyền hình Việt Nam
- Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam và
Đài Truyền hình Việt Nam có trách nhiệm chủ
động xây dựng và phát sóng các chương trình
phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Phối hợp với các cơ quan tham
gia thực hiện Đề án xây dựng kế hoạch
và triển khai thực hiện công tác tuyên truyền có
hiệu quả.
- Chủ động gợi ý, đề
xuất với Hội đồng phổ biến giáo
dục pháp luật của Chính phủ và Ban Chỉ
đạo thực hiện Đề án các biện pháp,
giải pháp để bảo đảm hiệu quả
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên sóng
phát thanh, truyền hình.
- Hướng dẫn, hỗ trợ về
chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ cho các cơ quan
phát thanh, truyền hình tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương làm tốt công tác tuyên truyền,
phổ biến pháp luật. Đặc biệt là tổ
chức tốt việc hỗ trợ các cơ quan, phát thanh
truyền hình địa phương tổ chức tốt
việc phát sóng tới vùng sâu, vùng xa và phát triển hệ
thống phát thanh, truyền thanh cơ sở để
đẩy mạnh công tác tuyên truyền.
3. Tiến độ thực hiện
Đề án
Việc thực hiện Đề án
được chia thành 2 giai đoạn, cụ thể
như sau:
Giai đoạn 1: từ quý IV/2005 đến hết năm 2007
- Quý IV năm 2005:
+ Xây dựng các văn bản phục
vụ cho việc quản lý, điều hành và thực
hiện Đề án (quy chế hoạt động Ban
Điều hành Đề án; kế hoạch chi tiết
thực hiện Đề án; các văn bản hướng
dẫn, chỉ đạo triển khai Đề án).
+ Tổ chức hội nghị quán
triệt, triển khai Đề án; tập huấn việc
triển khai Đề án cho lực lượng thực
hiện Đề án ở trung ương và địa
phương.
- Năm 2006 đến năm 2007:
+ Đánh giá
thực trạng đội ngũ phóng viên, biên tập viên,
cộng tác viên chuyên viết về pháp luật thông qua
hoạt động khảo sát:
Khảo sát,
đánh giá thực trạng phương tiện thông tin
đại chúng.
Khảo sát,
đánh giá thực trạng thiết chế văn hoá - thông
tin cơ sở.
Khảo sát, đánh giá thực trạng
đội ngũ phóng viên chuyên trách tại các cơ quan báo
chí và đội ngũ tuyên truyền viên.
+ Tập huấn nghiệp vụ phổ
biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ phóng
viên, biên tập viên, cộng tác viên chuyên viết về pháp
luật.
+ Xây dựng quy chế phối hợp
giữa cơ quan tư pháp với cơ quan thông tấn,
báo chí về việc đẩy mạnh các hoạt
động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật cho cán bộ, nhân dân.
+ Chỉ đạo điểm một
số báo, tạp chí trung ương và địa
phương xây dựng chuyên trang, chuyên mục về pháp
luật.
+ Xây dựng các thiết chế văn hoá -
thông tin điểm về việc lồng ghép phổ
biến, giáo dục pháp luật vào các hoạt động.
+ Quý IV năm
2007: tiến hành sơ kết giai đoạn 1 của
Đề án.
Giai đoạn 2: từ năm 2008
đến năm 2010.
Tiếp tục thực hiện Đề
án một cách toàn diện trên phạm vi cả nước
với những nội dung đã được Đề
án đặt ra.
Tổng kết việc thực hiện
Đề án vào cuối năm 2010.
5. Kinh phí thực hiện Đề án
Nguồn kinh phí thực hiện Đề
án từ kinh phí Nhà nước cấp (ngân sách trung
ương, ngân sách địa phương).
- Kinh phí thực hiện Đề án ở
trung ương được cấp trực tiếp cho
cơ quan chủ trì thực hiện Đề án.
- Kinh phí thực hiện Đề án ở
địa phương được cấp trực
tiếp hàng năm cho các địa phương trên cơ
sở dự toán kinh phí do địa phương thực
hiện.
Hàng năm, Bộ Văn hoá - Thông tin xây
dựng kế hoạch chi tiết thực hiện
Đề án và lập dự toán kinh phí thực hiện công
việc thuộc trách nhiệm của trung ương
(phần kinh phí do trung ương bảo đảm)
gửi Bộ Tài chính để trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt và bố trí vào dự toán ngân sách
hàng năm của Bộ Văn hoá - Thông tin; Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
căn cứ hướng dẫn của cơ quan trung
ương để lập kế hoạch của
địa phương mình đồng thời lập
dự toán kinh phí trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt.
VI. ĐỐI
TƯỢNG THỤ HƯỞNG VÀ
HIỆU QUẢ KINH TẾ - Xà HỘI CỦA ĐỀ ÁN
1. Đối
tượng thụ hưởng kết quả triển
khai thực hiện Đề án
Mọi công dân Việt Nam trên khắp các vùng, miền
trong cả nước, đặc biệt là khu vực dân
cư ở các thôn, làng, bản, ấp, xã, phường
đều được phổ biến kịp thời
các quan điểm, đường lối phát triển kinh
tế - xã hội của Đảng và các chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
2. Hiệu quả kinh tế - xã
hội của Đề án
Việc thực hiện Đề án có hiệu quả
bảo đảm hạn chế các hành vi vi phạm pháp
luật trong cán bộ, nhân dân góp phần làm lành mạnh hóa
xã hội; giảm thiểu các chi phí đấu tranh, phòng
chống tội phạm và các hành vi tiêu cực trong xã
hội, là cơ sở quan trọng bảo đảm cho
việc xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, để tập trung phát triển kinh tế - xã
hội, đẩy nhanh quá trình hội nhập và giao lưu,
phát triển kinh tế quốc tế.
THỦ TƯỚNG
Phan Văn Khải - Đã ký
CHƯƠNG TRÌNH
HÀNH ĐỘNG QUỐC GIA PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT
CHO CÁN BỘ, NHÂN DÂN Ở Xà, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010
ĐỀ ÁN
THỨ HAI
XÂY DỰNG VÀ
ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN VẬN ĐỘNG
CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ
(Ban hành kèm theo Quyết
định số 28/2006/QĐ-TTg
ngày 28 tháng 01 năm 2006 của
Thủ tướng Chính phủ)
Cơ quan
chủ trì: Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam
Cơ quan
phối hợp:
- Hội Nông dân
Việt Nam;
- Trung ương Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh;
- Trung ương
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
- Hội Cựu
chiến binh Việt Nam;
- Bộ Tư
pháp;
- Bộ Văn
hoá - Thông tin;
- Bộ Tài chính.
I. SỰ CẦN
THIẾT CỦA ĐỀ ÁN
Một hệ thống pháp luật
phù hợp và dễ tiếp cận đóng vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh
tế và xã hội. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây các văn bản pháp luật ban hành ngày càng nhiều,
trong khi công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
tại cơ sở còn nhiều bất cập, nhất là
trình độ đội ngũ cán bộ cơ sở và
điều kiện phương tiện, tài liệu
phục vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật còn hạn chế; tuyên truyền, phổ biến
chưa kết hợp chặt chẽ với vận
động, thuyết phục, giáo dục. Mặt khác, trình
độ dân trí của nhân dân ở nhiều nơi còn
thấp, khiến cho người dân khó có thể nắm
bắt thông tin pháp luật thiết yếu để áp
dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Từ
thực trạng trên dẫn đến hiểu biết pháp
luật của nhân dân còn hạn chế, ý thức chấp
hành pháp luật của nhân dân chưa cao. Theo thống kê thì
tỷ lệ mất rừng của Việt Nam cao nhất
trong khu vực, chiếm 2,8%/năm do tình trạng chặt
phá rừng. Tình trạng người sử dụng
đất vi phạm pháp luật về đất đai
và tình hình khiếu kiện về đất đai diễn
ra nghiêm trọng và phổ biến, có đến 70 % vụ
khiếu kiện có nội dung liên quan đến
đất đai. Năm 2004 cả nước xảy ra
trên 17.600 vụ tai nạn giao thông làm trên 12.200 người
chết mà nguyên nhân chủ yếu vẫn là ý thức
chấp hành pháp luật về giao thông của người
dân còn nhiều hạn chế. Tệ nạn xã hội và
tội phạm còn xảy ra nhiều. Nhận thức
về môi trường và ý thức bảo vệ môi
trường còn hạn chế, dẫn đến môi
trường – sinh thái hiện đã ở ngưỡng suy
thoái. Hàng năm chính quyền cấp xã cả nước
đã phải xử phạt hành chính hàng trăm nghìn vụ
việc vi phạm pháp luật của người dân ở
nhiều lĩnh vực khác nhau.
Những
tồn tại trên làm hạn chế đến hiệu
quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở, các chương trình mục tiêu quốc gia về
phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo
nói riêng; việc phát triển kinh tế - xã hội, thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh nói chung.
Hiện nay,
cả nước có gần 17 triệu hộ gia đình,
trong đó có 82,5% dân số sống ở vùng nông thôn; có trên
100.000 khu dân cư. Việc nâng cao dân trí pháp luật và ý thức
chấp hành pháp luật cho nhân dân có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng và cấp thiết, nhất là vùng nông
nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, do đặc điểm về
điều kiện tự nhiên, dân tộc, vùng miền,
lứa tuổi rất khác nhau, điểm xuất phát
thấp, nên việc xây dựng ý thức tuân thủ pháp
luật của nhân dân là một quá trình lâu dài, thường
xuyên, có bước đi, hình thức phù hợp, từ
thấp đến cao.
Để
thực hiện mục tiêu làm chuyển biến mạnh
mẽ nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật
của nhân dân, giúp họ tự bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng, hình thành nếp sống
và làm việc theo pháp luật, góp phần ngăn ngừa vi
phạm pháp luật, thì không chỉ dùng biện pháp hành chính
đơn thuần, mà cần kết hợp nhiều
biện pháp như tuyên truyền, vận động,
thuyết phục, hướng dẫn, giải thích.
Mặt khác, việc phổ biến, giáo dục, vận
động thuyết phục thực hiện pháp luật
theo hình thức một chiều từ trên xuống ít có
hiệu quả, cần phải xây dựng mô hình,
điển hình cụ thể để nhân dân mắt
thấy tai nghe, từ đó phát huy tính tự giác, chủ
động chấp hành pháp luật của người dân.
Đồng thời, muốn thực hiện
được mục tiêu này, phải tạo sức
mạnh đồng bộ của cả hệ thống
chính trị, trong đó Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải
đóng vai trò nòng cốt.
Một trong
những mục tiêu Đại hội Đảng lần
thứ IX đề ra là "...đảm
bảo thực hiện công bằng xã hội, thực
hiện dân chủ cơ sở; chăm lo cho con
người, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mọi người; phòng chống tệ nạn xã
hội; phát huy vai trò của từng người dân,
từng cộng đồng trong việc tham gia đấu
tranh, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn
này...". Nghị quyết lần thứ V Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX về "Đổi
mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính
trị cơ sở xã, phường, thị trấn"
đã đặt ra nhiệm vụ đối với
Mặt trận và các đoàn thể ở cơ sở:
"Đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động của Mặt trận và các đoàn
thể sát hợp với nhu cầu và lợi ích của
hội viên, đoàn viên ... nâng cao tính tự giác của
hội viên, đoàn viên, xây dựng tổ chức vững
mạnh; tuyên truyền các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước đến mọi
người dân; vận động nhân dân thực
hiện.....". Nghị quyết lần thứ VII Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về "Phát huy
sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh" cũng yêu cầu: "Mặt trận và các
Đoàn thể nhân dân cần có kế hoạch vận
động, giáo dục, bồi dưỡng ý thức giác
ngộ chính trị cho đoàn viên, hội viên và nhân dân".
Điều 2 Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đã quy định "Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam có nhiệm vụ tuyên truyền vận
động nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực
hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và
pháp luật..."
Từ
những vấn đề nêu trên, cho thấy việc
triển khai Đề án "Xây dựng và đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, vận động chấp
hành pháp luật trong cộng đồng dân cư" là
rất cần thiết; tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ việc chấp hành pháp luật của
người dân trên một số lĩnh vực pháp
luật có liên quan trực tiếp đến người
dân ở một số
địa bàn cụ thể. Đề án sẽ góp phần
hỗ trợ việc nâng cao hiệu quả cuộc
vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá ở khu dân cư" do
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam chủ trì tổ chức chỉ đạo,
đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức
thành viên trong tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật,
vận động nhân dân chấp hành pháp luật.
II. MỤC TIÊU
CỦA ĐỀ ÁN
1. Mục
tiêu chung
Huy
động sự phối hợp thống nhất hành
động của các tổ chức thành viên Mặt
trận Tổ quốc, phát huy sáng kiến và tính chủ
động sáng tạo của mỗi tổ chức thành
viên, tạo nên sức mạnh tổng hợp để
tuyên truyền sâu, rộng pháp luật đến từng
người dân; góp phần nâng cao nhận thức và ý
thức chấp hành pháp luật một cách tự giác
của mỗi người dân, tạo nếp sống
tự quản theo pháp luật trong từng cộng
đồng dân cư; từng bước hạn chế
mọi vi phạm pháp luật; giữ vững ổn
định trật tự an toàn xã hội, củng cố
an ninh, quốc phòng.
