Danh mục
|
Tổng đài trực tuyến 19006192
|
|
  • Tổng quan
  • Nội dung
  • Tiêu chuẩn liên quan
  • Lược đồ
  • Tải về
Lưu
Đây là tiện ích dành cho tài khoản Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao . Vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem chi tiết.
Theo dõi VB
Đây là tiện ích dành cho tài khoản Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao . Vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem chi tiết.
Ghi chú
Báo lỗi
In

Tiêu chuẩn TCVN 14452:2025 Thiết bị sân chơi cho tất cả trẻ em - Nguyên tắc chung

Số hiệu: TCVN 14452:2025 Loại văn bản: Tiêu chuẩn Việt Nam
Cơ quan ban hành: Bộ Khoa học và Công nghệ Lĩnh vực: Công nghiệp
Ngày ban hành:
Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành.
20/06/2025
Hiệu lực:
Đã biết
Tiện ích dành cho tài khoản Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao. Vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem chi tiết.
Người ký: Đang cập nhật
Tình trạng hiệu lực:
Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,...
Đã biết
Tiện ích dành cho tài khoản Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao. Vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem chi tiết.

TÓM TẮT TIÊU CHUẨN VIỆT NAM TCVN 14452:2025

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 14452:2025

Tải văn bản tiếng Việt (.pdf) Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 14452:2025 PDF (Bản có dấu đỏ)

Đây là tiện ích dành cho tài khoản thành viên. Vui lòng Đăng nhập để xem chi tiết. Nếu chưa có tài khoản, Đăng ký tại đây!

Tải văn bản tiếng Việt (.doc) Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 14452:2025 DOC (Bản Word)

Đây là tiện ích dành cho tài khoản thành viên. Vui lòng Đăng nhập để xem chi tiết. Nếu chưa có tài khoản, Đăng ký tại đây!

Tình trạng hiệu lực: Đã biết
bgdocquyen
Hiệu lực: Đã biết
Tình trạng hiệu lực: Đã biết

TIÊU CHUẨN QUỐC GIA

TCVN 14452:2025

THIẾT BỊ SÂN CHƠI CHO TẤT CẢ TRẺ EM NGUYÊN TẮC CHUNG

Playground equipment accessible for all children

 

Lời nói đầu

TCVN 14452:2025 tham khảo PD CEN/TR 16467:2013 Playground equipment accessible for all children (Thiết bị sân chơi cho tất cả trẻ em).

TCVN 14452:2025 do Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia TCVN/TC 181 An toàn đồ chơi trẻ em biên soạn, Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam đề nghị, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia thẩm định, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố.

 

Lời giới thiệu

1 Quyền cho tất cả trẻ em

Công ước về Quyền Trẻ Em (Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc) tuyên bố: "Các Quốc gia Thành viên phải tôn trọng và thúc đẩy quyền của trẻ em được tham gia đầy đủ vào đời sống văn hóa và nghệ thuật, đồng thời phải khuyến khích việc cung cấp các cơ hội phù hợp và bình đẳng trong các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, giải trí và vui chơi."

Điều 31 công nhận quyền của trẻ em được tham gia vào hoạt động vui chơi, và Điều 2 nêu rõ rằng không được phân biệt đối xử với trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào, kể cả khuyết tật.

Kể từ khi tiêu chuẩn TCVN 12721 (EN 1176) được công bố, đã có sự ghi nhận rằng cần có thêm hướng dẫn về cách cung cấp các không gian vui chơi thân thiện hơn với trẻ em khuyết tật, đồng thời khuyến khích trẻ em với mọi khả năng có thể vui chơi cùng nhau. Tiêu chuẩn này nhằm mục đích thực hiện điều đó.

Tiêu chuẩn hướng dẫn này không có nghĩa là mọi khu vui chơi đều sẽ phù hợp với mọi trẻ em; nhà cung cấp khu vui chơi có thể gặp phải nhiều hạn chế như ngân sách eo hẹp hoặc giới hạn về không gian. Tuy nhiên, hy vọng rằng bằng cách áp dụng những thông tin được cung cấp, ở một mức độ nào đó, các không gian vui chơi đều có thể cho tất cả trẻ em có thể tiếp cận được.

Tiêu chuẩn này tập trung vào việc cung cấp các khu vui chơi không có người giám sát, đồng thời nhận thức rằng những người chăm sóc khi đưa trẻ đến khu vui chơi sẽ cần tự đánh giá tính phù hợp của các thiết bị tại đó.

Tiêu chuẩn cũng ghi nhận rằng người đưa trẻ đến khu vui chơi cũng có thể là người có khuyết tật, và nếu họ không thể tiếp cận được khu vui chơi thì đứa trẻ không khuyết tật cũng có thể bị từ chối cơ hội được vui chơi.

Chúng ta đều có trách nhiệm về mặt đạo đức và pháp lý trong việc đảm bảo rằng, bất kể khả năng của mình là gì, mỗi đứa trẻ đều có cơ hội phát huy hết tiềm năng của mình. Điều này không đến từ việc tập trung vào những khả năng thấp nhất, mà từ việc mang đến cho mỗi trẻ một mức độ thử thách phù hợp để các em có thể học cách vượt qua, phát triển kỹ năng và tiến tới những thử thách tiếp theo.

Chúng ta cũng nhận thức rằng sẽ luôn có những mâu thuẫn giữa nhu cầu của trẻ em có các mức độ khả năng khác nhau, do đó cần tìm cách quản lý sự mâu thuẫn này. Ưu tiên cần được đặt vào tính bao trùm, và khuyến khích mọi trẻ em đến với nhau thông qua hoạt động vui chơi trong những môi trường vui chơi chất lượng cao.

Lựa chọn thay thế là sự loại trừ - điều này không chỉ sai lầm và không được mong muốn mà, như được nêu trong tài liệu "Able to Play" (Quỹ Kellogg, Hoa Kỳ): "Sự loại trừ này ảnh hưởng đến trẻ em khuyết tật, anh chị em của các em và gia đình của các em. Hơn nữa, nó cũng ảnh hưởng đến tất cả những đứa trẻ khác khi chúng tự đánh giá giá trị lẫn nhau thông qua hoạt động vui chơi - những người đóng góp trong lúc chơi thường được kỳ vọng sẽ tiếp tục đóng góp trong suốt cuộc đời. Quan niệm này được hình thành từ thời thơ ấu và rất khó để thay đổi khi đã trưởng thành. Hậu quả của việc một số trẻ em bị loại khỏi các sân chơi công cộng chính là việc chúng bị loại khỏi quyền lợi chính của trẻ, điều này định hình cách chúng ta tương tác với nhau trong xã hội khi trưởng thành."

2 Sân chơi cho tất cả trẻ em

Thuật ngữ "Sân chơi cho tất cả trẻ em" được sử dụng nhằm nhấn mạnh rằng tiêu chuẩn này không chỉ nói về cách xây dựng khu vui chơi và thiết bị chơi dành riêng trẻ em khuyết tật, mà nhằm cung cấp hướng dẫn về cách thiết kế các không gian và thiết bị chơi trở nên tiếp cận được cho tất cả trẻ em với mọi khả năng khác nhau. Tiêu chuẩn này khẳng định rằng mọi trẻ em đều khác nhau, và một không gian chơi tốt là nơi mang lại cơ hội và thử thách vui chơi cho cả trẻ em khuyết tật và không khuyết tật.

Sân chơi cho tất cả là trẻ em là sân chơi dành cho mọi trẻ em, không chỉ là sân chơi dành riêng cho một nhóm trẻ nhất định, dù có khuyết tật hay không. Trẻ em khuyết tật cũng cần được vui chơi trong môi trường an toàn nhưng không bị giám sát chặt chẽ, cùng với anh chị em và bạn bè của mình. Để đạt được điều đó, trẻ khuyết tật cần được hòa nhập hoàn toàn vào xã hội, và đặc biệt quan trọng là tạo ra cơ hội cho sự hòa nhập này trong những môi trường vui chơi không được thiết kế sẵn và không bị kiểm soát. Trẻ em khuyết tật nên được chào đón và khuyến khích sử dụng các khu vui chơi chung với những trẻ khác. Do đó, điều quan trọng là không đơn giản hóa các khu vui chơi quá mức, và vẫn cần cung cấp những thử thách phù hợp cho những trẻ có khả năng cao. Việc cung cấp môi trường chơi mang tính thử thách cho trẻ khuyết tật cũng quan trọng không kém, nếu không muốn nói là còn quan trọng hơn, vì thường thì các khía cạnh khác trong cuộc sống của các em đã bị giới hạn rất nhiều.

Tiêu chuẩn này không nhằm hạn chế thiết kế, mà hướng tới việc áp dụng các nguyên tắc của Thiết kế cho tất cả (Design for All).

"Thiết kế cho tất cả là thiết kế cho sự đa dạng của con người, sự hòa nhập xã hội và bình đẳng. Cách tiếp cận toàn diện và đổi mới này là một thách thức sáng tạo và đạo đức dành cho tất cả các nhà quy hoạch, thiết kế, doanh nhằn, nhà quản lý và lãnh đạo chính trị.

Thiết kế cho tất cả nhằm cho phép tất cả mọi người có cơ hội bình đẳng để tham gia vào mọi khía cạnh của xã hội. Để đạt được điều này, môi trường xây dựng, đồ vật hàng ngày, dịch vụ, văn hóa và thông tin - nói cách khác, mọi thứ được thiết kế và tạo ra bởi con người để phục vụ con người - cần phải dễ tiếp cận, thuận tiện cho tất cả mọi người sử dụng, và phản ứng linh hoạt với sự đa dạng ngày càng tăng của con người.

Thực hành Thiết kế cho tất cả là việc sử dụng có ý thức việc phân tích các nhu cầu và khát vọng của con người, và yêu cầu sự tham gia của người sử dụng cuối cùng trong mọi giai đoạn của quá trình thiết kế"

(Nguồn: Tuyên bố Stockholm của EIDD, 2004).

