- Tổng quan
- Nội dung
- Tiêu chuẩn liên quan
- Lược đồ
- Tải về
Tiêu chuẩn TCVN 6313:2025 Các khía cạnh an toàn - Hướng dẫn quy định về an toàn cho trẻ em
| Số hiệu: | TCVN 6313:2025 | Loại văn bản: | Tiêu chuẩn Việt Nam |
| Cơ quan ban hành: | Bộ Khoa học và Công nghệ | Lĩnh vực: | Chính sách |
|
Ngày ban hành:
Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành.
|
03/04/2025 |
Hiệu lực:
|
Đã biết
|
| Người ký: | Đang cập nhật |
Tình trạng hiệu lực:
Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,...
|
Đã biết
|
TÓM TẮT TIÊU CHUẨN VIỆT NAM TCVN 6313:2025
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 6313:2025
TIÊU CHUẨN QUỐC GIA
TCVN 6313:2025
CÁC KHÍA CẠNH AN TOÀN - HƯỚNG DẪN VỀ AN TOÀN CHO TRẺ EM TRONG TIÊU CHUẨN
Safety aspects -Guidelines for child safety in standards
Lời nói đầu
TCVN 6313:2025 thay thế TCVN 6313:2008 (ISO/IEC Guide 50:2002).
TCVN 6313:2025 chấp nhận tương đương có sửa đổi ISO/IEC Guide 50:2014.
TCVN 6313:2025 do Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia TCVN/TC 01 Vấn đề chung về tiêu chuẩn hóa biên soạn, Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam đề nghị, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia thẩm định, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố.
0 Lời giới thiệu
0.1 Đối tượng sử dụng tiêu chuẩn này
Tiêu chuẩn này đưa ra hướng dẫn cho những tổ chức xây dựng và sửa đổi hoặc thay thế tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật và các tài liệu tương tự. Tiêu chuẩn này bao gồm thông tin quan trọng, hữu ích làm thông tin cơ bản cho các nhà thiết kế, kiến trúc sư, nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ, nhà giáo dục, truyền thông, các nhà hoạch định chính sách...
Tiêu chuẩn này cung cấp thông tin hữu ích cho các chuyên gia đánh giá và giám định an toàn trong trường hợp không có tiêu chuẩn cụ thể.
0.2 Lý do xây dựng tiêu chuẩn này
Việc ngăn ngừa thương tích là trách nhiệm chung của mọi người. Có một thách thức là phát triển các sản phẩm, bao gồm các mặt hàng được sản xuất, kể cả bao bì, quá trình, kết cấu, lắp đặt, dịch vụ, môi trường được tạo ra hoặc sự kết hợp của bất kỳ trong số này nhằm giảm thiểu khả năng gây tử vong hoặc thương tích nghiêm trọng cho trẻ em. Một khía cạnh quan trọng của thách thức này là cân bằng giữa sự an toàn với nhu cầu của trẻ em được khám phá môi trường khích lệ và học hỏi. Việc ngăn ngừa thương tích có thể được thực hiện thông qua thiết kế, kỹ thuật, kiểm soát sản xuất, pháp lý, giáo dục và nâng cao nhận thức.
0.3 Các vấn đề liên quan đến an toàn trẻ em
An toàn trẻ em phải là mối quan tâm chính của xã hội vì các thương tích ở trẻ em và thanh thiếu niên là nguyên nhân chính gây ra tử vong và tàn tật ở nhiều nước. Báo cáo chung của WHO/UNICEF về Ngăn ngừa thương tích ở trẻ em [26] xác định thương tích không chủ ý là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho trẻ em trên 5 tuổi. Hơn 830 000 trẻ em chết mỗi năm do va chạm giao thông đường bộ, đuối nước, bỏng, ngã và ngộ độc.
Trẻ em được sinh ra trong thế giới của người lớn, chúng không có kinh nghiệm hay nhận thức về các rủi ro nhưng lại có mong muốn tự nhiên là khám phá. Chúng có thể sử dụng các sản phẩm hoặc tương tác với môi trường theo cách không nhất thiết phải có chủ đích, không nhất thiết bị coi là “sử dụng sai”. Vì thế nguy cơ thương tích là đặc biệt lớn trong giai đoạn thơ ấu. Việc giám sát có thể không luôn ngăn ngừa hoặc làm giảm đáng kể thương tích. Do đó, cần thiết phải có các biện pháp bổ sung nhằm ngăn ngừa thương tích.