2. Mục
tiêu cụ thể
a) Nâng cao kỹ năng tập
hợp, tuyên truyền nhận thức pháp luật và
vận động nhân dân chấp hành pháp luật của
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
Đoàn thể nhân dân, Ban công tác Mặt trận và các tổ
chức thành viên ở cộng đồng khu dân cư.
Phấn đấu đến
hết năm 2010 các đối tượng sau
được tập huấn, bồi dưỡng
kiến thức pháp luật: hầu hết Ban thường
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã,
người đứng đầu của các tổ
chức thành viên Mặt trận của cấp xã; Ban công tác
Mặt trận, chi hội, chi đoàn của các tổ
chức thành viên ở cộng đồng khu dân cư
thuộc địa bàn trọng điểm.
b) Xây dựng điểm sáng trong
chấp hành pháp luật tại các cơ sở xã,
phường, thị trấn. Phấn đấu
đến hết năm 2010 mỗi xã, phường, thị
trấn trong cả nước xây dựng được
một "Nhóm nòng cốt", "Câu lạc bộ pháp
luật" ở khu dân cư hoạt động có
hiệu quả.
c) Thông qua
việc thực hiện Đề án, rút ra những kinh
nghiệm trong xây dựng nội dung, hình thức, cơ
chế phối hợp tuyên truyền vận động
chấp hành pháp luật, huy động sức mạnh
của toàn dân tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ, hiệu quả thiết thực đối với
việc tuân thủ pháp luật của cộng đồng
dân cư.
III. NỘI DUNG
CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN
1. Phát huy vai
trò gương mẫu chấp hành pháp luật của cán
bộ, đảng viên, và của các cá nhân tiêu biểu
ở cộng đồng dân cư; khả năng tập
hợp, vận động nhân dân chấp hành pháp luật
của Ban công tác Mặt trận, Chi hội, Chi đoàn của
các tổ chức Đoàn thể nhân dân.
2. Xây dựng
và nhân rộng các hình thức thu hút đông đảo nhân
dân tham gia đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp
luật ngay tại khu dân cư như: xây dựng "Nhóm
nòng cốt", "Câu lạc bộ pháp luật"
để phổ biến, tuyên truyền vận
động chấp hành pháp luật tại khu dân cư.
Tổ chức tập huấn bồi dưỡng kỹ
năng tuyên truyền, vận động chấp hành pháp
luật, cung cấp các tài liệu, văn bản pháp
luật thiết yếu cho các thành viên "Nhóm nòng
cốt", "Câu lạc bộ pháp luật".
3. Lựa
chọn một số địa bàn khu dân cư có nhiều
bức xúc về chấp hành pháp luật đại
diện cho các khu vực thành thị, nông thôn, miền núi;
trong đó chú trọng vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ
để xây dựng mô hình điểm sáng trong chấp hành
pháp luật.
4. Lồng
ghép việc phổ biến, giáo dục pháp luật, vận
động chấp hành pháp luật với cuộc vận
động "Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá ở khu dân cư",
trọng tâm là phòng chống tội phạm, tệ nạn
xã hội; giám sát thực hiện Quy chế dân chủ, công
tác hoà giải ở cơ sở và việc thực hiện
quy ước, hương ước ở cộng
đồng khu dân cư.
5. Thực
hiện khen thưởng đối với tập thể,
gia đình, cá nhân và khu dân cư thực hiện tốt
việc chấp hành pháp luật; khen thưởng
đối với tổ chức, cá nhân tích cực trong công
tác tuyên truyền, vận động chấp hành pháp
luật ở cở sở, cộng đồng dân cư.
IV. GIẢI PHÁP
THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Phát động phong trào chấp hành pháp luật trong
từng cộng đồng dân cư
a) Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc các cấp xây dựng chương trình kế
hoạch chung về phong trào tuyên truyền và vận
động chấp hành pháp luật ở cộng
đồng dân cư, theo đó các tổ chức thành viên
của Mặt trận tổ chức phát động phong
trào chấp hành pháp luật theo từng đối
tượng đoàn viên, hội viên và các tầng lớp dân
cư.
b) Xây dựng
các tiêu chí và hình thức công nhận cộng đồng dân
cư chấp hành tốt pháp luật gắn với cuộc vận
động "Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa khu dân cư" và
được lồng ghép với các phong trào của
từng tổ chức thành viên
thực hiện.
c) Phát động và tổ chức
cho các hộ gia đình, cá nhân ký cam kết không vi phạm
phạm pháp luật, chú trọng nêu gương
người tốt, việc tốt trong chấp hành pháp
luật và đấu tranh với những hành vi vi phạm
pháp luật.
d) Vận
động nhân dân chấp hành pháp luật gắn với
thực hiện hương ước, quy ước
nhằm phát huy vai trò của hương ước, quy
ước ở cộng đồng khu dân cư.
đ)
Lồng ghép các hoạt động phổ biến, giáo
dục pháp luật vào nội dung, chương trình hoạt
động tại các trung tâm văn hoá, nhà văn hoá,
tụ điểm sinh hoạt văn hoá, câu lạc bộ
văn hoá, đội thông tin lưu động, câu lạc
bộ pháp luật.
e) Tăng
cường các hình thức tuyên truyền trong các buổi
sinh hoạt khu dân cư, câu lạc bộ; thông qua "Nhóm
nòng cốt", từng bước xây dựng tủ sách
pháp luật ở cộng đồng dân cư, biên tập
và phát hành tờ rơi tờ gấp đến từng khu
dân cư, xây dựng bảng tin ở khu dân cư; tổ
chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật dưới
các hình thức giao lưu văn nghệ.
2. Xây dựng lực lượng
nòng cốt vận động nhân dân chấp hành pháp
luật ở khu dân cư
a) Xây dựng
và tổ chức hoạt động "Nhóm nòng
cốt" tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật tại cộng đồng dân cư, bao gồm
đại diện: Ban công tác Mặt trận, Chi hội
Nông dân, Chi đoàn Thanh niên, Chi hội Phụ nữ, Chi
hội Cựu chiến binh và Người có trình độ
- uy tín tại khu dân cư (thôn, làng, ấp, bản, khu
phố, tổ dân phố...). Mỗi "Nhóm nòng
cốt" ở khu dân cư có từ 5 - 10 người tùy
theo quy mô dân số và địa bàn.
b)
Định kỳ tổ chức tập huấn bồi
dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng
tập hợp tuyên tuyền vận động nhân dân cho
Ủy ban Mặt trận tổ quốc, các tổ chức
đoàn thể nhân dân.
- Trung
ương tổ chức tập huấn cho các tỉnh,
thành phố trong cả nước và những cơ sở
xã, phường, thị trấn và khu dân cư
được chọn triển khai điểm theo vùng,
miền.
- Các tỉnh,
thành phố tổ chức tập huấn cho Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở
cơ sở xã, phường, thị trấn và khu dân cư
được chọn triển khai điểm của
địa phương.
c) Cung cấp
một số tài liệu pháp luật thiết yếu có liên
quan trực tiếp đến việc tổ chức
thực hiện Đề án ở cộng đồng dân
cư.
d) Đẩy
mạnh các hình thức phổ biến, giáo dục pháp
luật: trợ giúp pháp lý, truyền thanh nội bộ,
tuyên truyền miệng, tờ gấp, sinh hoạt tổ
nhân dân. v.v...
3. Lựa
chọn địa bàn xây dựng mô hình điểm tạo
sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc
chấp hành pháp luật ở một số lĩnh vực
trọng điểm
a) Tại
một số địa bàn tập trung xây dựng mô hình
điểm về chấp hành pháp luật trong một
số lĩnh vực thiết yếu sau:
- Địa
bàn thành thị xây dựng mô hình điểm về chấp
hành pháp luật trong lĩnh vực: môi trường, tệ
nạn xã hội...
- Địa
bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
xây dựng mô hình điểm về chấp hành pháp luật
trong lĩnh vực: bảo vệ phát triển rừng, hôn nhân
gia đình...
- Địa
bàn nông thôn ven đô thị xây dựng mô hình điểm
về chấp hành pháp luật trong lĩnh vực
đất đai, giao thông...
- Các
địa bàn trọng điểm: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây
Nam Bộ xây dựng mô hình điểm về chấp hành
pháp luật trong lĩnh vực: tôn giáo, dân tộc,
đất đai.
- Tại
những nơi làm điểm thực hiện đồng
bộ các giải pháp và tập trung vào một số
việc sau:
+ Xây dựng
và tổ chức hoạt động của "Nhóm nòng
cốt", củng cố "Câu lạc bộ pháp
luật"; từng bước xây dựng tủ sách pháp
luật tại khu dân cư nhằm thu hút đông
đảo nhân dân tham gia hoạt động, tìm hiểu
nắm vững pháp luật để đấu tranh, phòng
chống vi phạm pháp luật ngay tại cộng
đồng dân cư;
+ Đẩy
mạnh và đa dạng hoá các hoạt động phổ
biến giáo dục pháp luật như: học tập, tuyên
truyền miệng, phát hành tờ gấp pháp luật,
tổ chức thi tìm hiểu nội dung pháp luật, tư
vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý;
+ Định
kỳ sơ kết, tổng kết mô hình điểm, tuyên
truyền trên phương tiện thông tin đại chúng
để nhân ra diện rộng.
b) Trung
ương triển khai điểm Đề án tại
một số địa bàn.
Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cùng với các cơ quan tham gia Đề án hỗ trợ
một số địa phương đại diện
vùng, miền (miền núi, nông thôn, đô thị, đồng
bào dân tộc; vùng đồng bào có Đạo; Tây Bắc,
Tây Nguyên, Tây Nam bộ) tổ chức triển khai
Đề án. Tại nơi được chọn làm
điểm sẽ được hỗ trợ tập
huấn, tài liệu và kinh phí thực hiện.
c) Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân,
các cơ quan có liên quan cùng
cấp ở địa phương phối hợp xây
dựng mô hình điểm thực hiện Đề án phù
hợp tình hình thực tế của địa
phương.
4.
Động viên khen thưởng
- Xây dựng
quy chế khen thưởng đối với cá nhân, gia
đình và tập thể chấp hành pháp luật tốt
tại địa bàn khu dân cư; tổ chức, cá nhân và
nhóm nòng cốt làm tốt công tác vận động nhân dân
chấp hành pháp luật ở cơ sở, cộng
đồng.
- Đa
dạng các hình thức biểu dương, khen
thưởng cho những cá nhân, hộ gia đình, tổ
chức và tập thể trong việc chấp hành và vận
động chấp hành pháp luật ở cơ sở:
tặng giấy khen hàng năm, bằng khen 5 năm, kỷ
vật...
- Tổ
chức thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện
thông tin đại chúng về khen thưởng việc
chấp hành pháp luật ở cơ sở.
5. Giải
pháp về nhân lực
a) Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội phối hợp chặt chẽ với
các Bộ, ngành có liên quan, chính quyền địa
phương tổ chức thực hiện các nội dung
của Đề án.
b) Kết
hợp thực hiện Đề án với việc
thực hiện các chương trình quốc gia về:
phòng, chống tội phạm, ma túy; xóa đói, giảm
nghèo, bảo vệ môi trường; dân số; y tế, giáo
dục...
c) Kết
hợp công tác tiếp dân, xử lý đơn thư
khiếu nại của Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc, của các đoàn thể nhân dân để tuyên
truyền, tư vấn pháp luật cho các đoàn viên,
hội viên.
d) Phối
hợp chặt chẽ với các Đề án khác trong
chương trình quốc gia về phổ biến giáo
dục pháp luật để thực hiện các nội
dung của Đề án.
đ) Huy
động sự tham gia của đông đảo nhân dân
trong việc thực hiện các nội dung của
Đề án với phương châm "Nhà nước
hỗ trợ, nhân dân vận động nhân dân tự
nguyện thực hiện".
V. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Thành
lập Ban Điều hành Đề án ở trung
ương
- Thành lập Ban
Điều hành Đề án trung ương gồm
đại diện các cơ quan: Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương
Hội Nông dân Việt Nam, Trung ương Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam, Trung ương Hội
Cựu chiến binh Việt Nam, Bộ Tư pháp, Bộ
Văn hóa - Thông tin, Bộ Tài chính.
- Trưởng
ban Điều hành Đề án là lãnh đạo Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các thành viên là đại
diện các cơ quan tham gia Đề án.
- Ban
Điều hành Đề án lập Tổ thư ký giúp
việc gồm một số chuyên viên của các cơ quan
tham gia Đề án.