Tiêu chuẩn này không hướng tới việc yêu cầu mọi thiết bị chơi phải có khả năng tiếp cận toàn diện, mà tập trung vào việc tạo ra các địa điểm trẻ em có thể chơi cùng nhau, bất kể khả năng của các em. Nếu tham khảo hướng dẫn “Phát triển không gian chơi dễ tiếp cận - Hướng dẫn thực hành tốt” (Văn phòng Phó Thủ tướng, Chính phủ Anh), sẽ thấy:

“Không phải tất cả trẻ em đều cần tiếp cận không gian chơi theo cùng một cách, nhưng tất cả các em đều có quyền cơ bản là được ra ngoài và vui chơi. Thiết kế tốt cho không gian chơi công cộng là cần thiết để điều này trở thành hiện thực. Mỗi trẻ em là một cá thể khác nhau - không phải tất cả các thiết bị trong khu vui chơi đều cần phù hợp với mọi trẻ em, nhưng việc tiếp cận được trải nghiệm xã hội của hoạt động chơi là điều cốt lõi.”

Tiêu chuẩn này không tập trung vào các vấn đề theo từng dạng khuyết tật cụ thể, mà hy vọng sẽ giúp nhận diện những trở ngại trong việc vui chơi đối với bất kỳ trẻ em nào, và suy nghĩ về các cách để vượt qua những trở ngại đó. Tiêu chuẩn cũng nhằm làm rõ các mâu thuẫn giữa vấn đề tiếp cận và các yêu cầu kỹ thuật trong bộ tiêu chuẩn TCVN 12721 (EN 1176).

Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền Trẻ em nêu rõ rằng trẻ khuyết tật có quyền được hòa nhập trong cộng đồng địa phương của mình và được tham gia các hoạt động như những trẻ không khuyết tật. Việc phát triển các khu vui chơi dễ tiếp cận là nhằm giúp tất cả trẻ em có cơ hội được chơi cùng nhau và học hỏi lẫn nhau. Hơn nữa, việc cho phép trẻ em khuyết tật tiếp cận không gian chơi còn giúp các em và gia đình xây dựng các mối quan hệ, mạng lưới trong khu phố, từ đó kết nối cộng đồng và thúc đẩy hòa nhập xã hội. Điều này rất quan trọng, vì trẻ em khuyết tật không muốn phải chơi một mình với thiết bị bị gắn mác “dành cho người khuyết tật” - các em muốn được vui chơi cùng với những người bạn không khuyết tật, anh chị em của mình.

Như lời một cậu bé không khuyết tật từng chia sẻ:

“Con muốn được chơi cùng em trai con. Con cảm thấy buồn khi con được chơi những trò như leo trèo còn em thì không thể. Con thích khi em cũng có thể leo, dù không cao như con, nhưng ít nhất tụi con cùng chơi trên cùng thiết bị, ở cùng sân chơi, và tụi con có thể chơi cùng nhau."Steven, anh trai 12 tuổi của Martin (xem [1])

3 Chi phí

Tài chính cho việc cung cấp không gian chơi dễ tiếp cận thường là một vấn đề, và đôi khi bị dùng như cái cớ để không đầu tư vào khu vui chơi cho tất cả. Tuy nhiên, bất kỳ chi phí gia tăng nào do việc thiết kế khu vui chơi hòa nhập sẽ được giảm đáng kể nếu nhu cầu của mọi trẻ em được xem xét ngay từ giai đoạn thiết kế ban đầu.

Tiêu chuẩn bao gồm các quy định như sau:

- Tỷ lệ và phân loại khuyết tật - Phần này đề cập đến sự phức tạp của các dạng khuyết tật và tầm quan trọng của việc không nên chỉ tập trung vào những nhóm cụ thể, chẳng hạn như người dùng xe lăn, khi phát triển các khu vui chơi mở có thể tiếp cận cho tất cả. Thông tin bổ sung về chủ đề này được trình bày trong Phụ lục A.

- Thử thách và Rủi ro - Cung cấp thông tin về tầm quan trọng của yếu tố thử thách đối với tất cả trẻ em. Việc có khiếm khuyết không nên là rào cản ngăn trẻ phát huy hết tiềm năng của mình thông qua các hoạt động có tính rủi ro, và điều quan trọng là phải kết hợp yếu tố này vào trong thiết kế khu vui chơi.

- Mục tiêu của “sân chơi cho tất cả trẻ em” - Trình bày các mục tiêu chung và những điều cần lưu ý để xây dựng các không gian vui chơi hòa nhập chất lượng.

- Thiết kế và bố trí khu vực chơi - Hướng dẫn về cách thiết kế khu vui chơi tiếp cận hơn cho tất cả trẻ em.

- Thiết bị và các hình thức chơi - Phân tích lựa chọn thiết bị và cung cấp thông tin chung về việc khuyến khích sử dụng đa dạng và hòa nhập trong hoạt động vui chơi.

Nhiều tài liệu đã được tham khảo khi xây dựng tiêu chuẩn hướng dẫn này. Các tài liệu đó có thể cung cấp thêm thông tin hữu ích cho các nhà tổ chức hoặc nhà cung cấp khu vui chơi, do đó các tài liệu này được liệt kê trong phần thư mục tài liệu tham khảo.

Rủi ro chấp nhận được được xác định bằng việc tìm kiếm sự cân bằng tối ưu giữa lý tưởng về sự an toàn tuyệt đối và những yêu cầu thực tế cần được đáp ứng bởi một sản phẩm, quy trình hoặc dịch vụ, bao gồm các yếu tố như: lợi ích cho người sử dụng, tính phù hợp với mục đích sử dụng, hiệu quả chi phí, và quy ước của xã hội có liên quan. Do đó, cần phải liên tục xem xét lại mức độ rủi ro có thể chấp nhận, đặc biệt là khi có sự phát triển về công nghệ và tri thức có thể dẫn đến những cải tiến hợp lý về mặt kinh tế, giúp đạt được mức rủi ro tối thiểu tương thích với việc sử dụng sản phẩm, quy trình hoặc dịch vụ đó.

 

THIẾT BỊ SÂN CHƠI CHO TẤT CẢ TRẺ EM - NGUYÊN TẮC CHUNG

Playground equipment accessible for all children

1 Phạm vi áp dụng

Tiêu chuẩn này quy định các khu vui chơi công cộng có thể tiếp cận tự do và không có người giám sát. Tiêu chuẩn này không áp dụng cho các khu vui chơi mạo hiểm hoặc các không gian vui chơi có sự giám sát. Tiêu chuẩn này đưa ra các quy định cho phép người sử dụng, trong phạm vi tối đa có thể, tiếp cận khu vui chơi và sử dụng thiết bị một cách độc lập mà không cần sự hỗ trợ của người khác.

Tiêu chuẩn này được sử dụng cùng với bộ TCVN 12721 (EN 1176) và cung cấp hướng dẫn cho những người tham gia vào việc thiết kế, cung cấp và quản lý môi trường vui chơi. Mục đích là giúp tạo ra những không gian mang lại cơ hội vui chơi không có giám sát, với mức độ thử thách và rủi ro phù hợp, cho trẻ em có các khả năng khác nhau.

Phạm vi của bộ TCVN 12721 (EN 1176) chỉ bao gồm các yêu cầu an toàn cho thiết bị và bề mặt khu vui chơi. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng tiêu chuẩn này, người ta nhận thấy rằng khái niệm "sân chơi cho tất cả trẻ em" cần được mở rộng ra một bối cảnh rộng hơn, không chỉ dừng lại ở khu vực chơi trực tiếp mà còn phải cung cấp thông tin về môi trường xung quanh, và các vấn đề khác về khả năng tiếp cận và cơ sở vật chất.

2 Thuật ngữ và định nghĩa

Trong tiêu chuẩn này áp dụng các thuật ngữ và định nghĩa sau.

2.1

Sân chơi cho tất cả trẻ em (play for all)

Sân chơi cho trẻ em không phân biệt năng lực thể chất hoặc tinh thần của trẻ

CHÚ THÍCH Có nhiều lý do khác khiến trẻ em có thể bị loại khỏi hoạt động vui chơi (ví dụ như khác biệt về văn hóa và xã hội), tuy nhiên những lý do này không nằm trong phạm vi áp dụng của tiêu chuẩn này.

2.2

Khu vui chơi không có giám sát (unsupervised play areas)

Khu vui chơi không có sự giám sát của nhà cung cấp hoặc người vận hành khu vui chơi.

CHÚ THÍCH 1 Đôi khi trẻ em được người chăm sóc hoặc người hỗ trợ đưa đến khu vui chơi và điều này thường xảy ra hơn với trẻ em khuyết tật. Người chăm sóc hoặc người hỗ trợ thường được đề cập đến trong tiêu chuẩn, nhưng khác biệt hoàn toàn với giám sát do đơn vị cung cấp hoặc vận hành khu vui chơi đảm nhận, như được định nghĩa tại đây.

2.3

Hòa nhập (inclusive)

Thiết bị và không gian vui chơi có thể được sử dụng và tiếp cận bởi nhiều đối tượng người sử dụng với các khả năng khác nhau.

CHÚ THÍCH Tiêu chuẩn BS 7000-6 định nghĩa thiết kế hòa nhập là: "Thiết kế các sản phẩm và/hoặc dịch vụ phổ thông có thể tiếp cận và sử dụng bởi người có nhiều khả năng nhất, trong nhiều tình huống khác nhau nhất mà không cần điều chỉnh hay thiết kế đặc biệt." [6]

2.4

Người chăm sóc/người hỗ trợ (career/assistant)

Người chịu trách nhiệm, có thể là tạm thời, đối với sự an toàn của trẻ em.

CHÚ THÍCH 1: Có thể là:

a) Người chăm sóc không chuyên môn: cha mẹ, ông bà, anh/chị lớn được giao nhiệm vụ trông trẻ, người quen trưởng thành, hoặc một thanh thiếu niên làm bảo mẫu, hoặc

b) Người chăm sóc có chuyên môn: người đã được đào tạo để chịu trách nhiệm về sự an toàn của trẻ em hoặc thanh thiếu niên, ví dụ như giáo viên, người trông trẻ có chứng chỉ, người lãnh đạo trong các tổ chức thanh thiếu niên, hoặc huấn luyện viên thể thao.