Các biện pháp can thiệp nhằm bảo vệ trẻ em cần nhận thức rõ ràng trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ. Tính nhạy cảm của trẻ em đối với thương tích và bản chất các thương tích của trẻ em khác với những thương tích của người lớn. Các biện pháp can thiệp lý tưởng như vậy cũng phải xem xét việc sử dụng có thể dự đoán trước một cách hợp lý về các sản phẩm hoặc môi trường xung quanh. Trẻ em tương tác với sản phẩm theo cách phản ánh hành vi thông thường của một đứa trẻ và các hành vi nàysẽ thay đổi theo lứa tuổi và mức độ phát triển của trẻ. Vì vậy, biện pháp can thiệp để bảo vệ trẻ em phải khác so với biện pháp nhằm bảo vệ cho người lớn.
0.4 Vai trò của tiêu chuẩn
Tiêu chuẩn có thể giữ vai chủ đạo trong việc giảm thiểu và ngăn ngừa thương tích vì chỉ tiêu chuẩn mới có các khả năng:
- sử dụng các kiến thức chuyên môn về kỹ thuật trong kiểm soát thiết kế, kiểm soát sản xuất và thử nghiệm,
- quy định các yêu cầu an toàn quan trọng, và
- thông tin về hướng dẫn sử dụng, cảnh báo, hình minh họa, các ký hiệu, v.v...
0.5 Cấu trúc của tiêu chuẩn
Tiêu chuẩn này cung cấp thông tin bổ sung cho TCVN 6844 (ISO/IEC Guide 51). TCVN 6844 (ISO/IEC Guide 51) đưa ra cách tiếp cận có cấu trúc để giảm thiểu rủi ro trong bối cảnh an toàn chung, còn tiêu chuẩn này tập trung vào các mối quan hệ giữa sự phát triển của trẻ em và tổn hại từ thương tích không chủ ý và đưa ra lời khuyên về cách giải quyết các mối nguy mà trẻ em có thể gặp phải. Tiêu chuẩn này được cấu trúc như sau:
a) Điều 4 mô tả cách tiếp cận tổng quát về an toàn cho trẻ em, bao gồm các nguyên tắc đề cập một cách có hệ thống đến các mối nguy;
b) Điều 5 trình bày mối quan hệ giữa sự phát triển và hành vi của trẻ em và thương tích không chủ ý, bao gồm nhân trắc học ở trẻ em (xem 5.1.2), vận động (xem 5.1.3), sinh lý (xem 5.1.4) và phát triển nhận thức (xem 5.1.5) và các biện pháp khám phá (xem 5.1.6); tầm quan trọng của việc áp dụng kiến thức về sự phát triển của trẻ em để ngăn ngừa tổn hại được đề cập ở 5.2; độ tuổi phát triển của trẻ em so với độ tuổi theo thời gian được đề cập ở 5.3;
c) Điều 6 đề cập đến sự liên quan của môi trường thể chất và xã hội của trẻ và những xem xét cụ thể liên quan đến môi trường ngủ của trẻ;
d) Điều 7 mô tả những mối nguy mà trẻ có thể gặp phải trong quá trình sử dụng hay tương tác với một sản phẩm, cùng với các khuyến cáo riêng đối với việc giải quyết các mối nguy này;
e) Điều 8 mô tả phương pháp có cấu trúc để xem xét tính đầy đủ của các biện pháp bảo vệ.
Ngoài ra, Phụ lục A còn có danh sách kiểm tra để đánh giá tiêu chuẩn. Trong đó đưa ra cái nhìn khái quát về các mối nguy, các thương tích tiềm ẩn và cách tiếp cận có cấu trúc với các giải pháp. Tuy nhiên, cần phải đọc phần này cùng với phần chính của tiêu chuẩn, vì phụ lục chỉ đưa ra một vài ví dụ về cách tiếp cận có cấu trúc.
0.6 Khác biệt so với ISO/IEC Guide 50:2014
Tiêu chuẩn này chấp nhận tương đương có sửa đổi ISO/IEC Guide 50:2014 Safety aspects - Guidelines for child safety in standards với điểm khác biệt là:
ISO/IEC Guide 50:2014 quy định độ tuổi của trẻ em là người dưới 14 tuổi. Trong tiêu chuẩn này quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi theo quy định của pháp luật Việt Nam.