2. Phân công trách nhiệm
a) Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam
Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
chủ trì, phối hợp với các cơ quan tham gia
Đề án có trách nhiệm:
- Xây dựng các kế hoạch, chương trình
thực hiện theo từng thời gian cụ thể;
-
Hướng dẫn, kiểm tra các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương triển khai thực
hiện Đề án tại cộng đồng dân cư;
- Xây dựng
dự toán kinh phí thực hiện Đề án của Trung
ương;
- Gắn
việc thực hiện Đề án với chỉ
đạo, tổ chức thực hiện cuộc vận
động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá ở khu dân cư".
b) Hội Nông dân Việt Nam
Phối hợp các cơ quan tham gia
Đề án lồng ghép việc tuyên truyền vận
động chấp hành pháp luật trong hội viên nông dân
với phong trào nông dân sản xuất giỏi, hoạt
động của câu lạc bộ nông dân.., trực
tiếp chỉ đạo việc thực hiện
Đề án tại vùng Tây bắc.
c) Trung ương Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh
Tăng cường phổ
biến giáo dục pháp luật trong đoàn viên, thanh niên;
phát huy vai trò nòng cốt của thanh niên trong công tác phòng,
chống ma tuý, tệ nạn xã hội, bảo vệ môi
trường, thực hiện Luật Hôn nhân gia đình,
Luật Nghĩa vụ quân sự... Gắn việc thực
hiện Đề án với đẩy mạnh phong trào "Thi
đua tình nguyện xây dựng và bảo vệ tổ
quốc"; trực tiếp chỉ đạo việc
thực hiện Đề án tại khu vực miền
Trung.
d) Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam
Tăng cường phổ
biến, giáo dục pháp luật cho hội viên và gia đình
hội viên; phát huy vai trò nòng cốt của Hội Phụ
nữ trong việc thực hiện mục tiêu bình
đẳng giới, xây dựng gia đình văn hóa;
gắn thực hiện Đề án với phong trào
"Phụ nữ tích cực học tập, lao động
sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc"; trực
tiếp chỉ đạo việc thực hiện
Đề án tại khu vực Tây Nguyên.
đ) Hội Cựu chiến binh
Việt Nam
Tăng cường phổ
biến, giáo dục pháp luật trong hội viên và gia
đình hội viên; phát huy vai trò nòng cốt của Hội
Cựu chiến binh trong việc nhận thức và ý
thức chấp hành pháp luật ở cộng đồng
dân cư; gắn việc thực hiện Đề án
với đẩy mạnh phong trào "Phát huy bản chất,
truyền thống bộ đội Cụ Hồ, góp
phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc", trực
tiếp chỉ đạo việc thực hiện
Đề án tại khu vực đô thị.
e) Bộ Tư pháp
Phối hợp với các cơ
quan chủ trì các Đề án trong chương trình chỉ
đạo việc biên soạn tài liệu tuyên truyền,
phổ biến pháp luật ở cộng đồng dân
cư, tập trung các nguồn lực làm chuyển biến
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật ở
một số lĩnh vực, một số địa bàn
trọng điểm. Cùng Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam chỉ đạo
điểm xây dựng "Nhóm nòng cốt".
g) Bộ Văn hóa - Thông tin
Tăng cường chỉ
đạo xây dựng các thiết chế văn hoá ở
cơ sở và khu dân cư, nâng cao chất lượng tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng, các trung tâm
văn hoá - thông tin, nhà văn hoá, tụ điểm sinh
hoạt văn hoá, câu lạc bộ văn hoá, các
đội thông tin lưu động, tổ tuyên truyền
văn nghệ, xây dựng và thực hiện hương
ước, quy ước.... Trước mắt tập
trung những địa bàn xây dựng mô hình điểm
thực hiện các Đề án trong chương trình
quốc gia phổ biến giáo dục pháp luật.
h) Bộ Tài chính
Phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam xây dựng dự toán kinh phí thực
hiện Đề án của Trung ương, xây dựng
chính sách, chế độ cho "Nhóm nòng cốt" và
cộng tác viên để thực hiện việc tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở
cộng đồng dân cư.
3. Tiến
độ thực hiện:
a) Giai
đoạn từ năm 2005 - 2007
- Năm 2005:
+ Xây dựng
đề cương và lấy ý kiến tham gia hoàn
thiện Đề án;
+ Thành lập
Ban Điều hành Đề án và tổ thư ký;
+ Hoàn
chỉnh Đề án trình Chính phủ phê duyệt;
+ Điều
tra, khảo sát, nghiên cứu: đánh giá thực trạng
tình hình chấp hành pháp luật ở cơ sở, khu dân
cư.
- Năm 2006 -
2007:
+ Xây dựng
kế hoạch chi tiết từng năm và cả giai
đoạn I;
+ Trung
ương tổ chức hội nghị tập huấn
triển khai toàn quốc ở phiá Bắc và phía Nam;
+ Chọn
địa bàn và triển khai xây dựng mô hình làm
điểm của Trung ương;
+ Tổ
chức các hội nghị rút kinh nghiệm xây dựng mô
hình điểm ở các vùng, miền trên phạm vi cả
nước.
+ Các
địa phương tổ chức tập huấn
triển khai thực hiện Đề án ở địa
phương mình.
+ Trung
ương và địa phương chỉ đạo
điểm, sơ kết điểm.
+ Xây dựng
đội ngũ cộng tác viên tuyên truyền, phổ
biến pháp luật; thông tin,
tuyên truyền.
+ Kiểm tra
giám sát.
+ Quý IV năm
2007 sơ kết giai đoạn I.
b) Giai
đoạn từ năm 2008 - 2010:
- Xây dựng
kế hoạch chi tiết giai đoạn II.
- Đẩy
mạnh các phong trào.
- Nhân
điển hình ra diện rộng.
- Củng
cố nhóm nòng cốt và tập huấn.
- Thông tin,
tuyên truyền.
- Kiểm tra
giám sát.
- Tổng
kết giai đoạn II.
- Đề xuất phương
hướng tiếp tục Đề án từ 2010 – 2015.
4. Kinh phí
thực hiện Đề án:
a) Từ ngân
sách nhà nước cấp cho việc triển khai thực
hiện Đề án theo phân cấp ngân sách trung ương
và ngân sách địa phương:
- Kinh phí
thực hiện các công việc của trung ương do
ngân sách trung ương bảo đảm: hàng năm,
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam phối hợp với các cơ quan liên quan
lập dự toán kinh phí triển khai các nội dung công
việc của Trung ương gửi Bộ Tài chính trình
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và bố trí vào
dự toán kinh phí hàng năm của Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Kinh phí
thực hiện các công việc của địa
phương do ngân sách địa phương bảo
đảm: hàng năm, cùng với việc lập dự
toán kinh phí thường xuyên, cơ quan chủ trì thực
hiện Đề án lập dự toán kinh phí triển khai
các nội dung công việc của Đề án gửi cơ
quan Tài chính cùng cấp trình cơ quan có thẩm quyền phê
duyệt.
b) Lồng
ghép với kinh phí thường xuyên chi cho việc phổ
biến, tuyên truyền pháp luật của các Bộ, ngành,
địa phương.
Việc phân
bổ và quyết toán kinh phí thực hiện Đề án
theo sự hướng dẫn của Bộ Tài chính.
5. Nhiệm vụ và cơ chế
hoạt động của Ban Điều hành Đề án:
- Xây dựng
quy chế làm việc của Ban Điều hành và tổ
thư ký.
- Lập
kế hoạch thực hiện hàng năm.
- Kiểm tra,
giám sát.
- Sơ
kết, tổng kết, báo cáo, tổ chức hội
nghị.
VI. ĐỐI
TƯỢNG THỤ HƯỞNG VÀ HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ ÁN
1.
Đối tượng được thụ hưởng
và địa điểm thực hiện Đề án:
a) Đối
tượng thụ hưởng: cán bộ và toàn
thể nhân dân cư trú trên địa bàn khu dân cư, tuy
nhiên trong giai đoạn đầu tập trung thực
hiện một số địa bàn làm điểm.
b) Địa
điểm thực hiện Đề án: các khu dân
cư trong phạm vi toàn quốc, trước mắt do
điều kiện thời gian, kinh phí đầu tư,
nguồn nhân lực... trong giai đoạn đầu
tập trung triển khai tại một số vùng có bức
xúc về chấp hành pháp luật của nhân dân trên cơ
sở ưu tiên vùng núi, vùng khó khăn, vùng đồng bào
dân tộc, đồng bào có đạo và những vùng
bức xúc về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội.
2. Hiệu
quả của Đề án
a) Về
nhận thức
- Xác
định vai trò, trách nhiệm của Mặt trận, các
thành viên và nhân dân trong việc truyên truyền vận
động nhân dân tham gia chấp hành pháp luật.
- Nâng cao
hiểu biết chính sách pháp luật của cán bộ và nhân
dân, giúp nhân dân thực thi chính sách pháp luật vào thực
tiễn cuộc sống.
- Nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật, tạo nếp sống và
làm việc theo pháp luật trong nhân dân.
b) Về
kinh tế
- Hạn chế các thiệt
hại về tài sản của Nhà nước, tổ
chức và cá nhân từ hậu quả của việc vi
phạm pháp luật.
- Giúp nhân dân tự bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của
mình khi tham gia các quan hệ hình
sự, dân sự, kinh tế.
- Tạo điều kiện cho nhân
dân phát huy dân chủ tích cực phát triển sản
xuất, xoá đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng, góp
phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh
tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa
phương và đất nước.
- Hạn
chế các vi phạm pháp luật, từ đó giảm chi
phí của Nhà nước và xã hội cho hoạt
động xử lý các vi phạm pháp luật của nhân
dân như: công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo, điều tra, truy tố, xét xử, giam giữ...
c) Về xã
hội, chính trị
- Thực hiện mục tiêu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa theo Nghị quyết Đại hội Đảng
khoá IX.
- Tạo môi
trường dân chủ, bình đẳng trong mỗi
cộng đồng dân cư và toàn xã hội; sự bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật.
- Phát huy dân
chủ đại diện của Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức thành viên; dân chủ
trực tiếp của nhân dân tham gia xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch vững
mạnh - hiệu lực - hiệu quả, thực hiện
tốt quy chế dân chủ cơ sở. Thực hiện
có hiệu quả vai trò giám sát của Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể và
nhân dân trong việc thực thi chính sách, pháp luật ở
cơ sở.
- Nâng cao
nhận thức chính sách, pháp luật cho nhân dân có khả
năng tự tổ chức
và giải quyết tốt các mâu thuẫn vướng
mắc của công dân, đảm bảo tăng
cường đoàn kết từ trong mỗi gia đình và
cộng đồng dân cư, giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở,
góp phần với Đảng và Nhà nước giữ
vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng.
- Đổi mới phương
thức và nâng cao hiệu quả hoạt động
của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức thành viên, tập hợp đông đảo nhân dân,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế,
chính trị, xã hội do Đảng và Nhà nước
đề ra.
THỦ
TƯỚNG
Phan Văn
Khải – Đã ký
CHƯƠNG TRÌNH
HÀNH ĐỘNG QUỐC GIA PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO CÁN
BỘ, NHÂN DÂN Ở Xà, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TỪ
NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010
ĐỀ ÁN
THỨ BA
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
Ở Xà, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
(Ban hành kèm theo Quyết
định số 28/2006/QĐ-TTg
ngày 28 tháng 01 năm 2006 của
Thủ tướng Chính phủ
Cơ quan
chủ trì: Thanh tra Chính phủ.
Cơ quan
phối hợp:
- Bộ Tư pháp;
- Bộ Văn hoá - Thông tin;
- Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam;
- Trung ương Hội Nông dân Việt Nam;
- Đài Truyền hình Việt Nam;
- Đài Tiếng nói Việt Nam.
I. SỰ CẦN
THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
Thời gian qua, Nhà nước ta
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về
khiếu nại, tố cáo như Luật Khiếu nại,
tố cáo năm 1998, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Khiếu nại,
tố cáo năm 2004 và nhiều Nghị định của
Chính phủ nhằm quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, tố
cáo và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Khiếu nại, tố cáo. Các
văn bản pháp luật này đã tạo cơ sở pháp
lý quan trọng để công dân thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tổ chức tốt công tác tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Để triển khai thực
hiện Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn
bản pháp luật hướng dẫn thi hành, ngành thanh tra
đã tổ chức nhiều đợt tập huấn cho
các cán bộ, thanh tra viên trong ngành thanh tra; phối hợp
chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng
tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích nội dung
của Luật Khiếu nại, tố cáo; biên soạn các
tài liệu hướng dẫn về nghiệp vụ
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các
cấp, các ngành và các đoàn thể, tổ chức chính
trị - xã hội đã chủ động phối hợp
với các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của
trung ương và địa phương để tổ
chức nhiều đợt tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong phạm
vi địa phương, ngành mình. Thông qua việc tổ
chức các hoạt động tuyên truyền, phổ
biến pháp luật đã giúp cho người dân hiểu rõ
các quyền, nghĩa vụ của mình khi khiếu nại,
tố cáo, giúp cho cán bộ, cơ quan nhà nước
đề cao trách nhiệm trong việc tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo, góp phần nâng cao
hiệu quả công tác này.
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu
nại, tố cáo còn bất cập. Việc tuyên truyền
còn hình thức, kém hiệu quả. Nội dung, phương
pháp tuyên truyền nghèo nàn, chưa chú trọng đến
cấp cơ sở, khu vực nông thôn, nhất là vùng sâu,
vùng xa, nơi trình độ dân trí còn thấp. Việc tuyên
truyền chưa tiến hành thường xuyên, liên tục,
chỉ tập trung vào giai đoạn sau khi Luật
Khiếu nại, tố cáo năm 1998 được ban
hành, thiếu cập nhật các quy định pháp luật
mới về khiếu nại, tố cáo như Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004,
Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản pháp
luật khác có liên quan... để kịp thời tuyên truyền,
phổ biến cho cán bộ và nhân dân ở xã,
phường, thị trấn. Do đó, dẫn đến
tình trạng:
- Người dân không am hiểu
về pháp luật nói chung và pháp luật về khiếu
nại, tố cáo nói riêng do không được
hướng dẫn, giải thích một cách đầy
đủ nên đã không thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo đúng theo quy định của pháp
luật. Khiếu nại không đúng người có
thẩm quyền giải quyết; một số
người khi không đồng ý với quyết
định của chính quyền cấp cơ sở đã
chụp đơn khiếu nại thành nhiều bản
gửi tràn lan, vượt cấp từ các đồng chí
lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà
nước xuống đến các sở, ban ngành của
tỉnh để nhờ giải quyết; thậm chí
tụ tập đông người để khiếu
nại, tố cáo gây mất trật tự, an toàn xã hội
làm ảnh hưởng đến hoạt động bình
thường của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và các đồng chí lãnh đạo Đảng và
Nhà nước.