3 Tỷ lệ và phân loại khuyết tật

Khuyết tật có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, nhưng điều quan trọng thực sự là cách mà thiết kế sản phẩm, dịch vụ và cơ sở vật chất có thể loại những người có hạn chế hoặc suy giảm chức năng do không tính đến nhu cầu của họ. Phải lưu ý rằng những hạn chế hay suy giảm chức năng này không chỉ xảy ra ở một nhóm nhỏ trong dân số, vì nhiều người trong đời sẽ trải qua một vài hạn chế chức năng, dù là tạm thời hay vĩnh viễn, ở khía cạnh khác của phổ khuyết tật, một số người có khuyết tật rất nghiêm trọng hoặc phức tạp, tuy nhiên đây là những trường hợp hiếm. Xã hội không cần phải thiết kế mọi thứ chỉ cho người sử dụng xe lăn, vì họ chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong cộng đồng người khuyết tật. Ngoài ra còn có những người khuyết tật cảm giác, không thể nghe hoặc nhìn rõ, mặc dù rất ít người trong số này bị mất hoàn toàn thị lực hoặc thính lực, và những người khuyết tật trí tuệ, có thể không có giới hạn thể chất nào nhưng gặp khó khăn trong việc hiểu và tiếp nhận thông tin. Đây chính là nhóm đối tượng sử dụng các sân chơi, và nhu cầu của họ cần được cân nhắc.

Người bị mất thị lực hoặc bất kỳ giác quan nào thường được cho là các giác quan còn lại sẽ trở nên nhạy bén hơn. Điều này không đúng. Thực tế là người đó sẽ học cách sử dụng các giác quan còn lại một cách hiệu quả hơn. Nói cách khác, các giác quan không trở nên nhạy bén hơn, mà con người học cách khai thác thông tin từ những giác quan còn lại thay cho giác quan bị mất.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là không cần cung cấp các phương pháp thay thế để truyền đạt thông tin hoặc tương tác. Trái lại, trên thực tế, điều này còn càng trở nên quan trọng hơn vì trẻ em có khiếm thính hoặc khiếm thị không có "giác quan bù trừ" mạnh hơn, mà chỉ đơn giản lả sử dụng các giác quan còn lại và cần mọi sự hỗ trợ có thể.

Ước tính tại châu Âu, khoảng 5% trẻ em được xem là có khuyết tật. Trong số đó, chỉ khoảng 10% sử dụng xe lăn, và một số trong đó vẫn có thể đi được quãng ngắn bằng các dụng cụ hỗ trợ như gậy hay khung tập đi. Vì vậy, quan điểm cho rằng các cơ sở vật chất có thể tiếp cận là những nơi được thiết kế riêng cho người dùng xe lăn là không đúng. Việc chỉ tập trung vào nhóm thiểu số sử dụng xe lăn có thể làm giảm giá trị vui chơi của sân chơi đến mức khiến trẻ không còn hứng thú sử dụng. Nguyên nhân do sân chơi thiếu thử thách, hoặc bị nhìn nhận là sân chơi dành riêng cho trẻ khuyết tật, điều mà chính các em cũng không mong muốn bị gắn nhãn như vậy.

Việc tạo điều kiện cho trẻ khuyết tật được tiếp cận các khu vui chơi không chỉ giúp chính các em mà còn hỗ trợ gia đình của các em xây dựng các mối quan hệ và mạng lưới trong khu dân cư, qua đó gắn kết cộng đồng và thúc đẩy hòa nhập xã hội.

Thông qua cách tiếp cận lấy con người làm trung tâm, tiêu chuẩn này cung cấp hướng dẫn thiết kế khu vui chơi sao cho có thể tiếp cận và sử dụng được nhiều nhất có thể đối với trẻ em và người lớn. Mục tiêu là đem lại sự bình đẳng về cơ hội cho tất cả mọi người, không tập trung vào khuyết tật mà vào khả năng của trẻ, đồng thời tạo ra những thử thách phù hợp. Tiêu chuẩn cũng thừa nhận rằng một số người lớn đi cùng trẻ em đến sân chơi có thể là người khuyết tật hoặc người cao tuổi, do đó cũng cần có cơ sở vật chất phù hợp để đảm bảo cả họ và trẻ được tiếp cận bình đẳng.

Thông tin thêm về tỷ lệ và phân loại khuyết tật, xem Phụ lục A.

4 Thử thách và rủi ro

Việc tạo ra thử thách cho tất cả trẻ em, bao gồm cả những trẻ khuyết tật, là yếu tố quan trọng trong một môi trường vui chơi tốt. Khi thiết kế một khu vui chơi mở và có thể tiếp cận, cần xem xét đến dải năng lực rộng nhất có thể, bởi vì điều thiết yếu là phải duy trì các mức độ thử thách khác nhau cho mọi đối tượng, từ trẻ có khả năng cao đến trẻ có khả năng thấp hơn, dù sự khác biệt này xuất phát từ độ tuổi, thể chất hay điều kiện tâm thần.

Bộ TCVN 12721 (EN 1176) là bộ tiêu chuẩn dựa trên phương pháp tiếp cận theo nguy cơ, trong đó các yêu cầu được đặt ra nhằm đạt được mức rủi ro chấn thương có thể chấp nhận được, đồng thời cân nhắc đến giá trị và nhu cầu của việc vui chơi đối với sự phát triển của trẻ em.

Trong quá trình vui chơi, trẻ em thường bị thúc đẩy bởi những thử thách, để làm những điều khiến chúng vượt qua giới hạn của bản thân, và điều này giúp chúng hiểu rõ hơn về chính mình thông qua trải nghiệm. Những thử thách này thường gắn liền với cảm giác mạo hiểm, vì luôn có khả năng thành công hoặc thất bại, ngay cả khi xác suất xảy bị thương tích là rất nhỏ.

Thử những điều mới, kiểm tra kỹ năng mới bằng cách vượt qua chướng ngại vật luôn được trẻ cảm nhận là một dạng rủi ro, mặc dù không nhất thiết là rủi ro gây chấn thương. Thử thách nằm ở chỗ hoàn thành một nhiệm vụ cụ thể, dù có thể phải thử nhiều lần và mỗi lần tiến xa hơn một chút. Đây là cách để phát triển toàn diện tiềm năng của bản thân thông qua việc khám phá các kỹ năng mới như tự tin, sức mạnh, giữ thăng bằng và khả năng tự lập.

Thách thức lớn đối với người lớn/nhà thiết kế/người lập kế hoạch sân chơi/đơn vị cung cấp là phải tìm được sự cân bằng hợp lý giữa rủi ro chấn thương có thể chấp nhận được và cần thiết trong mọi sân chơi, với các mức độ thử thách khác nhau phù hợp với sự đa dạng về khả năng của trẻ em. Người lớn có trách nhiệm đảm bảo mọi trẻ em đều có cơ hội trải nghiệm các mức độ thử thách khác nhau với khả năng bị chấn thương tối thiểu, trong một môi trường vui chơi được kiểm soát và quản lý rủi ro, đồng thời luôn ý thức rằng các chấn thương nhẹ là điều có thể xảy ra, đặc biệt là trong các hoạt động mạnh mẽ và sôi nổi, là những yếu tố đặc trưng của trò chơi vận động.

Trẻ em khuyết tật càng cần nhiều cơ hội thử thách hơn, nhưng không nên bị đặt vào tình huống có nguy cơ chấn thương nghiêm trọng vượt quá mức có thể chấp nhận. Một số loại thử thách (chẳng hạn như leo trèo và độ cao - khả năng đưa cơ thể lên cao hơn) không thể đạt được nếu không có rủi ro tai nạn như té ngã. Đây là một phần trong quá trình thử thách mà trẻ cần trải qua để hiểu rõ khả năng bản thân và phát triển các kỹ năng mới, từ đó tăng cường sự tự tin và tính tự lập.

Nhu cầu cung cấp thử thách cho tất cả mọi người, trong khi vẫn đảm bảo mức độ an toàn chấp nhận được, đồng nghĩa với việc không phải tất cả thiết bị vui chơi đều có thể phù hợp cho mọi trẻ em.

Tính chất của thử thách có thể khác nhau tùy theo loại khiếm khuyết hoặc khuyết tật. Nhiều khi, mong muốn bảo vệ quá mức trẻ khuyết tật khỏi rủi ro là không cần thiết, thậm chí có thể phản tác dụng.

Khi tồn tại rủi ro cần thiết, để giảm thiểu sự tiếp xúc với nguy hiểm đối với trẻ khuyết tật, điều quan trọng là phải tăng cường các yếu tố hỗ trợ khả năng "nhận thức rủi ro tốt" và "ra quyết định phù hợp"; mọi rủi ro nên tạo điều kiện cho trẻ có quyền lựa chọn tự do và tự quyết khi quyết định đối mặt với một thử thách nào đó.

5 Mục đích của sân chơi dành cho tất cả trẻ em

Một không gian vui chơi tốt không chỉ đơn thuần là có thiết bị vui chơi; một không gian vui chơi tốt là một môi trường được thiết kế hợp lý với bầu không khí chào đón tất cả trẻ em. Việc bố trí cảnh quan, trồng cây và tạo ra các không gian riêng tư cũng như các khu vực để chạy nhảy quan trọng không kém gì các thiết bị vui chơi. Một khu vực vui chơi tốt sẽ tạo ra một môi trường tổng thể thuận lợi cho việc vui chơi chất lượng đối với trẻ em ở mọi khả năng khác nhau.

Trẻ em được đến sân chơi, dù với điều kiện nào, vẫn tốt hơn là không có cơ hội đến chơi. Nếu không gian vui chơi có thể tiếp cận và thân thiện, nơi tất cả trẻ em đều có thể ở cùng một chỗ, thì điều đó vẫn tốt hơn là không có quyền tiếp cận không gian đó, ngay cả khi một số thiết bị vui chơi không thể sử dụng được đối với một số trẻ em.