CÁC KHÍA CẠNH AN TOÀN - HƯỚNG DẪN VỀ AN TOÀN CHO TRẺ EM TRONG TIÊU CHUẨN
Safety aspects -Guidelines for child safety in standards
1 Phạm vi áp dụng
Tiêu chuẩn này đưa ra hướng dẫn cho các chuyên gia xây dựng và sửa đổi, thay thế tiêu chuẩn cũng như các quy định kỹ thuật và các tài liệu tương tự. Mục đích là đề cập đến các nguồn tiềm ẩn gây tổn hại cơ thể đối với trẻ em từ các sản phẩm mà trẻ em sử dụng hoặc có khả năng tiếp xúc, ngay cả khi sản phẩm không để dành riêng cho trẻ em.
Tiêu chuẩn này không đưa ra hướng dẫn về ngăn ngừa tổn hại do cố tình (ví dụ: lạm dụng trẻ em) hoặc các hình thức tổn hại phi vật chất như là tổn hại về tâm lý (ví dụ: hăm dọa ngược đãi trẻ em).
Tiêu chuẩn này không đề cập đến hậu quả kinh tế của những vấn đề trên.
CHÚ THÍCH: Thuật ngữ 'sản phẩm” được định nghĩa ở 3.5.
2 Tài liệu viện dẫn
Trong tiêu chuẩn này không có tài liệu nào được viện dẫn.
3 Thuật ngữ và định nghĩa
Tiêu chuẩn này sử dụng thuật ngữ, định nghĩa dưới đây.
3.1
Người trông nom trẻ (carer)
Người thực hiện trách nhiệm, tuy nhiên chỉ là tạm thời, đối với sự an toàn (3.7) của từng đứa trẻ.
VÍ DỤ: Cha mẹ; ông bà; anh chị em ruột được giao trách nhiệm hạn chế đối với trẻ; họ hàng khác, người quen là người trưởng thành; người trông nom trẻ; giáo viên; lãnh đạo thanh niên; huấn luyện viên thể thao; hướng dẫn viên cắm trại; nhân viên chăm sóc ban ngày.
3.2
Trẻ em (child)
Người dưới 16 tuổi[41].
Chú thích 1: Độ tuổi có thể thay đổi tùy theo luật pháp; trong ISO/IEC Guide 50:2014 là dưới 14 tuổi.
Chú thích 2: Xem 4.2 để biết thêm thông tin.
3.3
Tổn hại (harm)
Thương tích hoặc tổn thương đến sức khỏe của con người hoặc thiệt hại về tài sản hay môi trường.
[TCVN 6844 (ISO/IEC Guide 51:2014, 3.1].
3.4
Mối nguy (hazard)
Nguồn gây tổn hại tiềm ẩn (3.3).
[TCVN 6844 (ISO/IEC Guide 51:2014, 3.2].
3.5
Sản phẩm (product)
Mặt hàng được sản xuất, quá trình, kết cấu, lắp đặt, dịch vụ, môi trường được tạo ra hoặc sự kết hợp của bất kỳ trong số này.
Chú thích 1: Trong trường hợp hàng tiêu dùng, bao bì (dù dự kiến hay không dự kiến hoặc có khả năng được giữ lại như là một phần của sản phẩm) được coi là một phần không thể thiếu của sản phẩm (xem thêm 7.1).
3.6
Rủi ro (risk)
Sự kết hợp của khả năng xảy ra tổn hại (3.3) và mức độ nghiêm trọng của tổn hại đó.
[TCVN 6844 (ISO/IEC Guide 51:2014, 3.9, đã sửa đổi - bỏ Chú thích 1].
3.7
An toàn (safety)
Không có rủi ro (3.6) không thể chấp nhận được.
[TCVN 6844 (ISO/IEC Guide 51:2014, 3.14].
3.8
Rủi ro có thể chấp nhận được (tolerable risk)
Mức độ rủi ro (3.6) được chấp nhận trong bối cảnh nhất định dựa trên các giá trị hiện tại của xã hội.
[TCVN 6844 (ISO/IEC Guide 51:2014, 3.15, đã sửa đổi - bỏ Chú thích 1].
4 Tiếp cận chung về an toàn cho trẻ em
4.1 Khái quát
Khi xây dựng hoặc sửa đổi, thay thế một tiêu chuẩn đối với một sản phẩm, tổ chức xây dựng tiêu chuẩn cần xem xét liệu trẻ em có khả năng tương tác với các sản phẩm mà tiêu chuẩn đó đề cập đến hay không và bằng cách nào, bất kể sản phẩm đó có nhằm dành riêng cho trẻ em hay không. Các khái niệm an toàn để phân biệt an toàn cho trẻ em và an toàn nói chung được giải thích trong điều này. Các khái niệm này là bổ sung cho nội dung của TCVN 6844 (ISO/IEC Guide 51).