- Nhiều trường hợp
khiếu kiện thiếu căn cứ, ngoài các quy
định của pháp luật nhưng vẫn đi
khiếu nại làm mất nhiều thời gian, công sức
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cũng như người đi khiếu nại. Một
số vụ việc khiếu nại, tố cáo đã
được các cơ quan nhà nước xem xét, giải
quyết khách quan, đúng pháp luật nhưng người
dân vẫn không chấp hành các quyết định giải
quyết khiếu nại, quyết định xử lý
tố cáo; một số người dân nhờ "cò kiện"
thay mình đi khiếu nại, tố cáo đã bị
lừa đảo, chiếm đoạt mất nhiều
tiền, tài sản...
Bên cạnh đó, công tác tiếp
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của chính
quyền cấp xã cũng còn nhiều bất cập. Có
không ít cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo một số địa
phương chưa đảm bảo về năng
lực, trình độ, thiếu hiểu biết về các
quy định pháp luật, chưa được học
tập, đào tạo, bồi dưỡng đầy
đủ về kỹ năng, nghiệp vụ tiếp
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo nên không
nắm vững về trình tự, thủ tục giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Vì vậy, mà trong quá trình
giải quyết khiếu nại, tố cáo đã làm không
hết trách nhiệm của mình, thậm chí còn vi phạm
các quy định của pháp luật khiếu nại, tố
cáo, các quy trình nghiệp vụ giải quyết khiếu
nại, tố cáo đã dẫn đến hiệu quả
công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo còn nhiều hạn chế. Trong công tác tiếp
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng còn
nhiều bất cập như: có cán bộ tiếp dân
hướng dẫn người dân đi khiếu kiện
vòng vo, gây lãng phí, tốn kém, làm cho người dân thiếu
tin tưởng vào việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước; trong
quá trình thẩm tra, xác minh để giải quyết
khiếu nại, tố cáo đã có sai sót, bỏ qua chứng
cứ dẫn đến kết luận thiếu khách quan,
chính xác, giải quyết oan, sai cho người dân. Có
trường hợp chậm ra quyết định
giải quyết hoặc chỉ có kết luận, thông báo
thay cho quyết định giải quyết khiếu
nại, quyết định xử lý tố cáo.
Nhiều nơi chưa gắn
việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo với việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở; chưa có cơ chế phối
hợp trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp
luật giữa các tổ chức chính trị - xã hội
với chính quyền cấp cơ sở; chưa coi
trọng việc phối hợp của các đoàn thể
quần chúng với chính quyền trong việc hoà giải,
giải quyết tranh chấp các khiếu nại phát sinh
từ cơ sở, còn để tình trạng đơn
thư vượt cấp, khiếu kiện đông
người, gây bức xúc ở một số địa
phương như Thái Bình, Nam Định, Hà Tây...
Qua thực tiễn cho thấy công
tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo có ý
nghĩa hết sức quan trọng, bằng các hình thức
tuyên truyền thích hợp, phù hợp với từng
đối tượng như thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng hoặc tuyên truyền
trực tiếp cho người dân; tuyên truyền qua
hoạt động nghề nghiệp của cán bộ làm
công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo sẽ góp phần đưa pháp luật về khiếu
nại, tố cáo đi dần vào ý thức pháp luật
của cán bộ, nhân dân, trở thành những hành động
cụ thể khi thực hiện quyền khiếu nại,
tố cáo hoặc tham gia làm nhiệm vụ tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo, góp phần quan
trọng vào việc nâng cao hiệu quả công tác tiếp
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Trước yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, cần phải phát huy hơn nữa quyền dân
chủ của nhân dân trong thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo, đồng thời xác
định rõ trách nhiệm của chính quyền xã,
phường, thị trấn trong công tác tiếp dân,
giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công
dân, nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo thông qua công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật là một đòi
hỏi khách quan. Chính vì vậy, việc xây dựng
Đề án thứ ba "Tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về khiếu
nại, tố cáo đối với cán bộ, nhân dân ở
xã, phường, thị trấn" trong Chương trình
hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp
luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán
bộ, nhân dân xã, phường, thị trấn từ
năm 2005 đến năm 2010 ban hành kèm theo Quyết
định số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16 tháng 12 năm 2004
của Thủ tướng Chính phủ là cần thiết
góp phần giữ vững, ổn định tình hình chính
trị xã hội, hạn chế tình trạng khiếu
nại, tố cáo tràn lan, vượt cấp, nâng cao
chất lượng công tác tiếp dân giải quyết
khiếu nại, tố cáo như tinh thần Chỉ
thị số 09/CT-TW
ngày 06 tháng 3 năm 2002 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về một số vấn đề cấp
bách cần thực hiện trong giải quyết khiếu
nại, tố cáo hiện nay đã đặt ra.
II. CÁC MỤC TIÊU
CỦA ĐỀ ÁN
1. Mục
tiêu chung
Tạo ra
sự chuyển biến căn bản trong nhận thức
và nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng
và chấp hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo
của cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị
trấn, góp phần ngăn chặn và hạn chế vi
phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo,
giữ gìn an ninh và trật tự an toàn xã hội. Khai thác có
hiệu quả việc tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về khiếu nại, tố cáo thông qua hoạt
động nghề nghiệp của cán bộ làm công tác
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
ở cơ sở.
2. Những
mục tiêu cụ thể
Thông qua
việc tuyên truyền, phổ biến các quy định
của pháp luật về khiếu nại, tố cáo
nhằm:
a) Giúp cho người dân hiểu và thực hiện
đúng quyền, nghĩa vụ của mình khi thực
hiện việc khiếu nại, tố cáo và trách nhiệm
của mình khi thi hành quyết định giải quyết
khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo
đã có hiệu lực pháp luật.
b) Góp phần
nâng cao năng lực, trình độ nghiệp vụ và
đề cao trách nhiệm của cán bộ ở xã,
phường, thị trấn trong việc tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo.
c) Nâng cao
kỹ năng, nghiệp vụ tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo cho cán bộ ở xã,
phường, thị trấn làm công tác này.
d) Tăng
cường mối quan hệ và sự phối hợp
giữa chính quyền và các tổ chức đoàn thể
trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, các tranh chấp phát sinh từ xã, phường, thị
trấn, góp phần hạn chế khiếu nại, tố
cáo tràn lan, vượt cấp.
III. NỘI DUNG
CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN
1. Đẩy
mạnh tuyên truyền, phổ biến các quy định
pháp luật về tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn
bằng các hình thức thiết thực, phù hợp với
hoạt động đặc thù của ngành thanh tra.
2. Bồi
dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm và trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ trong thực thi pháp luật
của cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
3. Xuất
bản và phát hành các tài liệu: hỏi, đáp về
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân; các tài
liệu nghiệp vụ về tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo; hướng dẫn
kỹ năng tuyên truyền, phổ biến pháp luật
thông qua công tác tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo; biên dịch một số tài liệu
tuyên truyền, phổ biến pháp luật khiếu nại,
tố cáo sang tiếng dân tộc thiểu số cho
những người thuộc các dân tộc thiểu
số, ít người.
4. Xây dựng
quy chế phối hợp giữa Hội nông dân, Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị
trấn với chính quyền cấp xã trong việc phối
hợp tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
tranh chấp phát sinh từ cơ sở cho cán bộ, nhân dân
ở xã, phường, thị trấn.
IV. GIẢI PHÁP
THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Các
hoạt động và biện pháp thực hiện
Đề án
Thanh tra Chính
phủ chủ trì và phối hợp với các cơ quan:
Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá - Thông tin, Đài Truyền
hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Trung ương Hội Nông dân Việt Nam xây dựng
chương trình, kế hoạch cụ thể để
triển khai thực hiện các nội dung của
Đề án theo từng giai đoạn cụ thể.
Đề án
được thực hiện thông qua các hoạt
động sau:
a) Tuyên
truyền pháp luật về tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng.
- Tuyên truyền thông qua Báo, Tạp
chí: chú trọng vào một số
tờ báo như: Báo Lao động, Báo Pháp luật Việt
Nam, Báo Tuổi trẻ, Báo Tiền phong, Báo Công an nhân dân, Báo
Đại đoàn kết, Báo Nông thôn ngày nay, Báo Thanh tra,
Tạp chí thanh tra… bằng các hình thức:
+ Xây dựng các chuyên trang, chuyên
mục của các Báo, Đài để tuyên truyền,
phổ biến các quy định pháp luật về
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
+ Đăng các tin, bài, phóng sự
điều tra về công tác tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà
nước.
+ Giải đáp pháp luật về
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo;
phỏng vấn cán bộ làm công tác chuyên môn về áp
dụng pháp luật trong giải quyết các tình huống
cụ thể.
- Tuyên truyền thông qua Đài
Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam: phối hợp với các cơ quan này dành
thời lượng nhất định cho mỗi buổi
phát sóng để tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo.
+ Mời chuyên gia để
hướng dẫn, giải thích pháp luật về
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên
Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt
Nam.
+ Đưa các tin, bài, phóng sự
điều tra về tình hình khiếu nại, tố cáo,
kết quả hoạt động tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà
nước.
+ Phối hợp với các cơ
quan chuyên môn thực hiện phỏng vấn, tọa đàm
về pháp luật, việc thực hiện pháp luật,
kinh nghiệm trong công tác tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
+ Xây dựng các tiểu phẩm có
nội dung phản ánh về hoạt động tiếp
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
+ Phản ánh gương
điển hình tiên tiến làm tốt công tác tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo đặc
biệt là ở các xã, phường, thị trấn.
- Xây dựng trang thông tin
điện tử về pháp luật tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong trang thông tin điện tử của Thanh tra Chính
phủ (Website), nhằm cung cấp các thông tin pháp luật và
trực tiếp giải đáp pháp luật về tiếp
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo cho cán
bộ, nhân dân.
b) Tổ chức biên soạn,
xuất bản các tài liệu phục vụ công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Cấp trung ương trực
tiếp biên soạn, xuất bản sách, tài liệu pháp
luật phổ thông để hướng dẫn thực
hiện quy định pháp luật cho nhân dân như: Hỏi
đáp về pháp luật khiếu nại, tố cáo, tìm
hiểu pháp luật về khiếu nại, tố cáo,
những điều cần biết khi thực hiện
việc khiếu nại, tố cáo… trong đó sẽ biên
dịch và xuất bản tài liệu pháp luật phổ
thông bằng một số tiếng dân tộc thiểu số.
- Cấp trung ương trực
tiếp biên soạn, xuất bản một số cuốn
sách hướng dẫn nghiệp vụ tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo, nghiệp
vụ, kỹ năng tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo cho cán bộ làm công tác này ở xã,
phường, thị trấn.
- Cấp trung ương tổ
chức in ấn, phát hành tờ gấp để giải
đáp, hướng dẫn những vấn đề
cơ bản về quyền và nghĩa vụ của công
dân khi thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo
và thi hành quyết định giải quyết khiếu
nại, quyết định xử lý tố cáo để
phát cho nhân dân tại một số địa bàn chọn
điểm.
Các tài liệu được biên
soạn phải cụ thể, dễ hiểu, dễ
thực hiện, phù hợp với từng đối
tượng, có tác dụng thiết thực trong công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về khiếu
nại, tố cáo cho cán bộ, nhân dân ở xã,
phường, thị trấn.
c) Xây
dựng cơ chế phối hợp giữa Hội Nông
dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc với chính
quyền xã, phường, thị trấn trong việc tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo cho cán bộ,
nhân dân ở xã, phường, thị trấn.
- Các
địa phương cần nâng cao vai trò của Hội
Nông dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã,
phường, thị trấn trong việc phối hợp
với chính quyền cơ sở tham gia vận động
nhân dân chấp hành pháp luật về khiếu nại,
tố cáo.
- Cấp trung
ương xây dựng và hướng dẫn địa
phương thực hiện quy chế phối hợp
giữa Hội Nông dân, Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc xã, phường, thị trấn với chính
quyền cùng cấp trong việc phối hợp tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về khiếu
nại, tố cáo cho cán bộ, nhân dân. Các hoạt
động tuyên truyền, phổ biến pháp luật
được thực hiện thông qua các hoạt
động nghề nghiệp của Hội Nông dân, Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc; thông qua việc vận
động nhân dân chấp hành pháp luật về khiếu
nại, tố cáo; tham gia giúp chính quyền giải quyết
các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo.
d) Tổ chức tuyên truyền,
phổ biến trực tiếp các quy định pháp
luật về tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo cho nhân dân thuộc xã, phường,
thị trấn.