Cũng cần lưu ý rằng người chăm sóc trẻ có thể là người khuyết tật và gặp khó khăn trong việc tiếp cận không gian vui chơi. Điều này cũng sẽ hạn chế khả năng tiếp cận của trẻ nếu người chăm sóc không thể hỗ trợ trẻ trong việc sử dụng thiết bị vui chơi.

Một sân chơi thực sự dễ tiếp cận sẽ có nhiều loại thiết bị có thể phục vụ cho nhiều mức độ khả năng khác nhau, vì không thể biết trước được sự đa dạng về khiếm khuyết hay số lượng trẻ em muốn sử dụng thiết bị hiện tại và trong tương lai. Không phải tất cả thiết bị đều sẽ được trẻ em với các khả năng khác nhau sử dụng theo cùng một cách, nhưng điều quan trọng là chúng có thể tiếp cận được nhiều loại thiết bị khác nhau. Một sân chơi tốt và dễ tiếp cận sẽ thu hút trẻ em với mọi mức độ khả năng từ nhiều khu vực khác nhau.

Ngoại lệ đối với điều này là các sân chơi liên kết với hoặc nằm trong các cơ sở chuyên biệt dành cho trẻ em có khuyết tật cụ thể. Những cơ sở như vậy có thể có các thiết bị chuyên dụng hướng đến một loại khuyết tật cụ thể, nhưng cũng sẽ có người hỗ trợ và giám sát để giúp trẻ tiếp cận và sử dụng các thiết bị vui chơi.

Tất cả trẻ em đều cần có khả năng lựa chọn thiết bị vui chơi mà mình muốn sử dụng, ngay cả khi sự lựa chọn đó dẫn đến việc không đạt được mục tiêu, vì một trò chơi chất lượng là trò chơi do chính trẻ điều khiển. Chỉ bằng cách đó, trẻ mới có thể được thử thách và phát triển kỹ năng. Trẻ em cũng có sự khác biệt rất lớn về khả năng, và không thể phân loại chúng một cách cứng nhắc. Nhiều trẻ khuyết tật có nhiều khiếm khuyết cùng lúc, vì vậy việc thiết kế thiết bị vui chơi có thể tiếp cận với tất cả là một thách thức lớn, và chắc chắn không thể có giải pháp “một kiểu phù hợp với tất cả”.

6 Thiết kế/bố trí khu vui chơi

Để có thể chơi trên thiết bị, trẻ khuyết tật cần phải tiếp cận được thiết bị đó. Nếu không có lối tiếp cận dễ dàng thì dù thiết bị có phù hợp hay hấp dẫn đến đâu cũng vô ích đối với trẻ. Điều này có nghĩa là cần phải có các lối đi và đường tiếp cận dành cho tất cả trẻ em.

Sau đây là những yêu cầu để đến được khu vực vui chơi, đi vào bên trong và tiếp cận các thiết bị chính:

Lối đi bằng phẳng từ đường tiếp cận công cộng gần nhất đến và vào khu vui chơi là một lợi thế, không chỉ cho người sử dụng xe lăn mà còn cho xe đẩy trẻ em, các thiết bị hỗ trợ di chuyển khác, người khiếm thị hoặc bất kỳ ai gặp khó khăn khi đi lại hay không vững khi bước đi.

Mọi lối vào, cổng và đường đi/đường dẫn cần đủ rộng để người sử dụng thiết bị hỗ trợ di chuyển có thể đi qua, loại rộng nhất là xe điện hỗ trợ, nên có lối mở thông thoáng ít nhất là 1,2 mét.

Các tuyến đường/lối đi cần được làm từ vật liệu và cấu trúc có thể sử dụng quanh năm. Ví dụ, có có thể không phù hợp vì khi mưa vào mùa đông, nó có thể trở nên lầy lội và không thể đi lại được. Việc lựa chọn cấu trúc và vật liệu cho đường đi nên cân nhắc đến tần suất sử dụng, khí hậu, địa hình, loại đất và điều kiện đất, v.v.

Thiết kế đường đi cũng cần tính đến khả năng của người sử dụng các loại thiết bị như gậy, nạng, xe đẩy, khung tập đi hoặc xe lăn điện. Việc thi công đường đi nên phù hợp với nhu cầu và vật liệu địa phương. Nếu yêu cầu kỹ thuật quá cao có thể khiến một phần lớn ngân sách bị dùng vào việc làm đường thay vì đầu tư cho thiết bị vui chơi.

Các bề mặt cần được lựa chọn cẩn thận vì nó vừa có thể hỗ trợ vừa có thể hạn chế khả năng tiếp cận đến thiết bị. Nếu muốn thiết bị có thể được sử dụng bởi tất cả trẻ em, thì bề mặt phù hợp nên kéo dài đến tận điểm tiếp cận thiết bị. Tuy nhiên, có thể cần thay đổi loại bề mặt để đáp ứng yêu cầu về độ hấp thụ va chạm trong khu vực có nguy cơ va đập của thiết bị. Nếu không có đường tiếp cận cho trẻ hoặc người chăm sóc, trẻ sẽ không thể tiếp cận để thử sử dụng thiết bị.

Bề mặt hấp thụ va chạm thường sử dụng các vật liệu rời hoặc dễ bị phân tán như mùn gỗ hoặc cát. Nếu dùng loại bề mặt này thay vì vật liệu tổng hợp, cần xem xét đến cách bố trí để đảm bảo khả năng tiếp cận phù hợp. Nếu vật liệu rời được giữ trong hố nâng, một số người dùng sẽ bị hạn chế khả năng tiếp cận. Việc thiết kế cấu trúc giữ vật liệu với độ dốc sẽ giúp tiếp cận dễ hơn và tránh nguy cơ vấp ngã cho tất cả mọi người. Ngoài ra, có thể sử dụng bề mặt ổn định hơn để làm lối đi xuyên qua các khu vực có vật liệu rời không ổn định.

Các loại bề mặt an toàn như vỏ cây, cát hoặc thảm có có giá trị vui chơi riêng và không nên bị loại bỏ chỉ vì làm cho việc tiếp cận trở nên khó khăn với một số người. Có thể khắc phục điều này bằng thiết kế tốt hoặc bằng cách cung cấp thêm các cơ hội vui chơi khác, từ đó tạo ra nhiều kích thích đa dạng hơn cho mọi trẻ em.

Một vấn đề khác cần giải quyết là các thiết bị hỗ trợ di chuyển như xe lăn, nạng hoặc gậy bị bỏ lại trong vùng có nguy cơ va chạm của thiết bị vui chơi. Bề mặt hấp thụ va chạm rõ ràng sẽ mất hiệu quả nếu có vật cứng bị bỏ lại. Thiết kế cẩn thận đường đi có thể ngăn điều này xảy ra, ví dụ như sử dụng cát ở khu vực tiếp xúc va chạm vì xe lăn sẽ khó di chuyển qua cát và điều này sẽ giảm khả năng người dùng để lại xe lăn ở đó.

Việc cung cấp các tiện ích ngay cạnh khu vui chơi sẽ giúp chuyến đi đến sân chơi trở nên dễ dàng và thú vị hơn cho trẻ khuyết tật và người chăm sóc. Một trong những lý do chính khiến trẻ khuyết tật không đến khu vui chơi là do người chăm sóc không đưa các em đi. Có chỗ đậu xe gần khu vui chơi và nhà vệ sinh có khu thay đồ sẽ khuyến khích người chăm sóc đưa trẻ khuyết tật đến chơi.

Việc bố trí tầm nhìn mở sẽ giúp người chăm sóc có thể quan sát từ xa mà không cần kiểm soát quá mức hoặc can thiệp không cần thiết. Theo truyền thống thì việc này thường liên quan đến bảo vệ trẻ em và ngăn chặn bắt nạt, nhưng đối với trẻ khuyết tật, điều này còn liên quan đến khả năng sử dụng thiết bị hay mức độ tự chủ của trẻ. Việc giữ cho tầm nhìn luôn thông thoáng trong khu vui chơi giúp người chăm sóc có thể quan sát từ xa, và giữ sự tiếp xúc lỏng lẻo - điều này sẽ thúc đẩy cơ hội vui chơi tốt hơn cho trẻ.

Với tất cả các sân chơi, thời gian một đứa trẻ ở lại khu vui chơi phần lớn được quyết định bởi thời gian mà người lớn đi cùng sẵn sàng ở lại, chứ không phải do mức độ hấp dẫn của thiết bị vui chơi. Việc cung cấp chỗ ngồi cho người lớn có thể tiếp cận được, và khi thích hợp, có mái che (che nắng hoặc mưa), bàn ăn ngoài trời để khuyến khích các nhóm gia đình tụ họp cùng các tiện ích tương tự sẽ mang lại lợi ích cho tất cả người dùng và kéo dài thời gian trẻ vui chơi.

Biển báo luôn là hình thức bảo vệ phụ đối với trẻ em, và khi có vấn đề về an toàn, điều đó nên được xử lý thông qua thiết kế của thiết bị hoặc khu vực thay vì chỉ dựa vào bảng thông báo. Trong những trường hợp cần thiết phải có biển báo, thông tin nên hướng tới người lớn thay vì trẻ em và được đặt ở lối vào khu vui chơi để người dùng nắm được ngay từ đầu. Mặc dù nội dung bảng hiệu nhắm đến người lớn, nhưng vì khu vui chơi hướng đến trẻ em nên nhu cầu của trẻ vẫn là ưu tiên hàng đầu khi cân nhắc những thông tin cần cung cấp cho người dùng hoặc người đi kèm.

Cũng cần lưu ý rằng bảng hiệu hay thông báo thường có ít tác động đến hành vi và đôi khi còn có thể vô tình khuyến khích hành vi bị cấm. Trẻ em có thể không đọc được, không hiểu hoặc không nhận thức được hậu quả của việc không tuân theo hướng dẫn.

Dù ký hiệu hình ảnh (pictogram) có thể giúp truyền đạt thông tin, chúng không phải lúc nào cũng phù hợp và chỉ nên sử dụng các biểu tượng tiêu chuẩn đã được đánh giá kỹ lưỡng.

Hệ thống mã hóa, chẳng hạn như sử dụng hình con vật hoặc màu sắc để chỉ ra mức độ phù hợp của thiết bị với độ tuổi hoặc khả năng cụ thể, cũng có thể được áp dụng. Tuy nhiên, điều này có thể phản tác dụng vì khả năng của từng trẻ rất khác nhau. Trong hầu hết các trường hợp, người chăm sóc sẽ hiểu rõ khả năng của trẻ hơn và là người phù hợp nhất để đưa ra quyết định.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng một số người chăm sóc có thể cho rằng vì đây là khu vui chơi tiếp cận được thì tất cả các thiết bị đều an toàn và phù hợp với trẻ của họ, bất kể khả năng thực tế, và do đó họ không cần giám sát chặt chẽ. Những khu vui chơi không có nhân viên chuyên trách cần có bảng thông báo tại lối vào để nhắc nhở phụ huynh rằng họ có trách nhiệm đảm bảo con mình chỉ sử dụng thiết bị phù hợp với khả năng. Biển báo cũng có thể cung cấp thông tin bằng chữ nổi hoặc xúc giác cho người khiếm thị.

Mặc dù hiện nay người ta nhận thấy rằng việc dựng hàng rào xung quanh khu vui chơi có thể làm giảm cơ hội vui chơi do giới hạn không gian, nhưng vẫn có những trường hợp cần thiết phải rào kín toàn bộ hoặc một phần khu vực nếu có những nguy hiểm như phương tiện giao thông hoặc khu vực nước gần đó.

Việc ngăn trẻ nhỏ chạy khỏi khu vui chơi có thể được thực hiện bằng cách bố trí một số thiết bị được bao quanh bởi hàng rào thấp, với cổng ra vào có cơ chế tự đóng. Với trẻ lớn hơn có khó khăn trong học tập, có thể cần rào chắn phạm vi rộng hơn để tránh trẻ đi lạc.

Nếu khu vui chơi có hàng rào, các điểm ra vào cần đủ rộng (tối thiểu 1,2 mét) để người dùng có xe hỗ trợ di chuyển (cả trẻ em và người lớn) và phụ huynh đẩy xe trẻ em có thể dễ dàng đi qua.

Nước là một yếu tố chơi quan trọng mang đến nhiều cơ hội vui chơi cho trẻ em với khả năng khác nhau. Vui chơi với nước có thể ở dạng vòi phun nước đơn giản, bàn chơi cát và nước, hoặc một vùng nước lớn hơn. Với loại thứ ba, không nên có bờ dốc đứng, hố ngầm hoặc độ sâu đột ngột - vì đây đều là những nguy cơ nguy hiểm. Lối tiếp cận nên là một đoạn dốc nhẹ (< 5°) với đáy vững chắc dưới nước, tạo cảm giác giống như bãi biển để người chăm sóc có thể quan sát và hỗ trợ trẻ khi cần thiết.

Việc khảo sát môi trường địa phương, đặc điểm dân số và tìm hiểu cộng đồng trước khi thiết kế khu vui chơi sẽ rất hữu ích. Ví dụ, khu vực đó có trường chuyên biệt nào không? Trẻ từ những trường đó có thể sẽ sử dụng khu vui chơi, và nhu cầu của họ là gì? Tuy nhiên, cần cẩn trọng để tránh việc "bồi thường quá mức" - vì khu vui chơi vẫn chủ yếu được sử dụng bởi trẻ em với nhiều khả năng khác nhau, ở những khu vực gần các trường chuyên biệt dành cho trẻ có khuyết tật nặng hoặc rất đặc thù, có thể cần một cách tiếp cận riêng biệt, phối hợp với nhà trường, để thực sự tích hợp những trẻ em này vào cộng đồng mà không làm mất đi thử thách dành cho các trẻ khác sẽ sử dụng sân chơi.

7 Thiết bị và các loại trò chơi

7.1 Quy định chung

Một trong những mục đích chính của thiết bị sân chơi là thử thách trẻ em và cho phép chúng phát triển kỹ năng. Điều quan trọng là làm cho sân chơi có thể tiếp cận được với trẻ em khuyết tật, bao gồm cả nhóm nhỏ trẻ em sử dụng xe lăn. Điều này có thể khó thực hiện vì cần có sự cân bằng giữa việc làm thiết bị tiếp cận được, thú vị và thử thách cho trẻ em khuyết tật, đồng thời vẫn giữ được mức độ thử thách cho các trẻ em khác sử dụng thiết bị. Tuy nhiên, việc làm sân chơi tiếp cận được không có nghĩa là làm tất cả các thiết bị chơi trở nên dễ tiếp cận với mọi trẻ em. Thay vào đó, nên có một loạt các thiết bị và vật liệu, trong đó một số thiết bị có thể tiếp cận được với tất cả trẻ em, bao gồm cả người sử dụng xe lăn, trong khi các thiết bị hoặc khu vực khác vẫn tạo ra thử thách cho những trẻ em có khả năng cao hơn và ngăn cản những trẻ em yếu thế tiếp cận với những thử thách mà chúng có thể không đối phó được.

Trong các sân chơi công cộng không có giám sát, việc chọn lựa các thiết bị dành riêng cho một loại khuyết tật có thể gây ra vấn đề. Khuyết tật của trẻ em sử dụng sân chơi sẽ thay đổi theo thời gian và do đó cần có sự linh hoạt. Điều này cũng có thể dẫn đến việc một thiết bị chơi bị gắn nhãn là "đặc biệt" và vi thế không được sử dụng.

Thiết bị tốt nhất có thể được sử dụng bởi nhiều trẻ em, một số thiết bị có giá trị chơi tốt hơn những thiết bị khác (ví dụ, chơi với nước là rất tốt). Dốc cho xe lăn có giá trị chơi hạn chế chỉ cho một số ít trẻ em. Các thiết bị chỉ đáp ứng nhu cầu của một nhóm trẻ em rất cụ thể, chẳng hạn như dốc cho xe lăn, không phải lúc nào cũng phù hợp và có thể gây ra những vấn đề riêng. Những thiết bị này thường có giá trị chơi hạn chế đối với một số ít người sử dụng.

Sự hòa nhập nên càng "vô hình" càng tốt. Ngay cả khi một số thiết bị nhằm kích thích một khả năng cụ thể, cũng nên hấp dẫn với phần lớn người sử dụng khác.

Ví dụ: Một bảng cảm ứng cho trẻ em khiếm thị cũng có thể được thiết kế đầy màu sắc.

Một số sản phẩm có thể được sử dụng theo nhiều cách khác nhau và bởi bất kỳ đứa trẻ nào thông qua thiết kế bao gồm mọi người; sự bao gồm có thể là vô hình, chẳng hạn như một chiếc ghế lớn hỗ trợ cơ thể tốt cho những thiết bị xích đu. Hoặc các hộp cát có hỗ trợ phần thân trên ở mức độ thấp. Tuy nhiên, không phải tất cả thiết bị đều phải tiếp cận được với tất cả mọi người, để đảm bảo thử thách vẫn còn đối với những người sử dụng có khả năng cao nhất.

Cần xem xét các giác quan, như xúc giác, thị giác, thính giác và khứu giác. Mỗi loại trò chơi nên kích thích hai hoặc nhiều giác quan, ví dụ như chuyển động và âm thanh, điều này sẽ tăng cường khả năng tiếp cận cho nhiều người sử dụng hơn. Các bề mặt cảm ứng khác nhau trên mặt đất và trên thiết bị nên được xem xét.

Cần xem xét các chức năng chơi khác nhau như xã hội, thăng bằng, sức mạnh cơ thể trên. Các danh mục sau có thể được sử dụng làm cơ sở để chọn thiết bị cung cấp cơ hội cho nhiều trải nghiệm chơi:

- Khả năng linh hoạt: Tường leo, lưới, bảng lắc;

- Cân bằng: Gậy, cột, các bậc thang;

- Leo: Khung, tường, lưới, dây;

- Bò: Đường hầm, cầu hẹp;

- Treo: Vòng treo / thanh treo trên cao;

- Nhảy: Nhảy từ độ cao thấp hoặc cao, khoảng cách gần hoặc xa;

- Gặp gỡ: Ghế, tảng đá, chỗ trú ẩn, đường hầm;

- Thiết bị bập bênh: Bập bênh truyền thống, bập bênh có lò xo;

- Quay: Tàu lượn, vòng quay, cột quay, đĩa quay;

- Trượt: Xích đu truyền thống, cột cứu hỏa, đường trượt/zip line;

- Tốc độ: Trượt, xích đu;

- Đung đưa: Người sử dụng đơn lẻ, người sử dụng nhiều người;

- Cảm giác: Nước, âm thanh, cát, bùn, có.

Sự lựa chọn các thiết bị cụ thể cung cấp cơ hội chơi là rất đa dạng. Ví dụ, đối với các thiết bị quay, có thể có các tàu lượn ở mức độ thấp với lối vào không có bậc thang dễ dàng tiếp cận và chuyển động nhẹ nhàng, hoặc xích đu tổ chim có thể cho trải nghiệm tốc độ và chuyển động quay đầy kích thích.

Khi chỉ định kích thước, khoảng trống, nguy cơ bị mắc kẹt hoặc vướng víu, bộ tiêu chuẩn TCVN 12721 (EN 1176) thường xem xét các đặc điểm nhân trắc học và sinh lý học của trẻ em không khuyết tật, vì đây là dữ liệu duy nhất thường có sẵn cho họ (ví dụ như Childata, DTI UK). Tuy nhiên, một số trẻ em khuyết tật cần đội mũ bảo vệ đầu có lớp đệm, điều này làm tăng kích thước đầu của chúng và do đó có thể tạo ra nguy cơ bị mắc kẹt mà sẽ không xảy ra nếu không đội mũ. Đây là vấn đề tương tự như khi trẻ em đội mũ bảo hiểm khi sử dụng thiết bị chơi. Trẻ em, hoặc ít nhất là cha mẹ của chúng, được khuyến cáo không nên đội mũ bảo hiểm khi sử dụng thiết bị (xem [7]), nhưng đối với những đứa trẻ cần mũ bảo vệ đầu để bảo vệ trong suốt thời gian, ví dụ như chúng bị động kinh và có thể ngã và đập đầu bất kỳ lúc nào, đây không phải là một lựa chọn.