Chọn một số nơi có tình
hình khiếu nại, tố cáo phức tạp, công tác
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
hiệu quả thấp, một số địa
phương vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số,
nhận thức pháp luật của người dân còn
nhiều hạn chế, chú trọng cơ cấu vùng,
miền để tổ chức việc tuyên truyền
với các nội dung như: quyền khiếu nại,
tố cáo của công dân, thủ tục khiếu nại, tố
cáo, việc thi hành quyết định giải quyết
khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo…
ở mỗi tỉnh lấy 5 xã, phường, thị
trấn làm điểm.
đ) Tổ chức tập
huấn cho cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
- Tổ chức tập huấn cho
các cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về kỹ năng, nghiệp vụ tuyên
truyền, phổ biến về pháp luật tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Các cán bộ được
chọn từ các cơ quan của địa phương
như: Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Thanh tra tỉnh,
Thanh tra huyện, đài phát thanh, đài truyền hình
địa phương … để làm nhiệm vụ tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về khiếu
nại, tố cáo cho nhân dân.
- Tại mỗi tỉnh, thành
phố tổ chức 1 Hội nghị tập huấn
về kỹ năng, nghiệp vụ tuyên truyền,
phổ biến về pháp luật.
e) Tổ chức tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và bồi dưỡng
kỹ năng tuyên truyền pháp luật cho cán bộ làm công
tác tiếp dân giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Tổ chức bồi
dưỡng kiến thức pháp luật về tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo cho cán bộ làm
công tác này ở xã, phường, thị trấn.
- Tập huấn về kỹ
năng, nghiệp vụ tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo cho cán bộ làm công tác này ở xã,
phường, thị trấn thông qua hoạt động
nghề nghiệp của họ.
- Tổ
chức theo cụm bồi dưỡng kiến thức pháp
luật về tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và nghiệp vụ, kỹ năng tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo cho cán bộ
Hội Nông dân các cấp để những người này
thông qua hoạt động của mình tuyên truyền,
phổ biến pháp luật cho nhân dân ở địa
phương.
2.
Phương pháp thực hiện Đề án
a) Tổ
chức các hoạt động khảo sát, đánh giá tình
hình thực tiễn để phục vụ việc
triển khai thực hiện Đề án, trong đó chú
trọng khảo sát để xác định nhu cầu tìm
hiểu các quy định pháp luật về tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo của
người dân; nhu cầu tìm hiểu, học tập các quy
định pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ
về tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo; đánh giá năng lực thực hiện công tác
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
của cán bộ ở xã, phường, thị trấn;
đánh giá việc phổ biến, giáo dục pháp luật
qua hoạt động nghề nghiệp của các cán
bộ ở xã, phường, thị trấn để có
cơ sở biên soạn các tài liệu tập huấn,
bồi dưỡng và xây dựng kế hoạch cụ
thể thực hiện Đề án, phù hợp với yêu
cầu thực tế.
b) Chỉ
đạo điểm việc thực hiện Đề
án để rút kinh nghiệm, từ đó triển khai nhân
ra diện rộng.
c)
Thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, thực
hiện chế độ thông tin giữa trung ương và
địa phương trong việc triển khai Đề
án; định kỳ đánh giá tác động, hiệu
quả của việc thực hiện Đề án
đối với việc nâng cao nhận thức, ý thức
pháp luật của cán bộ, nhân dân ở xã, phường,
thị trấn, năng lực của cán bộ làm công tác
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
d) Xây dựng
lực lượng nòng cốt thực hiện Đề
án từ cán bộ làm công tác thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo ở địa phương nhằm
đáp ứng yêu cầu triển khai Đề án trên
phạm vi cả nước.
đ) Thông qua
các hình thức tuyên truyền thích hợp đưa kiến
thức pháp luật về công tác tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo đến với cán bộ,
nhân dân ở xã, phường, thị trấn.
e) Phối
hợp với các chương trình, dự án khác đang
được triển khai tại địa bàn cơ
sở và 3 Đề án khác trong "Chương trình hành
động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp
luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán
bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ
năm 2005 đến năm 2010" được ban hành kèm
theo Quyết định số 212/QĐ-TTg ngày 16 tháng 12
năm 2004 của Chính phủ để triển khai
thực hiện đạt chất lượng, hiệu
quả, tiết kiệm.
V. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Phạm
vi thực hiện Đề án
Đề án được
triển khai thực hiện tại các địa
phương trong cả nước cho các đối
tượng sau:
- Cán bộ
làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo ở xã, phường, thị trấn.
- Nhân dân
ở xã, phường, thị trấn.
2. Tổ
chức điều hành Đề án
- Thanh tra Chính phủ là cơ quan chủ trì Đề án,
tổ chức điều hành, phối hợp, chỉ
đạo, hướng dẫn, kiểm tra các hoạt
động của Đề án trên phạm vi cả
nước.
- Thành lập
Ban Điều hành Đề án do một đồng chí Phó
Tổng Thanh tra làm Trưởng ban, các thành viên là
đại diện lãnh đạo của các Bộ, ngành
tham gia gồm: Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá - Thông tin,
Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt
Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
- Tổ
thư ký giúp việc Ban Điều hành do Trưởng ban
quyết định.
3. Phân công
trách nhiệm.
a) Thanh tra
Chính phủ
- Thành lập
Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án và Tổ
thư ký giúp việc Ban Chỉ đạo thực hiện
Đề án.
- Lập
kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ trong
Đề án, phối hợp với các Bộ, ngành hữu
quan tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
được giao; theo dõi, đôn đốc, tổng
hợp kết quả thực hiện Đề án
để báo cáo với Ban Chỉ đạo Chương
trình hành động.
- Xây dựng
dự toán kinh phí thực hiện Đề án ở cấp
trung ương.
-
Hướng dẫn các địa phương thực
hiện các nhiệm vụ của địa phương
trong nội dung của Đề án.
- Chủ trì,
phối hợp với Bộ Tư pháp, Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung
ương Hội Nông dân Việt Nam xây dựng cơ
chế phối hợp giữa chính quyền và các tổ
chức đoàn thể trong việc phối hợp tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về tiếp dân,
giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố
cáo ở cơ sở.
- Chỉ
đạo Trường bồi dưỡng nghiệp
vụ cán bộ thanh tra phối hợp với các Vụ,
đơn vị chức năng thuộc Bộ Tư pháp
tổ chức việc bồi dưỡng nghiệp
vụ, kỹ năng tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo cho cán bộ làm công tác này ở xã,
phường, thị trấn.
- Chủ trì,
phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá -
Thông tin, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói
Việt Nam xây dựng chương trình tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo trên các báo, đài, phương
tiện thông tin đại chúng.
- Chủ trì,
phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá -
Thông tin, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Trung ương Hội Nông dân Việt
Nam biên soạn các tài liệu hỏi, đáp tìm hiểu pháp
luật về khiếu nại, tố cáo.
- Chịu sự chỉ đạo của Ban Chỉ
đạo Chương trình 212 và phối hợp với các
Bộ, ngành có liên quan gắn việc thực hiện
Đề án do cơ quan chủ trì với việc thực
hiện 3 Đề án khác trong Chương trình theo
Quyết định số 212/QĐ-TTg ngày 16 tháng 12 năm 2004 của Thủ
tướng Chính phủ.
b) Bộ
Văn hoá - Thông tin
- Định
hướng nội dung thông tin, tuyên truyền; phối
hợp với các cơ quan chủ quản báo chí và các
cơ quan hữu quan để tổ chức việc tuyên
truyền pháp luật về tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo tới các vùng miền trong
cả nước, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng
dân tộc ít người, đi lại khó khăn.
- Chỉ
đạo, hướng dẫn các Sở Văn hoá - Thông
tin, các cơ quan báo chí ở địa phương
phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, Sở Tư
pháp, Thanh tra tỉnh để tuyên truyền, phổ
biến các quy định pháp luật về tiếp dân và
giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Chỉ
đạo, hướng dẫn hệ thống thiết
chế thông tin văn hoá ở cơ sở tham gia vào
việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Chịu sự
chỉ đạo của Ban Chỉ đạo
Chương trình 212, phối hợp với Thanh tra Chính
phủ và các Bộ, ngành có liên quan gắn việc thực
hiện Đề án này với việc thực hiện 3
Đề án khác trong Chương trình theo Quyết
định số 212/QĐ-TTg ngày 16 tháng 12 năm 2004
của Thủ tướng Chính phủ.
c) Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam
- Phối
hợp cùng với Thanh tra Chính phủ xây dựng cơ
chế phối hợp giữa các tổ chức đoàn
thể và chính quyền ở xã, phường, thị
trấn trong tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo tại cơ sở.
- Chỉ
đạo, hướng dẫn Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc các cấp, nhất là ở xã, phường,
thị trấn vận động nhân dân thực hiện
các quy định pháp luật về tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
- Tổ
chức thực hiện cơ chế phối hợp
giữa các tổ chức đoàn thể và chính quyền
ở xã, phường, thị trấn để tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo góp phần
giải quyết dứt điểm các tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo phát sinh từ cơ sở,
hạn chế khiếu kiện vượt cấp lên trên.
- Chịu
sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo
Chương trình hành động quốc gia, phối
hợp với Thanh tra Chính phủ và các Bộ, ngành có liên
quan gắn việc thực hiện Đề án này với
việc thực hiện 3 Đề án khác trong Chương
trình theo Quyết định số 212/QĐ-TTg ngày 16 tháng
12 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ.
d) Trung ương Hội Nông dân
Việt Nam:
- Phối
hợp với Thanh tra Chính phủ xây dựng cơ chế
phối hợp giữa Hội nông dân với chính quyền
xã, phường, thị trấn trong việc tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về tiếp dân,
giải quyết các khiếu nại, tố cáo ở cơ
sở.
- Tổ
chức tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ
thuộc Hội Nông dân về pháp luật và kỹ năng,
nghiệp vụ tuyên truyền pháp luật về tiếp
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Chỉ
đạo Hội Nông dân các cấp nhất là ở xã,
phường, thị trấn vận động hội
viên thực hiện các quy định pháp luật về
khiếu nại, tố cáo; chấp hành các quyết
định giải quyết của các cơ quan có thẩm
quyền; tổ chức thực hiện cơ chế
phối hợp về tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo giữa Hội Nông dân với chính
quyền xã, phường, thị trấn.
đ)
Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt
Nam:
- Xây dựng chương trình,
kế hoạch tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo.
- Chủ động tiến hành và
phối hợp với Thanh tra Chính phủ, cơ quan,
tổ chức hữu quan tuyên truyền, phổ biến các
quy định pháp luật về tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo cho cán bộ, nhân dân.
e) Bộ Tư pháp
- Phối hợp, giúp đỡ,
cung cấp các thông tin kịp thời cho Ban Chỉ
đạo Đề án thực hiện đúng nội dung,
mục đích, yêu cầu của Đề án đã
đề ra.
- Giúp Thanh tra
Chính phủ mở các lớp tập huấn nghiệp
vụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo cho
cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật.
- Chỉ
đạo, hướng dẫn Sở Tư pháp phối
hợp với Thanh tra tỉnh tổ chức việc
bồi dưỡng kiến thức pháp luật về
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo cho
cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn.
- Chịu
sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo
Chương trình 212, phối hợp với Thanh tra Chính
phủ và các Bộ, ngành có liên quan gắn việc thực
hiện Đề án này với việc thực hiện 3
Đề án khác trong Chương trình theo Quyết
định số 212/QĐ-TTg ngày 16 tháng 12 năm 2004
của Thủ tướng Chính phủ.
4. Tiến
độ thực hiện Đề án
Việc
thực hiện Đề án được bắt
đầu từ quý IV năm 2005 và kết thúc vào năm
2010, cụ thể như sau:
Giai
đoạn 1: từ quý IV năm 2005 đến tháng 12
năm 2007.
- Chuẩn
bị nội dung của Đề án, lấy ý kiến
của các Bộ, ngành, tổ chức đoàn thể xã
hội có liên quan góp ý vào nội dung của Đề án.
- Thành lập
Ban Chỉ đạo và Tổ thư ký giúp việc thực
hiện Đề án.
- Tiến hành
khảo sát tại một số nơi, làm cơ sở
để hướng dẫn Bộ ngành, Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh triển khai nội dung của Đề án
tại Bộ, ngành, địa phương.
- Tổ
chức tập huấn cho cán bộ làm Đề án của
Bộ, ngành, địa phương về mục đích,
yêu cầu và nội dung của Đề án, việc
triển khai thực hiện Đề án.
- Các Bộ,
ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập kế
hoạch thực hiện Đề án báo cáo với Ban
Chỉ đạo Đề án phê duyệt.
- Xây dựng
cơ chế phối hợp giữa chính quyền với
các tổ chức đoàn thể ở xã, phường,
thị trấn trong việc phối hợp tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
- Tiến hành
sơ kết tại các địa phương về
kết quả thực hiện của Đề án.
- Xây dựng
chuyên mục trên Đài Truyền hình Việt Nam, Đài
Tiếng nói Việt Nam, các chuyên mục thường kỳ
trên các Báo, Tạp chí để thực hiện phổ
biến, tuyên truyền.
- Tiến hành
đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức
pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ tuyên truyền
cho các cán bộ làm công tác tuyên truyền, cán bộ làm công tác
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
ở cơ sở.