Tham khảo EN 1080 đối với mũ bảo hiểm phù hợp tiêu chuẩn này là an toàn khi sử dụng trong lúc chơi.

Cũng có nguy cơ bị mắc kẹt đối với trẻ em sử dụng các dụng cụ hỗ trợ chân ngoài như nẹp chân, do chúng có thể bị mắc vào các phần nhô ra của thiết bị. Điều này cũng có thể gây nguy hiểm cho những trẻ khác, ví dụ như khi xuống cầu trượt mà vẫn còn trẻ khác ở dưới chân cầu trượt. Việc bị va phải một trẻ mang nẹp chân có thể gây ra chấn thương nghiêm trọng.

Không có vấn đề nào là không thể vượt qua, miễn là được xem xét và có thể ảnh hưởng đến thiết kế của các thiết bị chơi cụ thể.

Dưới đây là một số thông tin chung liên quan đến các phần khác nhau của bộ tiêu chuẩn TCVN 12721 (EN 1176): mục đích nhằm cung cấp hướng dẫn về cách áp dụng một số loại trò chơi trong bộ tiêu chuẩn TCVN 12721 (EN 1176) theo cách bao quát hơn.

7.2 Quy định chung -TCVN 12721-1 (EN 1176-1)

Dưới đây là một số khuyến nghị để làm cho các thiết bị chơi chung trở nên dễ tiếp cận và hòa nhập hơn:

Cung cấp sự hỗ trợ cơ thể nhiều hơn và thêm các vị trí tay cầm, cũng như nhiều cơ hội để ngồi và nghỉ ngơi trong các cấu trúc chơi. Cân nhắc việc tách biệt các phần rất hoạt động của cấu trúc chơi, có thể gây khó khăn cho một số trẻ em, khỏi các phần dễ tiếp cận hơn. Các mái che là rất quan trọng để cung cấp sự bảo vệ khỏi mưa và nắng (nhưng không nên dễ leo trèo). Các bề mặt sàn rộng hơn trên thiết bị sẽ giúp đỡ cho những người chăm sóc trẻ em. Nếu thiết kế một tháp, hãy xem xét không gian bên dưới nền tảng của tháp, để trò chơi có thể diễn ra cả trên và dưới, tùy thuộc vào khả năng của trẻ.

Bao gồm các lối thoát hiểm và các khả năng ra ngoài thay thế trên các cấu trúc chơi, để nếu một đứa trẻ thử một hoạt động và cảm thấy quá khó khăn, chúng có thể dễ dàng lùi lại, cố gắng cung cấp một loạt các loại truy cập với các hoạt động thử thách dần dần, chẳng hạn như cầu thang với sự hỗ trợ tay tốt ở một vị trí và một sợi dây leo ở một vị trí khác. Các loại truy cập thử thách dần dần này giúp làm cho các cấu trúc chơi trở nên hòa nhập hơn.

Các đường nhìn rõ ràng cho những người chăm sóc sẽ giúp giám sát từ xa tốt hơn, cho phép người chăm sóc để trẻ em chơi tự do, đồng thời tạo sự tự tin và cảm giác an toàn cho trẻ. Đối với các rào chắn trên lối đi và bệ sàn, tốt hơn hết là cung cấp một cấu trúc mở dễ nhìn để người chăm sóc có thể thấy trẻ, và trẻ có thể thấy người chăm sóc. Để hỗ trợ điều này thêm, các lối đi trên mặt đất không nên quá cao, để người chăm sóc có thể với tay đến trẻ nếu cần. Cũng nên cân nhắc cung cấp các chỗ qua lại rộng hơn trên các cầu dài và lối đi. Các nguy cơ vấp ngã nên luôn được giảm thiểu, nhưng cần đặc biệt chú ý đến sự chuyển tiếp giữa các bề mặt cho trẻ em không vững trên chân hoặc bị suy giảm thị lực.

Có thể cung cấp các biển chỉ dẫn thông tin xúc giác cho những người khiếm thị. Thêm vào đó, cố gắng xem xét tất cả các giác quan và cho phép ít nhất sự kết hợp của hai giác quan được sử dụng. Điều này có thể đạt được bằng cách cung cấp các bề mặt xúc giác, kích thích âm thanh, sử dụng màu sắc và chuyển động/rung động.

Cân nhắc hậu quả của việc chồng chéo không gian rơi giữa các vật dụng. Mặc dù điều này được phép đối với một số vật dụng trong bộ tiêu chuẩn TCVN 12721 (EN 1176), khi tạo ra một khu vực chơi dễ tiếp cận hơn, việc cung cấp không gian giữa các đồ chơi là quan trọng hơn để đảm bảo lưu thông tốt, người chăm sóc, phương tiện di chuyển, v.v.

Một số trẻ em có khuyết tật có kích thước đầu lớn hơn hoặc cần phải đội mũ bảo hiểm. Điều này cần được xem xét khi thiết kế các lối mở và cách trẻ có thể sử dụng chúng.

Cung cấp quyền truy cập cho trẻ em khuyết tật cũng có thể cung cấp quyền truy cập dễ dàng cho trẻ em rất nhỏ, trong trường hợp này, các yêu cầu về việc dễ tiếp cận nên được tuân thủ. Có thể có nguy cơ tăng cao từ các vật cứng trong không gian rơi như các dụng cụ đi lại và xe lăn.

Các tình huống di chuyển ép buộc cần được xem xét kỹ lưỡng. Một số trẻ em khuyết tật có thể mất nhiều thời gian hơn để ra khỏi khu vực va chạm ở cuối hành trình di chuyển ép buộc, ví dụ như việc trượt xuống. Nguy cơ tiềm ẩn này có thể được giảm bớt bằng cách cung cấp các đường nhìn rõ ràng giữa điểm bắt đầu và điểm kết thúc của các khu vực di chuyển ép buộc.

Cân nhắc kỹ lưỡng tải trọng cấu trúc. Các cấu trúc mạnh hơn có thể được yêu cầu để chịu tải trọng lớn hơn từ các phương tiện di chuyển và người chăm sóc người lớn. Các tính toán tải trọng trong bộ tiêu chuẩn TCVN 12721 (EN 1176) được tính toán dựa trên một đứa trẻ 14 tuổi và có thể cần được tăng lên nếu các cấu trúc được sử dụng nhiều hơn bởi người lớn và những người sử dụng phương tiện di chuyển nặng hơn.

7.3 Xích đu-TCVN 12721-2 (EN 1176-2)

Dưới đây là một số khuyến nghị để làm cho hoạt động chơi xích đu trở nên dễ tiếp cận và hòa nhập hơn:

Cân nhắc sử dụng ghế xích đu và bệ xích đu lớn hơn, giúp hỗ trợ cơ thể tốt hơn và đôi khi có thể đủ chỗ cho cả người chăm sóc cùng ngồi với trẻ. Xích đu không chỉ tạo ra chuyển động đung đưa nhẹ nhàng mà còn có thể mang lại trò chơi năng động hơn, khiến nó trở thành một thiết bị chơi hòa nhập rất tốt.

Vì xích đu là hoạt động chuyển động cưỡng bức, nên cần chú ý đến không gian xung quanh xích đu để cảnh báo trẻ em về nguy cơ khi đi vào khu vực có vật chuyển động. Ngoài ra, các bệ xích đu lớn hơn có thể tạo ra lực va chạm cao hơn so với ghế ngồi nhỏ.

Nếu sử dụng các ghế hoặc bệ xích đu lớn hơn, cần đảm bảo có hệ thống hỗ trợ cơ thể và an toàn tốt để ngăn người sử dụng vô tình bị ngã khỏi ghế trong khi chơi.

7.4 Trượt-TCVN 12721-3 (EN 1176-3)

Dưới đây là một số khuyến nghị để làm cho hoạt động trượt trở nên dễ tiếp cận và hòa nhập hơn:

Trượt là một hình thức chuyển động cưỡng bức, vì vậy cần xem xét không gian xung quanh phần cuối đường trượt (runout), nơi người chơi có thể rời khỏi đường trượt với tốc độ cao. Có thể sử dụng một loại bề mặt có kết cấu khác biệt để cảnh báo người chơi rằng họ đang bước vào khu vực có chuyển động cưỡng bức.

Hình dạng của đường trượt ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng tiếp cận. Thành trượt cao hơn để tăng cường bảo vệ bên hông là một lợi thế. Ngoài ra, nên thiết kế đường trượt cho phép người chăm sóc và người sử dụng trượt song song, giúp người chăm sóc có thể hỗ trợ thêm. Các đường trượt rộng phù hợp cho hai người chơi cùng lúc, nhưng với sự hỗ trợ bên hông ít hơn, người chơi đơn có thể cảm thấy không đủ an toàn. Việc thêm một vách ngăn ở giữa đường trượt rộng có thể cải thiện khả năng hỗ trợ.

Cần cung cấp đủ không gian và điểm tựa chắc chắn ở khu vực bắt đầu trượt cho cả người chăm sóc và người chơi. Với các đường trượt có gắn vào thiết bị khác, thanh chắn ngang nên được đặt ở vị trí cao nhất để tránh cản trở. Vùng ra dài hơn sẽ giúp người chơi dừng lại một cách tự nhiên trên đường trượt. Phải cân nhắc loại lối vào được sử dụng, các đường trượt từ sườn đồi (embankment slides) có thể dễ tiếp cận nếu có thêm đoạn dốc thoải và tay vịn tốt.