- Tiến hành
sơ kết, rút kinh nghiệm kết quả thực
hiện Đề án ở giai đoạn 1, bổ sung,
chỉnh lý các giải pháp thực hiện Đề án cho
phù hợp với thực tế có hiệu quả trong
thời gian tới.
Giai
đoạn 2: từ năm 2008 - năm 2010.
- Tiếp
tục chỉ đạo điểm việc tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ
sở tại một số tỉnh, thành phố có
khiếu nại, tố cáo phức tạp.
- Tiếp
tục phổ biến, tuyên truyền pháp luật trên
Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt
Nam, các Báo, Tạp chí.
- Tiếp
tục đào tạo, bồi dưỡng về kiến
thức pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ tuyên
truyền cho các cán bộ làm công tác tuyên truyền, cán bộ
làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo ở cơ sở.
- Tiến hành
tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện
Đề án.
- Báo cáo
với Ban Chỉ đạo Chương trình hành
động quốc gia về kết quả thực
hiện Đề án.
5. Kinh phí
thực hiện Đề án:
- Do ngân sách
nhà nước cấp (ngân sách trung ương và ngân sách
địa phương).
- Lồng ghép
với kinh phí thường xuyên chi cho việc thực
hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hàng
năm của các Bộ, ngành, địa phương.
Hàng năm, Thanh tra Chính phủ lập
dự toán kinh phí thực hiện công việc thuộc trách
nhiệm của các cơ quan trung ương (phần kinh
phí do trung ương bảo đảm) gửi Bộ Tài
chính để trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt và bố trí vào dự toán ngân sách hàng năm của
Thanh tra Chính phủ; Ủy ban nhân dân địa
phương căn cứ vào hướng dẫn của
cơ quan trung ương và kế hoạch thực hiện
Đề án của địa phương mình, lập
dự toán kinh phí trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt.
VI. ĐỐI TƯỢNG THỤ
HƯỞNG ĐỀ ÁN VÀ
HIỆU QUẢ KINH TẾ - Xà HỘI CỦA ĐỀ ÁN
1.
Đối tượng thụ hưởng
- Đối
tượng thụ hưởng trực tiếp là nhân dân
và các cơ quan, cán bộ làm nhiệm vụ tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và nhân dân ở
xã, phường, thị trấn.
- Đối tượng thụ
hưởng gián tiếp là các cơ quan, cán bộ làm
nhiệm vụ tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo.
2. Hiệu
quả kinh tế - xã hội của Đề án
- Nâng cao
nhận thức của cán bộ và tăng cường
hiệu quả hoạt động của chính quyền,
tổ chức, đoàn thể ở xã, phường,
thị trấn trong tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Qua đó làm cho chất lượng
công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo đạt kết quả tốt hơn.
- Nâng cao
hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng, chấp
hành pháp luật khiếu nại, tố cáo cho nhân dân ở
xã, phường, thị trấn, khắc phục tình
trạng khiếu nại, tố cáo tràn lan, vượt
cấp, giảm bớt lãng phí tiền của, công sức
của người dân và các cơ quan nhà nước, góp
phần giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
- Nâng cao
hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật nói chung và pháp luật khiếu nại, tố cáo nói
riêng, đưa công tác này trở thành một hoạt
động thường xuyên, liên tục.
THỦ
TƯỚNG
Phan Văn
Khải – Đã ký
CHƯƠNG TRÌNH
HÀNH ĐỘNG QUỐC GIA PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT
CHO CÁN BỘ, NHÂN DÂN Ở Xà, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010
ĐỀ ÁN
THỨ TƯ
PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA CƠ QUAN VÀ CÁN BỘ TƯ PHÁP TRONG
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT, NÂNG CAO Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO CÁN
BỘ, NHÂN DÂN Ở Xà, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
(Ban hành kèm theo Quyết
định số 28 /2006/QĐ-TTg
ngày 28 tháng 01 năm 2006 của Thủ tương Chính
phủ)
Cơ quan chủ trì: Bộ Tư pháp.
Cơ quan phối hợp:
- Ban Nội chính Trung
ương;
- Toà án nhân dân tối cao;
- Bộ Công an;
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
Trong những năm qua, các cơ quan tư
pháp đã góp phần tích cực vào việc giữ vững
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, công dân, bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật cho nhân dân, cơ quan và cán bộ tư pháp luôn có vai
trò quan trọng. Bằng sự định hướng giáo
dục pháp luật thông qua hoạt động nghiệp
vụ của cơ quan và cán bộ tư pháp, pháp luật
dần dần đi vào nhận thức của từng
đối tượng một cách cụ thể, sâu
sắc hơn, từ đó hình thành niềm tin pháp luật,
ý thức chấp hành pháp luật. Với lợi thế
đó, các cơ quan và cán bộ tư pháp đã có nhiều
đóng góp trong việc chuyển tải chủ
trương, chính sách của Đảng, phổ biến,
hướng dẫn, giải thích pháp luật tới nhân
dân; hỗ trợ công dân, tổ chức sử dụng công
cụ pháp luật để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình.
Tuy nhiên,
vai trò của các cơ quan và cán bộ tư pháp trong phổ
biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân ở xã,
phường, thị trấn còn nhiều hạn chế:
chưa tích cực, chủ động phổ biến, giáo
dục pháp luật cho nhân dân trong khi thực thi công vụ;
chưa có những hình thức, biện pháp thích hợp
để phát huy tác dụng tuyên truyền, giáo dục pháp
luật khi thực hiện các hoạt động tư
pháp; việc tư vấn, hướng dẫn pháp luật
cho nhân dân ở cơ sở chưa được thực
hiện thường xuyên; nội dung thông tin, phổ
biến pháp luật còn chung chung, chưa đầy
đủ, cụ thể, thiếu sự gắn kết
với hoạt động thi hành pháp luật do đó
chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật cũng như nhu cầu tìm
hiểu pháp luật của cán bộ, nhân dân ở xã,
phường, thị trấn.
Nguyên nhân của những tồn tại trên
đây là do:
- Năng lực, trình độ của
đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp còn
nhiều hạn chế, nhất là đội ngũ cán
bộ tư pháp xã, phường, thị trấn và công an xã
(theo kết quả điều tra, khảo sát, trong
tổng số 9426 cán bộ tư pháp xã, phường,
thị trấn chuyên trách thì số cán bộ có trình
độ văn hoá tốt nghiệp phổ thông trung
học chiếm 54%, tốt nghiệp phổ thông cơ
sở chiếm 34,6%, chưa tốt nghiệp tiểu
học là 1,4%; về chuyên môn, nghiệp vụ: số cán
bộ có trình độ pháp lý từ trung học trở lên
chiếm 18,3%; chưa được đào tạo cơ
bản chiếm 63,8%. Lực lượng công an xã trên toàn
quốc hiện có 112.000 người, nhưng phần
lớn chưa qua đào tạo các bậc học, nhất
là ở các địa phương vùng sâu, vùng xa, miền
núi, biên giới).
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn nói chung, nghiệp vụ phổ biến, giáo
dục pháp luật nói riêng cho cán bộ tư pháp chưa
được quan tâm đúng mức và thực hiện
thường xuyên.
- Trách nhiệm chủ động phổ
biến, giáo dục pháp luật khi thực hiện các
hoạt động nghiệp vụ liên quan đến dân
của cán bộ các cơ quan tư pháp chưa
được xác định cụ thể; phương
thức thực hiện phổ biến, giáo dục pháp
luật qua từng hoạt động tư pháp chưa có
sự nghiên cứu, hướng dẫn thực hiện
một cách đầy đủ.
- Cơ sở vật chất, phương
tiện phục vụ cho công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật chưa đáp ứng với yêu cầu;
chưa có chế độ hỗ trợ cho việc
thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật ở những địa bàn có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn.
- Các hình thức phổ biến, giáo dục
pháp luật còn chậm được khai thác, tìm tòi,
đổi mới cho phù hợp với đặc thù
địa bàn và đối tượng tuyên truyền.
- Chưa có cơ chế phối hợp
cụ thể giữa cơ quan tư pháp và các cơ quan,
tổ chức của hệ thống chính trị cơ
sở xã, phường, thị trấn trong việc phổ
biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân.
Trước yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá
đất nước, xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cần phát
huy hơn nữa vai trò của các cơ quan và cán bộ
tư pháp trong phổ biến pháp luật, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật cho nhân dân. Nâng cao hiệu quả
giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư
pháp là một đòi hỏi khách quan gắn liền với
các yêu cầu và nội dung cải cách tư pháp, qua đó
góp phần nâng cao chất lượng hoạt động
tư pháp, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan và cán
bộ tư pháp. Chính vì vậy, việc xây dựng và
thực hiện Đề án thứ tư "Phát huy vai trò
của cơ quan và cán bộ tư pháp trong phổ biến,
giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị
trấn" trong Chương trình hành động quốc
gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở
xã, phường, thị trấn từ năm 2005
đến năm 2010 ban hành kèm theo Quyết định
số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16 tháng 12 năm 2004 của
Thủ tướng Chính phủ là cần thiết, nhằm
tạo bước phát triển mới trong việc
thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật của các cơ quan và cán bộ tư pháp, qua đó
hỗ trợ tích cực hơn nữa nhu cầu tìm
hiểu pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật trong cán bộ, nhân dân.
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01
năm 2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới đã đề ra nhiều chủ trương
lớn về cải cách tư pháp, trong đó khẳng
định: "Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình
thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông
qua các phiên toà xét xử lưu động và bằng
những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng
cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân".
Vừa qua, Bộ Chính trị đã ban hành
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 và Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về
Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020. Hai Nghị quyết đã đặt ra nhiều
nhiệm vụ mà để thực hiện cần có
sự tham gia của cả bộ máy nhà nước,
của cả hệ thống chính trị, trong đó đòi
hỏi sự cố gắng lớn, bền bỉ của
các cơ quan tư pháp và đội ngũ cán bộ tư
pháp. Đặc biệt, Nghị quyết số 49 đã
đề ra các nhiệm vụ cụ thể về cải
cách tư pháp, trong đó có những nhiệm vụ làm cơ
sở cho việc xác định mục tiêu, nội dung và
các hoạt động của Đề án, đó là một
số nhiệm vụ sau:
- "Từng bước thực hiện
việc công khai hoá các bản án... Xây dựng cơ chế
bảo đảm mọi bản án của Toà án có hiệu
lực pháp luật phải được thi hành";
- "Xác định rõ trách nhiệm của
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và của
cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trong việc thi hành các hình phạt không phải là
hình phạt tù để thực hiện nghiêm túc các bản
án của Toà án";
- "Bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ
trợ tư pháp theo hướng cập nhật các
kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh
tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và
kiến thức thực tiễn, có phẩm chất,
đạo đức trong sạch, dũng cảm
đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa";
- "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân
đối với hoạt động tư pháp.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật; không ngừng nâng cao trình độ
dân trí pháp lý, ý thức sống, làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật cho mọi người dân".
Quán triệt chủ trương của
Đảng về công tác tư pháp và thực hiện
nhiệm vụ được Thủ tướng Chính
phủ giao, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối
hợp với một số Bộ, ngành có liên quan xây
dựng Đề án thứ tư "Phát huy vai trò của
cơ quan và cán bộ tư pháp trong phổ biến, giáo
dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị
trấn" với các nội dung cụ thể như sau:
II. CÁC MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN
1. Mục tiêu chung
Phát huy vai trò của cơ quan và cán bộ
tư pháp trong phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân
ở xã, phường, thị trấn trên cơ sở
tăng cường năng lực phổ biến, giáo
dục pháp luật của cán bộ tư pháp, khai thác
hiệu quả giáo dục pháp luật của các hoạt
động tư pháp qua đó góp phần xây dựng
đội ngũ cán bộ tư pháp đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng
hoạt động của các cơ quan tư pháp.
2. Mục tiêu cụ thể
a) Nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ
phổ biến, giáo dục pháp luật, vận động
nhân dân chấp hành pháp luật của cán bộ các cơ
quan tư pháp.
Đến năm 2010, 100% cán bộ tư pháp
xã, phường, thị trấn được tập
huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật,
nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật.
b) Lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp
luật phù hợp với đặc thù từng loại
hoạt động tư pháp để phát huy tác dụng,
hiệu quả giáo dục pháp luật của các hoạt
động này khi thực hiện ở xã, phường,
thị trấn.
c) Hình thành được cơ chế
phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan tư
pháp và các cơ quan, tổ chức của hệ thống
chính trị ở xã, phường, thị trấn trong
phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã,
phường, thị trấn.
III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN
1. Phát huy vai trò của tư pháp xã,
phường, thị trấn trong công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân thông qua nhiều
hình thức phù hợp và có hiệu quả thiết thực
như tuyên truyền miệng, thông qua câu lạc bộ pháp
luật, hoạt động hoà giải ở cơ sở,
tủ sách pháp luật.
2. Cung cấp thông tin
pháp luật, hướng dẫn, tư vấn pháp luật
miễn phí định kỳ cho các đối tượng
là người nghèo, đối tượng chính sách và
đồng bào dân tộc thiểu số thông qua các trung tâm
tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý.
3. Tổ chức tập huấn về
chuyên môn, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp
luật cho đội ngũ cán bộ tư pháp xã,
phường, trị trấn.