Người dùng xe lăn sẽ cần rời khỏi xe để sử dụng đường trượt, vì vậy cần xem xét việc di chuyển xe lăn từ điểm bắt đầu đến điểm kết thúc một cách dễ dàng, cũng như việc người chơi sẽ chuyển từ xe lăn sang đường trượt ở cả hai đầu như thế nào.

Việc người chơi có thể nhìn thấy điểm kết thúc của đường trượt ngay từ điểm bắt đầu là rất quan trọng, để đảm bảo rằng không có ai ở khu vực đó trước khi trượt xuống. Với các đường trượt dài, cần lưu ý đến tốc độ trượt - có thể rất nhanh và gây khó chịu cho một số người chơi. Một góc nghiêng nhẹ hơn sẽ giúp giảm tốc độ. Ngoài ra, những thay đổi hướng trên đoạn trượt không nên quá đột ngột để đảm bảo hỗ trợ tốt ở hai bên và người chơi có thể giữ kiểm soát cơ thể tốt hơn.

7.5 Cáp treo - TCVN 12721 -4 (EN 1176-4)

Cáp treo (cableway) có một chuyển động cưỡng bức kéo dài. Loại ghế phù hợp nhất cho thiết bị này trong các sân chơi không có người giám sát là ghế đơn nhỏ dành cho một người, được trang bị khả năng hấp thụ va đập tốt ở mọi phía. Vì vậy, người chơi cần có khả năng kiểm soát cơ thể tốt và lực tay mạnh để tham gia hoạt động này.

Có thể tích hợp ghế hỗ trợ nhiều hơn, nhưng cần cân nhắc rất cẩn thận về nguy cơ đối với những người chơi khác có thể bị ghế va trúng. Do đặc điểm chuyển động cưỡng bức kéo dài của cáp treo, cần thực hiện các biện pháp giảm thiểu rủi ro cho người chơi ở gần khu vực cáp trượt, ví dụ như đặt cáp trượt ở rìa khu vực vui chơi và/hoặc sử dụng loại bề mặt khác biệt để cảnh báo người chơi về khu vực nguy hiểm.

7.6 Vòng quay ngựa gỗ - TCVN 12721-5 (EN 1176-5)

Dưới đây là một số khuyến nghị để làm cho trò chơi vòng quay ngựa gỗ trở nên dễ tiếp cận và hòa nhập hơn.

Vòng quay ngựa gỗ có nhiều loại thiết kế khác nhau. Các vòng quay ngựa gỗ theo yêu cầu người chơi phải có sức mạnh phần thân trên tốt; trong khi đó, các vòng quay ngựa gỗ thấp với bề mặt sàn rộng hơn sẽ dễ tiếp cận hơn và có đủ không gian cho cả người chơi và người chăm sóc. Có thể lắp thêm chỗ ngồi và tay vịn để tăng khả năng hỗ trợ cơ thể.

Các vòng quay ngựa gỗ bằng phẳng với mặt đất sẽ giúp việc tiếp cận dễ dàng hơn nữa, và có thể phù hợp với người sử dụng xe lăn. Nếu có hỗ trợ tiếp cận bằng xe lăn, cần đảm bảo xe lăn có thể được cố định an toàn trong suốt quá trình chơi. Đồng thời, để đảm bảo tính hòa nhập, cần bố trí đủ không gian cho tất cả người chơi, không chỉ riêng người dùng xe lăn.

Cần xem xét cách thức vận hành và dừng vòng quay ngựa gỗ. Đề khuyến khích trò chơi tự chủ, lý tưởng là người chơi có thể tự điều khiển việc xoay vòng, tăng cảm giác kiểm soát và tự do khi chơi.

7.7 Thiết bị bập bênh - TCVN 12721 -6 (EN 1176-6)

Dưới đây là một số khuyến nghị để làm cho thiết bị chơi bập bênh trở nên dễ tiếp cận và hòa nhập hơn.

Các thiết bị chơi này có thể được làm dễ tiếp cận hơn bằng cách tích hợp ghế ngồi có hỗ trợ tốt hơn và bổ sung thêm các vị trí tay cầm để người chơi dễ giữ thăng bằng và an toàn hơn. Đồng thời, cần xem xét cách để người chơi có thể dễ dàng tiếp cận và ngồi vào vị trí chơi.

Một số thiết bị bập bênh có thể thiết kế với chuyển động linh hoạt, từ nhẹ nhàng đến chuyển động nhanh, giúp phù hợp với trẻ em có nhiều mức độ khả năng khác nhau, từ đó tăng tính hòa nhập trong vui chơi.

7.8 Mạng không gian-TCVN 12721-11 (EN 1176-11)

Dưới đây là một số khuyến nghị để làm cho mạng không gian trở nên dễ tiếp cận và hòa nhập hơn.

Mạng không gian có thiết kế rất linh hoạt và có thể cung cấp nhiều mức độ thử thách khác nhau cho người chơi. Việc bắt đầu từ điểm thấp sẽ giúp việc tiếp cận dễ dàng hơn, và nên thiết kế lộ trình di chuyển có kiểm soát từ các khu vực dễ tiếp cận đến các khu vực thử thách hơn trong mạng không gian.

Cần bố trí các khu vực trong mạng không gian cho phép người chơi nghỉ ngơi, đồng thời sử dụng lưới có mật độ mắt lưới phù hợp để cung cấp nhiều vị trí bám tay và đặt chân, điều này sẽ hỗ trợ rất nhiều cho người chơi có khả năng vận động hạn chế.

Ngoài ra, người chăm sóc có thể cần sử dụng mạng không gian để hỗ trợ trẻ em. Do đó thiết kế cần xem xét vấn đề này.

 

Phụ lục A

(tham khảo)

Tỷ lệ và phân loại khuyết tật, thông tin bổ sung

A.1  Quy định chung

Khuyết tật đã được định nghĩa và phân loại theo nhiều cách khác nhau qua các thời kỳ, nhưng thường không đạt được hiệu quả. Hơn nữa, nhiều cá nhân có sự kết hợp của nhiều dạng suy giảm khác nhau, khiến việc xếp họ vào một nhóm cụ thể trở nên khó khăn. Cách tiếp cận tiến bộ hiện nay là xem xét từng cá nhân trong bối cảnh môi trường sống của họ. Việc phân loại một người chỉ dựa trên chẩn đoán y khoa là không còn phù hợp; thay vào đó, cần nhìn xa hơn để xem họ có thể làm được gì và xã hội có thể làm gì để hỗ trợ họ tham gia một cách đầy đủ theo đúng khả năng của mình.

A.2  Mô hình xã hội về khuyết tật

Mô hình xã hội về khuyết tật cho rằng các rào cản hệ thống, thái độ tiêu cực và sự loại trừ từ xã hội (có thể cố ý hoặc vô tình) mới là những yếu tố quyết định cuối cùng ai được coi là "người khuyết tật" trong một xã hội nhất định. Mô hình này thừa nhận rằng một số người có những khác biệt về thể chất, cảm giác, trí tuệ hoặc tâm lý, và những khác biệt này đôi khi có thể gây ra hạn chế chức năng cá nhân hoặc sự suy giảm. Tuy nhiên, những điều đó không nhất thiết phải dẫn đến khuyết tật, trừ khi xã hội không công nhận và không bao gồm những người có sự khác biệt cá nhân trong thiết kế và cấu trúc của mình.

Mô hình xã hội không phủ nhận rằng những khác biệt cá nhân có thể gây ra những hạn chế hoặc suy giảm, mà nhấn mạnh rằng chính xã hội mới là nguyên nhân khiến người đó bị loại trừ hoặc bị hạn chế tham gia.

Mô hình này thường dựa trên sự phân biệt giữa hai khái niệm: "khiếm khuyết" (impairment) và "khuyết tật" (disability). Khiếm khuyết dùng để chỉ các thuộc tính thực thể (hoặc sự mất đi các thuộc tính) của một người - bao gồm tay chân, cơ quan, hoặc cả về mặt tâm lý. Khuyết tật lại được hiểu là những hạn chế mà xã hội tạo ra khi không dành sự chủ ý và hỗ trợ tương đương cho nhu cầu của những người có khiếm khuyết.

Một phương pháp khác để xem xét khuyết tật là theo Hệ thống Phân loại Quốc tế về Chức năng, Khuyết tật và Sức khỏe (ICF). ICF đem đến một góc nhìn mới về khái niệm "sức khỏe" và "khuyết tật". Hệ thống công nhận rằng bất kỳ ai cũng có thể trải qua tình trạng suy giảm sức khỏe và vì thế có thể gặp phải một mức độ khuyết tật nhất định. Như vậy, khuyết tật không còn là điều chỉ xảy ra với một thiểu số, mà là một trải nghiệm phổ quát trong cuộc sống con người.

ICF chuyển trọng tâm từ nguyên nhân sang tác động, từ đó đặt mọi tình trạng sức khỏe trên một mặt bằng chung để có thể so sánh bằng một thước đo duy nhất, đó là thước đo về sức khỏe và khuyết tật. ICF cũng đưa yếu tố xã hội vào xem xét, không còn coi khuyết tật chỉ là vấn đề "y học" hay "sinh học". Thêm vào đó, hệ thống này cho phép ghi nhận tác động của môi trường lên khả năng hoạt động của một người thông qua các yếu tố bối cảnh, trong đó có yếu tố môi trường.

Một cách tiếp cận rất hữu ích khác là hệ thống AMAS, hệ thống so khớp hoạt động và khả năng
(Activity Matching Ability System), được phát triển tại Đại học Loughborough (Vương quốc Anh), nhằm khớp khả năng của người lao động với các yêu cầu công việc cụ thể. Hệ thống này xác định mức độ yêu cầu của một hoạt động (ví dụ: đứng - không cần, cần ít, cần nhiều), và liệu cá nhân có thể thực hiện hành vi đó hay không, từ đó đánh giá sự phù hợp giữa khả năng và công việc.

AMAS tập trung vào khả năng tổng thể để thực hiện công việc - tức là "có thể làm được hay không", chứ không phải làm tốt đến mức nào. Hệ thống dựa trên nguyên lý công thái học (ergonomics), nhằm tạo ra các giải pháp công việc phù hợp bằng cách đảm bảo sự hài hòa giữa người lao động, công việc, thiết bị và môi trường làm việc.

Người ta cho rằng AMAS có thể được điều chỉnh để áp dụng vào việc lựa chọn thiết bị chơi cho trẻ em. Ví dụ: thiết bị đó có yêu cầu trẻ phải giữ thăng bằng, có sức mạnh phần thân trên, hay cần khả năng quan sát hay không? Mặc dù còn cần nhiều nghiên cứu, nhưng hệ thống này có thể trở thành công cụ hữu ích để đề xuất những thiết bị phù hợp với các mức độ năng lực khác nhau của trẻ, đồng thời giúp xác định thiết bị nào trong khu vui chơi nên tiếp cận được với từng trẻ cụ thể. Phương pháp tiếp cận này cũng phù hợp khi xem xét năng lực theo độ tuổi, vì trẻ nhỏ thường kém hơn trẻ lớn về sức mạnh, tầm với, thăng bằng, khả năng đọc hiểu, v.v.

Phương pháp lấy người làm trung tâm được áp dụng trong tiêu chuẩn này nhằm giúp thiết kế các cơ sở vui chơi sao cho có thể tiếp cận và sử dụng được bởi càng nhiều trẻ em và người lớn càng tốt. Giống như mô hình xã hội về khuyết tật, phương pháp cơ bản của nó tập trung vào bình đẳng cơ hội và cố gắng không nhìn vào khuyết tật hay khiếm khuyết, mà thay vào đó là nhìn vào những việc trẻ em có thể làm và khả năng của chúng, bất kể là gì, có thể được thử thách như thế nào. Phương pháp cũng lưu ý rằng một số người lớn đi cùng trẻ em đến sân chơi có thể bị khuyết tật hoặc cao tuổi, và vì vậy cần các cơ sở tiếp cận để đảm bảo rằng họ và những đứa trẻ mà họ chăm sóc có thể tiếp cận được.

A.3  Số lượng trẻ em khuyết tật

Khi xem xét các vấn đề về tiếp cận, có xu hướng tập trung vào việc tiếp cận của những người sử dụng xe lăn, trong khi thực tế những người sử dụng xe lăn, và đặc biệt là những người hoàn toàn phụ thuộc vào chúng, thực sự chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, có thể chỉ khoảng 0,5% trẻ em.

Rất khó để có được số liệu về số lượng trẻ em khuyết tật ở Châu Âu và còn khó hơn để xác định có bao nhiêu trẻ em trong số đó sử dụng xe lăn, dù là thỉnh thoảng hay suốt cả thời gian. Các số liệu về số người khuyết tật ở Châu Âu chỉ được thu thập đối với những người trên 16 tuổi. Các số liệu quốc gia về số trẻ em khuyết tật thường chỉ bắt đầu từ độ tuổi mà một đứa trẻ bắt đầu đi học, vì thường chỉ khi một đứa trẻ được đánh giá có nhu cầu giáo dục đặc biệt thì chúng mới được đưa vào số liệu về trẻ em khuyết tật. Cũng có sự khác biệt rất lớn về các danh mục được đưa vào định nghĩa về khuyết tật. Ví dụ, ở Vương quốc Anh, khoảng một nửa các cơ quan chính quyền địa phương coi rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) là một dạng khuyết tật, trong khi một nửa còn lại thì không. Sự khác biệt giữa các quốc gia còn lớn hơn. Một số thông tin không bao gồm trẻ em sống trong các cơ sở chăm sóc nội trú và cuối cùng, phạm vi độ tuổi của các dữ liệu cũng thay đổi, với độ tuổi thấp nhất là 0, 4, 5 hoặc 6 tuổi và độ tuổi tối đa là 14, 16 hoặc 18 tuổi. Tất cả những yếu tố này khiến việc ngoại suy ra toàn bộ Châu Âu trở nên rất khó khăn.

Các công trình nghiên cứu ở Vương quốc Anh đã ước tính rằng từ 3,0% đến 5,4% trẻ em dưới 18 tuổi có khiếm khuyết. Điều này tương ứng với từ 288.000 đến 513.000 trẻ em, với các bé trai có khả năng bị phân loại là khuyết tật gấp đôi so với các bé gái. Tuy nhiên, trẻ em dưới 5 tuổi sẽ bị thiếu đại diện nghiêm trọng vì lý do đã nêu trước đó. Một ước tính khác ở Vương quốc Anh, bao gồm cả trẻ em chưa đến tuổi đi học nhưng chỉ đến 16 tuổi, đưa ra con số 770.000 trẻ em khuyết tật. Con số này tương đương với một trẻ em trong 20% hoặc 5%. Trong số này, ước tính có khoảng 70.000 trẻ em có thể được hưởng lợi từ các thiết bị di chuyển được tùy chỉnh, chủ yếu là xe lăn. Do đó, khoảng 10% tổng số trẻ em khuyết tật có thể cần xe lăn, và ngay cả những trẻ này cũng không dành toàn bộ thời gian trong xe lăn mà có thể tiếp cận thiết bị bằng các dụng cụ hỗ trợ đi lại khác hoặc nắm giữ thiết bị.

Các số liệu ở Ý ước tính rằng 1,6% trẻ em từ 6 đến 14 tuổi bị khuyết tật, nhưng con số này không bao gồm những trẻ không sống với gia đình, như những trẻ ở trường đặc biệt. Không có dữ liệu cho trẻ em dưới 6 tuổi. Đây rõ ràng là tỷ lệ thấp hơn so với ở Vương quốc Anh, nhưng khảo sát báo cáo rằng định nghĩa về khuyết tật rất hạn chế và chỉ liên quan đến khả năng không thể thực hiện được một hoạt động sinh hoạt hàng ngày. Họ ước tính rằng đối với toàn bộ dân số trên 6 tuổi, tỷ lệ mắc khuyết tật là 4,8%, nhưng một ước tính thực tế hơn sẽ là 12%, tức là gấp 2,5 lần mức báo cáo. Nếu yếu tố này được áp dụng vào ước tính số lượng trẻ em khuyết tật, thì tỷ lệ này sẽ tăng từ 1,6% lên 4%, gần giống với mức của Vương quốc Anh.

Một nguồn tin của Châu Âu ước tính có khoảng một triệu trẻ em có khuyết tật trí tuệ trên toàn Liên minh Châu Âu.

Tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2010, dân số Liên minh Châu Âu khoảng 501,26 triệu người. Rất khó để có được ước tính chính xác về tổng số trẻ em, nhưng vào năm 2005, số lượng trẻ em dưới 16 tuổi được cho là khoảng 120 triệu, chiếm khoảng 24% dân số, mặc dù con số này thay đổi tùy theo tỷ lệ sinh và giảm dần khi dân số già đi. Tuy nhiên, từ những con số này, có thể đưa ra một số ước tính về tổng số trẻ em khuyết tật trong độ tuổi đi học ở Châu Âu, dao động từ 3,6 triệu đến 6,5 triệu, trong đó có thể có từ 360.000 đến 650.000 trẻ sử dụng xe lăn.

 

Thư mục tài liệu tham khảo

[1] TCVN 6313 (ISO/IEC GUIDE 50), Các khía cạnh an toàn - hướng dẫn về an toàn cho trẻ em

[2] TCVN 6844 (ISO/IEC GUIDE 51), Hướng dẫn việc đề cập khía cạnh an toàn trong tiêu chuẩn

[3] TCVN 12721 (EN 1176) (tất cả các phần), Thiết bị và bề mặt sân chơi

[4] QCVN 3:2019/BKHCN, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về An toàn đồ chơi trẻ em

[5] Developing Accessible Play Space - A good practice guide (Office of the Deputy Prime Minister, UK Government) - http://www.communities.gov.uk/documents/communities/pdf/131052.pdf

[6] “Able to Play” (Kellog Foundation, USA)

[7] CPSC Press Release: Bike Helmets on Playgrounds, http://www.helmets.org/cpscplay.htm

[8] International Classification of Functioning, Disability and Health (ICF), http://www.who.int/classifications/icf/en/

[9] Matching Ability with Jobs using AMAS - Final report, https://dspace.lboro.ac.Uk/dspace-ispui/bitstream/2134/2169/1/AMAS.pdf

[10] BS 7000-6, Design management systems - Managing inclusive design - Guide

[11] DIN 33942, Barrier-free accessible playground equipment - Safety requirements and test methods

[11] CEN/CENELEC Guide 6, Guidelines for standards developers to address the needs of older persons and persons with disabilities

[12] CEN/CENELEC Guide 14, Child safety - Guidance for its inclusion in standards

[13] EN 1177, Impact attenuating playground surfacing - Determination of critical fall height

[14] EN 1080, Impact protection helmets for young children

Bạn chưa Đăng nhập thành viên.

Đây là tiện ích dành cho tài khoản thành viên. Vui lòng Đăng nhập để xem chi tiết. Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!

* Lưu ý: Để đọc được văn bản tải trên Luatvietnam.vn, bạn cần cài phần mềm đọc file DOC, DOCX và phần mềm đọc file PDF.

Văn bản liên quan Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 14452:2025

01

Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia QCVN 3:2019/BKHCN An toàn đồ chơi trẻ em

02

Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 6313:2025 Các khía cạnh an toàn - Hướng dẫn quy định về an toàn cho trẻ em trong tiêu chuẩn

03

Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 6844:2025 ISO/IEC GUIDE 51:2014 Các khía cạnh an toàn - Hướng dẫn đề cập khía cạnh an toàn trong tiêu chuẩn

văn bản cùng lĩnh vực

văn bản mới nhất

Chú thích màu chỉ dẫn
Chú thích màu chỉ dẫn:
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng các màu sắc:
Sửa đổi, bổ sung, đính chính
Thay thế
Hướng dẫn
Bãi bỏ
Bãi bỏ cụm từ
Bình luận
Click vào nội dung được bôi màu để xem chi tiết.
×