4. Xây dựng cơ chế phối
hợp giữa cơ quan tư pháp và các cơ quan, tổ
chức của hệ thống chính trị cơ sở xã,
phường, thị trấn trong việc tuyên truyền,
phổ biến pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết
pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ,
nhân dân.
5. Nâng cao vai trò của cán bộ tư
pháp, công an xã, phường, thị trấn trong việc tham
mưu cho chính quyền xã, phường, thị trấn
thực hiện nhiệm vụ thi hành bản án, quyết
định của Toà án trong phạm vi thẩm quyền.
6. Thực hiện tuyên truyền,
phổ biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân xã,
phường, thị trấn thông qua các phiên toà xét xử
lưu động và công tác thi hành án trên địa bàn.
IV. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Các hoạt động và biện pháp
thực hiện Đề án
Đề án được thực hiện
thông qua các hoạt động và biện pháp sau:
a) Bồi dưỡng lý luận chính
trị, kiến thức pháp luật và tập huấn,
hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo
dục pháp luật cho cán bộ tư pháp xã, phường,
thị trấn, phường, thị trấn
Biện pháp thực hiện:
- Định kỳ tổ chức tập
huấn cho cán bộ tư pháp xã, phường, thị
trấn.
Cấp trung ương tổ chức một
số lớp bồi dưỡng, tập huấn theo vùng,
miền để rút kinh nghiệm. Các địa
phương tổ chức bồi dưỡng, tập
huấn cho cán bộ tư pháp xã, phường, thị
trấn định kỳ 01 năm/01 lần theo sự
chỉ đạo, hướng dẫn thống nhất của
Bộ Tư pháp về nội dung, chương trình, tài
liệu tập huấn. Kinh phí tổ chức tập
huấn ở địa phương gồm hỗ trợ
của trung ương và kinh phí của địa
phương.
- Cấp trung ương tổ chức các
khoá huấn luyện cho cán bộ tư pháp cấp tỉnh,
giảng viên các trường chính trị tỉnh để
đội ngũ này triển khai việc bồi
dưỡng cho cán bộ tư pháp xã, phường, thị
trấn ở địa phương theo định kỳ.
- Cung cấp cho cán bộ tư pháp xã,
phường, thị trấn các tài liệu về lý
luận chính trị, thông tin pháp luật, tài liệu
hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo
dục pháp luật cụ thể
phù hợp đặc thù từng vùng: thành thị, nông
thôn, miền núi.
- Bộ Tư pháp phối hợp với
cơ quan có liên quan thực hiện kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập của cán bộ tư pháp xã,
phường, thị trấn; xây dựng quy chế,
nội dung kiểm tra; chỉ đạo, hướng
dẫn địa phương tổ chức kiểm tra
đối với cán bộ tư pháp xã, phường,
thị trấn ở địa phương đã qua
tập huấn, bồi dưỡng.
- Các cơ quan chức năng cấp tỉnh
phối hợp với chính quyền xã, phường,
thị trấn tiến hành đánh giá trên thực tế
năng lực tổ chức thực hiện công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa bàn
đối với cán bộ tư pháp xã, phường,
thị trấn, tập trung vào việc xây dựng
đội ngũ tuyên truyền viên; tổ chức các câu
lạc bộ pháp luật; hướng dẫn hoạt
động hoà giải ở cơ sở; khai thác, quản lý,
sử dụng có hiệu quả tủ sách pháp luật; cách
thức lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật
khi thực hiện các hoạt động tư pháp ở
cơ sở.
- Các địa phương bằng hình
thức thích hợp tổ chức các cuộc thi tìm
hiểu pháp luật hoặc các cuộc giao lưu dành cho cán
bộ tư pháp xã, phường, thị trấn để
giúp cán bộ tư pháp nâng cao hiểu biết pháp luật
phục vụ công tác chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm
trong thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật cho nhân dân ở cơ sở.
b) Hướng dẫn cán
bộ tư pháp xã, phường, thị trấn, công an xã
làm tốt vai trò tham mưu cho chính quyền xã,
phường, thị trấn thực hiện nhiệm
vụ thi hành bản án, quyết định của Toà án
trong phạm vi thẩm quyền
Biện pháp thực hiện:
- Cấp trung ương phối hợp
với cấp tỉnh tiến hành đánh giá việc
thực hiện nhiệm vụ thi hành bản án, quyết
định của Toà án thuộc thẩm quyền của
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn để
đề xuất giải pháp cụ thể nâng cao hiệu
quả công tác thi hành án trên địa bàn xã, phường,
thị trấn.
- Bộ Tư pháp, Bộ Công an xây dựng
những nội dung hướng dẫn cụ thể
để cán bộ tư pháp xã, phường, thị
trấn, công an xã thực hiện tốt việc tham mưu
giúp chính quyền xã, phường, thị trấn trong công
tác thi hành án thuộc thẩm quyền xã, phường,
thị trấn theo nhiệm
vụ đã được phân cấp cho cán bộ tư
pháp xã, phường, thị trấn, công an xã và việc
phối hợp giữa cán bộ tư pháp xã,
phường, thị trấn với công an xã trong thực
hiện các hoạt động thi hành án hình sự và dân
sự thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn.
- Các cơ quan chức năng cấp
tỉnh, bằng các hình thức thích hợp (mở lớp
tập huấn, hướng dẫn qua văn bản ...)
tổ chức hướng dẫn cho cán bộ tư pháp
xã, phường, thị trấn, công an xã theo nội dung
đã xác định.
- Ủy ban nhân
dân xã, phường, thị trấn đảm bảo các
điều kiện cần thiết để cán bộ
tư pháp xã, phường, thị trấn, công an xã thực
hiện tốt nhiệm vụ tham mưu giúp chính quyền
xã, phường, thị trấn trong công tác thi hành án
thuộc thẩm quyền xã, phường, thị trấn.
c) Thực hiện phổ biến, giáo
dục pháp luật qua các hoạt động tư pháp
được tiến hành ở xã, phường, thị
trấn
- Cung cấp thông tin pháp luật, hướng
dẫn, tư vấn pháp luật cho nhân dân thông qua các trung
tâm tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý.
Biện pháp thực hiện:
+ Các Trung tâm tư vấn pháp luật, Trợ
giúp pháp lý xây dựng và thực hiện kế hoạch
tổ chức các đợt tư vấn, trợ giúp pháp
luật miễn phí định kỳ cho nhân dân ở cơ
sở, trong đó quan tâm các đối tượng là
người nghèo, đối tượng chính sách,
đồng bào dân tộc thiểu số; tập trung vào
những nội dung pháp luật gắn trực tiếp
đến cuộc sống của người dân,
những vấn đề pháp luật vướng mắc,
nổi cộm tại địa bàn.
+ Ngoài những nội dung pháp luật tư
vấn và trợ giúp trực tiếp cho đối
tượng có nhu cầu, các Trung tâm tư vấn pháp
luật, Trợ giúp pháp lý xác định những nội
dung pháp luật cần thông tin, phổ biến đến
nhân dân để thực hiện tuyên truyền cho nhân dân
tại các buổi tư vấn và trợ giúp định
kỳ.
+ Thông qua cán bộ tư pháp xã, phường,
thị trấn nắm bắt nhu cầu tư vấn và
trợ giúp pháp lý của nhân dân trên địa bàn để
xác định nội dung từng đợt tư vấn,
trợ giúp cho sát hợp. Tăng cường sự
phối hợp giữa các Trung tâm tư vấn pháp
luật, Trợ giúp pháp lý và Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn, các ban, ngành, đoàn thể
xã, phường, thị trấn để tổ chức
có hiệu quả các đợt tư vấn, trợ giúp,
tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân ở
địa phương.
+ Tổ chức các khoá bồi dưỡng
về kiến thức pháp luật, nghiệp vụ phổ
biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ làm công tác
tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý.
+ Hỗ trợ một phần kinh phí cho các
Trung tâm tư vấn pháp luật, Trợ giúp pháp lý
để thực hiện phổ biến, giáo dục pháp
luật cho nhân dân trong các đợt tư vấn, trợ
giúp tại địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có
điều kiện kinh tế xã hội khó khăn.
+ Hỗ trợ tài liệu nghiệp vụ,
tài liệu pháp luật phổ thông cho các trung tâm tư
vấn, các tổ chức trợ giúp pháp lý thực hiện
tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân.
- Thực hiện phổ biến, giáo dục
pháp luật thông qua phiên toà xét xử lưu động.
Biện pháp thực hiện:
+ Các Toà án nhân dân địa phương xây
dựng kế hoạch tổ chức phiên toà xét xử
lưu động tại từng địa bàn, khu
vực, tập trung vào những vấn đề pháp
luật nổi cộm tại địa bàn.
+ Cơ quan Toà án phối hợp chặt
chẽ với chính quyền xã, phường, thị
trấn trong việc thông báo rộng rãi về việc
mở phiên toà xét xử lưu động ở địa
phương để thu hút sự quan tâm và tham dự
của người dân.
+ Toà án nhân dân tối cao xây dựng kế
hoạch, nội dung tập huấn, biên soạn tài
liệu bồi dưỡng về kỹ năng phổ
biến, giáo dục pháp luật thông qua các phiên toà nói chung và
phiên toà xét xử lưu động nói riêng cho thẩm phán,
hội thẩm nhân dân và thư ký toà án.
+ Cấp trung ương hỗ trợ
một phần kinh phí và tài liệu cần thiết
để Toà án nhân dân địa phương thực
hiện phổ biến, giáo dục pháp luật tại phiên
toà xét xử lưu động.
- Thực hiện phổ biến, giáo dục
pháp luật thông qua công tác thi hành án trên địa bàn.
Biện pháp thực hiện:
+ Bộ Công an trực tiếp tổ chức
một số lớp tập huấn và chỉ đạo,
hướng dẫn cơ quan chức năng tập
huấn cho công an xã, phường, thị trấn nghiệp
vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, phương
pháp lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật khi
tiến hành quản lý, giáo dục đối tượng
và trong việc tổ chức quần chúng làm công tác an ninh,
trật tự trên địa bàn quản lý.
+ Bộ Tư pháp chỉ đạo cơ
quan chức năng hướng dẫn cán bộ tư pháp
xã, phường, thị trấn bằng hình thức thích
hợp lồng ghép tuyên truyền pháp luật về thi hành
án dân sự và các quy định pháp luật có liên quan khi
trực tiếp hoặc phối hợp thực hiện các
việc thi hành án dân sự trên địa bàn nhằm nâng cao
ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân nói chung, ý
thức tự nguyện thi hành các bản án, quyết
định dân sự của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật của đối tượng phải thi hành
nói riêng.
+ Hỗ trợ tài liệu pháp luật có liên
quan để cán bộ tư pháp xã, phường, thị
trấn, công an xã thực hiện tuyên truyền, phổ biến
cho nhân dân trên địa bàn khi thực hiện các hoạt
động thi hành án theo nhiệm vụ được phân
cấp.
d) Xây dựng cơ chế phối
hợp giữa cơ quan tư pháp và các cơ quan, tổ
chức của hệ thống chính trị xã,
phường, thị trấn trong việc phổ biến,
giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở cơ
sở
Biện pháp thực hiện:
- Các địa phương kiện toàn, nâng
cao vai trò và tạo điều kiện để Hội
đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật xã, phường, thị trấn
hoạt động có hiệu quả; chỉ đạo
sự phối hợp giữa cơ quan tư pháp
địa phương với các cơ quan, tổ chức
của hệ thống chính trị xã, phường, thị
trấn trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp
luật cho cán bộ, nhân dân ở cơ sở.
- Cấp trung ương xây dựng và
hướng dẫn địa phương triển khai các
mô hình phối hợp cụ thể giữa các cơ quan
tư pháp với các cơ quan, tổ chức của hệ
thống chính trị xã, phường, thị trấn trong
việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật và tổ
chức thi hành pháp luật ở địa phương phù
hợp với đặc thù từng vùng miền: thành
thị, nông thôn, miền núi, trong đó quan tâm xây dựng
cơ chế phối hợp phổ biến, giáo dục
pháp luật thông qua phiên toà xét xử lưu động,
thông qua hoạt động thi hành án dân sự trên
địa bàn; trong quản lý, giáo dục người
chưa thành niên vi phạm pháp luật, người
được hưởng án treo, cải tạo không giam
giữ đang sinh sống tại xã, phường, thị
trấn.
đ) Biên
soạn các tài liệu phục vụ việc nâng cao năng
lực phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ
các cơ quan tư pháp thuộc phạm vi của Đề
án
Bao gồm các tài liệu sau:
- Tài liệu bồi dưỡng về lý
luận chính trị, kiến thức pháp luật cho cán
bộ tư pháp xã, phường, thị trấn, công an xã,
cán bộ làm công tác tư vấn pháp luật, trợ giúp
pháp lý cho nhân dân ở cơ sở.
- Tài liệu hướng dẫn kỹ
năng, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp
luật trong hoạt động chuyên môn cho cán bộ tư
pháp xã, phường, thị trấn, công an xã, thẩm phán,
hội thẩm nhân dân, thư ký toà án, cán bộ làm công tác
tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cho nhân dân ở
cơ sở.
- Tài liệu bồi
dưỡng chuyên đề về công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật cho giảng viên các trường chính
trị cấp tỉnh, các trung tâm giáo dục chính trị
cấp huyện.
- Tài liệu giới thiệu văn bản
pháp luật mới, các tài liệu tham khảo hỗ
trợ cán bộ các cơ quan tư pháp khi tiến hành
phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân ở
cơ sở.
Biện pháp thực hiện:
- Cấp trung ương trực tiếp biên
soạn và cung cấp các tài liệu bồi dưỡng
về lý luận chính trị, kiến thức pháp luật,
hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo
dục pháp luật đến đối tượng
sử dụng. Tài liệu được biên soạn
phải cụ thể, phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ của đối tượng sử
dụng và theo đặc thù từng vùng: thành thị, nông
thôn, miền núi.
- Cấp trung ương biên soạn và hỗ
trợ một số tài liệu tuyên truyền pháp luật,
thông tin pháp luật, tài liệu tham khảo phục vụ
cho hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý,
phổ biến, giáo dục pháp luật qua phiên toà xét xử
lưu động và hoạt động thi hành án ở
địa phương.
- Các địa phương biên soạn các
tài liệu giới thiệu văn bản pháp luật
mới, phổ biến kiến thức pháp luật phổ
thông, tài liệu tham khảo phù hợp với nhu cầu tìm
hiểu pháp luật của nhân dân ở cơ sở,
năng lực của cán bộ các cơ quan tư pháp
ở địa phương mình.
2. Phương pháp thực hiện
Đề án
a) Tổ chức các hoạt động
khảo sát, đánh giá phục vụ việc triển khai
Đề án, trong đó chú trọng khảo sát xác
định nhu cầu tìm hiểu, học tập pháp
luật và nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp
luật của cán bộ các cơ quan tư pháp; đánh giá
năng lực thực hiện công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật của các cơ quan và cán bộ tư
pháp; đánh giá việc phổ biến, giáo dục pháp
luật thông qua các hoạt động tư pháp để
có cơ sở biên soạn các tài liệu tập huấn,
bồi dưỡng và xây dựng kế hoạch thực
hiện Đề án cụ thể, phù hợp với yêu cầu
thực tế.
b) Chỉ
đạo điểm việc thực hiện Đề
án để rút kinh nghiệm nhân ra diện rộng.
c) Thường xuyên hướng dẫn,
kiểm tra, thực hiện chế độ thông tin hai
chiều giữa trung ương và địa phương
trong việc triển khai Đề án; định kỳ
đánh giá tác động, hiệu quả của Đề
án đối với việc nâng cao nhận thức, ý
thức về pháp luật của cán bộ, nhân dân trên
địa bàn; năng lực của cán bộ các cơ quan
tư pháp ...
d) Xây dựng lực lượng nòng cốt
thực hiện Đề án từ cán bộ các cơ quan
tư pháp ở trung ương và địa phương
nhằm đáp ứng yêu cầu triển khai Đề án
trên phạm vi cả nước.
đ) Thông qua các hình thức thích hợp,
đưa kiến thức về công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật vào chương trình đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ ngành của các cơ quan
tư pháp; của các trường và trung tâm giáo dục chính
trị cấp tỉnh, cấp huyện.
e) Phối hợp với các chương
trình, dự án khác đang được triển khai
tại địa bàn cơ sở và 3 Đề án trong "Chương
trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục
pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho
cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ
năm 2005 đến năm 2010" được ban hành kèm
theo Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16 tháng 12
năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ.
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Phạm vi thực hiện Đề án
Đề án được triển khai
thực hiện tại các địa phương trong
cả nước cho các đối tượng sau:
- Cán bộ tư pháp xã, phường, thị
trấn;
- Công an xã;
- Trung tâm tư vấn pháp luật, Trung tâm trợ
giúp pháp lý (bao gồm cả các Chi nhánh và Tổ trợ giúp
pháp lý cấp huyện, xã, phường, thị trấn) và
cán bộ của các tổ chức này khi thực hiện
các hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý cho
nhân dân ở xã, phường, thị trấn;
- Toà án nhân dân, cơ quan thi hành án thực
hiện các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ
gắn với phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân
ở xã, phường, thị trấn (đây vừa là
đối tượng thụ hưởng vừa là
chủ thể thực hiện các nội dung của
Đề án).
2. Tổ chức điều hành Đề
án
- Bộ Tư pháp là cơ quan chủ trì
Đề án, tổ chức điều hành, phối
hợp, chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm
tra các hoạt động của Đề án trên phạm
vi cả nước.
- Thành lập Ban
Điều hành Đề án do Thứ
trưởng Bộ Tư pháp làm Trưởng ban, các thành
viên là đại diện lãnh đạo Ban Nội chính Trung
ương, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Tổ thư ký
giúp việc Ban điều hành do Trưởng ban quyết
định thành lập.
3. Phân công trách
nhiệm
a) Bộ Tư pháp
Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp
với các cơ quan thành viên xây dựng các kế hoạch,
chương trình cụ thể để thực hiện
Đề án theo từng giai đoạn; thống nhất
hành động giữa các cơ quan thành viên; chỉ
đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc
thực hiện Đề án.
Chỉ đạo thực hiện các nội
dung của Đề án có liên quan đến cán bộ
tư pháp xã, phường, thị trấn; các hoạt
động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý;
tổ chức và chỉ đạo tổ chức các
lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ tư
pháp xã, phường, thị trấn, cán bộ làm công tác
tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý; phát huy tác
dụng tuyên truyền, giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động của Hội đồng phối
hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và
hoạt động thi hành án dân sự; đánh giá việc
thực hiện nhiệm vụ thi hành bản án, quyết
định của Toà án trong phạm vi thẩm quyền
của Ủy ban nhân dân các xã, phường, thị
trấn.
b) Ban Nội chính Trung ương
Phối hợp với Bộ Tư pháp và các
cơ quan thành viên chỉ đạo thực hiện các
nội dung của Đề án. Chỉ đạo xây
dựng và hướng dẫn tổ chức thực
hiện cơ chế phối hợp giữa cơ quan
tư pháp và các cơ quan, tổ chức của hệ
thống chính trị xã, phường, thị trấn trong
việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm
nâng cao hiểu biết pháp luật cho cán bộ, nhân dân.
c) Toà án nhân dân tối cao
Chỉ đạo việc tổ chức các
phiên toà xét xử lưu động tại các địa
bàn dân cư; chủ trì và phối hợp với các ngành
tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm việc phổ
biến, giáo dục pháp luật thông qua phiên toà xét xử
lưu động nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục pháp luật của phiên toà lưu động; xây
dựng kế hoạch, nội dung tập huấn, biên
soạn tài liệu bồi dưỡng về kỹ
năng phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các
phiên toà nói chung và phiên toà xét xử lưu động nói
riêng cho thẩm phán, hội thẩm nhân dân và thư ký Toà án.
d) Bộ Công an
Chỉ đạo việc tập huấn,
bồi dưỡng nâng cao năng lực phổ biến,
giáo dục pháp luật, năng lực tham mưu giúp chính
quyền xã, phường, thị trấn trong thi hành các
nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của công an xã; biên
soạn các tài liệu nghiệp vụ cần thiết cho
công an xã; phát huy tác dụng tuyên truyền, giáo dục pháp
luật thông qua hoạt động thi hành án hình sự
ở địa bàn cơ sở.
đ) Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh
Chỉ đạo xây dựng và biên soạn
nội dung bồi dưỡng, tập huấn về lý
luận chính trị và kiến thức pháp luật, phối
hợp với các cơ quan liên quan triển khai bồi
dưỡng đối với cán bộ các cơ quan tư
pháp trong phạm vi của Đề án; tổ chức
bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kiến
thức về công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật cho giảng viên các trường chính trị
tỉnh, các trung tâm giáo dục chính trị huyện trực
tiếp tham gia xây dựng, đào tạo, bồi
dưỡng cho cán bộ tư pháp xã, phường, thị
trấn.
4. Tiến độ thực hiện
Đề án
Việc thực hiện Đề án bắt
đầu từ quý IV năm 2005 và kết thúc vào năm
2010, cụ thể như sau:
Giai đoạn 1: từ quý IV năm 2005
đến hết năm 2007
- Từ quý IV năm 2005 đến
hết năm 2005:
+ Xây dựng các văn bản phục vụ
cho việc quản lý, điều hành và thực hiện
Đề án (quy chế hoạt động của Ban
Điều hành; kế hoạch chi tiết thực hiện
Đề án; các văn bản hướng dẫn, chỉ
đạo triển khai thực hiện Đề án…);
+ Tổ chức hội nghị quán triệt,
triển khai Đề án; tập huấn việc triển
khai Đề án cho lực lượng thực hiện
Đề án ở Trung ương và địa phương.
- Năm 2006:
+ Tiến hành các hoạt động khảo
sát, đánh giá phục vụ việc thực hiện
Đề án.
+ Cấp trung ương chọn 30 xã,
phường, thị trấn thuộc 15 tỉnh ở 3 khu
vực thành thị, nông thôn, miền núi để chỉ
đạo điểm việc thực hiện Đề
án.
+ Thực hiện một số hoạt
động của Đề án như: tập huấn,
bồi dưỡng; biên soạn tài liệu phục vụ
các đối tượng của Đề án; tuyên
truyền, phổ biến pháp luật thông qua phiên toà xét
xử lưu động và hoạt động thi hành án;
nghiên cứu xây dựng quy chế phối hợp giữa
các cơ quan tư pháp và các cơ quan tổ chức của
hệ thống chính trị xã, phường, thị
trấn...
+ Các địa phương xây dựng
kế hoạch và triển khai thực hiện Đề án
theo sự hướng dẫn của Ban Điều hành
Đề án. Mỗi địa phương lựa
chọn một số đơn vị xã, phường,
thị trấn để chỉ đạo điểm.
- Năm 2007:
+ Tiếp tục thực hiện các nội
dung của Đề án trên phạm vi cả nước.
+ Cấp trung
ương mở rộng chỉ đạo điểm
tại 30 xã, phường, thị trấn thuộc 15
tỉnh khác. Đánh giá việc chỉ đạo
điểm để rút kinh nghiệm nhân ra diện
rộng.
+ Quý IV/2007: sơ kết việc thực
hiện Đề án giai đoạn 1 và lập kế
hoạch thực hiện Đề án cho giai đoạn
tiếp theo.
Giai đoạn 2: từ tháng 01 năm
2008 đến hết năm 2010.
Tiếp tục thực hiện Đề án
một cách toàn diện trên phạm vi cả nước.
Tổng kết việc thực hiện Đề án vào
cuối năm 2010.
5. Kinh phí thực hiện Đề án
- Từ ngân sách nhà nước cấp (ngân
sách trung ương và ngân sách địa phương);
- Lồng ghép với kinh phí thường xuyên
chi cho việc thực hiện công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật hàng năm của các Bộ, ngành,
địa phương.
Hàng năm, Bộ Tư pháp lập dự toán
kinh phí thực hiện công việc thuộc trách nhiệm
của các cơ quan trung ương (phần kinh phí do trung
ương bảo đảm) gửi Bộ Tài chính
để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
và bố trí vào dự toán ngân sách hàng năm của Bộ
Tư pháp; Ủy ban nhân dân địa phương căn
cứ vào hướng dẫn của cơ quan trung
ương và kế hoạch thực hiện Đề án
của địa phương mình, lập dự toán kinh
phí trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
VI. ĐỐI TƯỢNG THỤ HƯỞNG VÀ
HIỆU QUẢ
KINH TẾ - Xà HỘI CỦA ĐỀ ÁN
1. Đối tượng thụ
hưởng từ kết quả thực hiện
Đề án
- Đối tượng thụ hưởng
trực tiếp là các cơ quan và cán bộ tư pháp trên
cả nước đang thực hiện các hoạt
động chuyên môn, nghiệp vụ liên quan đến
phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã,
phường, thị trấn.
- Đối tượng thụ hưởng
gián tiếp bao gồm:
+ Cán bộ và nhân dân ở xã, phường,
thị trấn được nâng cao hiểu biết pháp
luật, ý thức chấp hành pháp luật thông qua hoạt
động của các cơ quan và cán bộ tư pháp.
+ Đội ngũ hoà giải viên ở
cơ sở, đội ngũ tuyên truyền viên pháp
luật, giảng viên các trường chính trị tỉnh,
các trung tâm giáo dục chính trị huyện được
nâng cao hiểu biết pháp luật và nghiệp vụ
phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các hoạt
động của Đề án.
2. Hiệu quả về kinh tế, xã
hội của Đề án
- Nâng cao hiệu quả hoạt động
của các cơ quan tư pháp và cán bộ tư pháp, góp
phần củng cố, kiện toàn các cơ quan tư pháp
theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01
năm 2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6
năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
- Nâng cao hiểu biết pháp luật, ý
thức tôn trọng, chấp hành pháp luật cho cán bộ,
nhân dân ở xã, phường, thị trấn, góp phần
vào việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở các địa phương trong cả
nước.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về lĩnh vực tư pháp,
hoạt động của các cơ quan tư pháp, làm cho
hoạt động tư pháp "gần dân" hơn, góp
phần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã
hội tham gia vào công tác tư pháp, tăng cường
sự giám sát của nhân dân đối với công tác tư
pháp, hướng đến xây dựng một nền
tư pháp gần dân và vì dân.
THỦ
TƯỚNG
Phan Văn Khải – Đã ký