4.2 Mô tả độ tuổi được sử dụng trong tiêu chuẩn này
Một số thuật ngữ liên quan đến độ tuổi đề cập đến sự phát triển của trẻ em đang được sử dụng phổ biến. Các thuật ngữ này không loại trừ lẫn nhau và phụ thuộc vào ngữ cảnh, có thể được sử dụng một cách tương đối hoặc với ý nghĩa chính xác như sau:
- Thuật ngữ “trẻ sơ sinh” thường dùng để chỉ những đứa trẻ chưa biết đi.
- Thuật ngữ “trẻ mới biết đi” thường dùng để chỉ những đứa trẻ có thể đi lại nhưng kỹ năng di chuyển chưa được phát triển đầy đủ và thể hiện hành vi khám phá mạnh mẽ.
- Thuật ngữ “trẻ nhỏ” thường dùng để chỉ những đứa trẻ đã qua giai đoạn chập chững biết đi, nhưng vẫn đang phát triển các kỹ năng cơ bản, như là trẻ từ 3 đến 8 tuổi. Chúng có thể có các kỹ năng vận động cơ bản phát triển tốt, đang bắt đầu thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản của người lớn và dần dần ít chịu sự giám sát hơn, nhưng hành vi của những đứa trẻ này có thể vẫn bốc đồng và khó đoán. Điều quan trọng cần lưu ý là sẽ có sự khác biệt đáng kể giữa các kỹ năng và hành vi của trẻ ở độ tuổi này.
- Thuật ngữ “trẻ lớn” đề cập đến những trẻ em chưa phải là thanh niên: giới hạn độ tuổi trên có thể khác nhau, vì vậy thuật ngữ này có thể đề cập đến trẻ trong độ tuổi từ 9 đến dưới 16 tuổi. Đây là nhóm tuổi ngày càng độc lập, có khả năng thực hiện hầu hết các nhiệm vụ của người lớn (dù với các mức độ năng lực khác nhau) mặc dù trẻ có thể vẫn hành động không nhất quán và có thể đoán được, có thể phản ứng trước áp lực từ bạn bè và có thể không hiểu hết về những hậu quả trong hành động của mình. Đó là giai đoạn khi có thể có xung đột cảm xúc vì mong muốn cả sự an toàn và độc lập. Ở giai đoạn cuối của nhóm tuổi này, trẻ em có động lực mạnh mẽ đối với sự độc lập và có khả năng tìm kiếm những trải nghiệm mới.
4.3 Đánh giá rủi ro
Đánh giá rủi ro là một bước quan trọng trong bất kỳ biện pháp ngăn ngừa thương tích nào. Điều quan trọng là xác định tất cả các tình huống hoặc chuỗi tình huống có thể gây tổn hại đối với từng mối nguy.
Cách tiếp cận chung được nêu trong TCVN 6844 (ISO/IEC Guide 51), xác định các rủi ro liên quan đến một tình trạng nguy hại cụ thể là hàm số phụ thuộc mức độ nghiêm trọng của tổn hại và xác suất xảy ra tổn hại đó. Cụ thể là, mức độ nghiêm trọng của tổn hại và xác suất xảy ra cần được xác định một cáchkhách quan và dựa trên các sự việc có liên quan chứng minh quan hệ nhân quả thay vì ra quyết định tùy tiện và trực quan. Khi đề cập đến an toàn cho trẻ em, các yếu tố dưới đây cần được đặc biệt chú ý liên quan đến các rủi ro đối với trẻ em:
a) các tương tác của chúng với con người và sản phẩm;
b) sự phát triển và hành vi của trẻ;
c) mức độ nhận thức, kiến thức và kinh nghiệm của trẻ và người trông nom trẻ;
d) các yếu tố về xã hội, kinh tế và môi trường; khả năng bị thương tích liên quan đến đặc điểm thể chất và hành vi của trẻ;
e) mức độ giám sát của người trông nom trẻ.
4.4 Ngăn ngừa và giảm tổn hại
4.4.1 Tổn hại có thể xảy ra do các mối nguy chẳng hạn như thiếu nhu cầu thiết yếu (ví dụ: oxy, như đuối nước hoặc ngạt thở), truyền năng lượng (ví dụ: cơ, nhiệt, điện, chất bức xạ), hay tiếp xúc với các tác nhân (ví dụ: hóa học, sinh học) lớn hơn khả năng chịu đựng của cơ thể (xem Điều 7). Có thể ngăn ngừa hay làm giảm nhẹ các tổn hại này bằng sự can thiệp vào một chuỗi các tình huống dẫn đến tổn hại hoặc tiếp theo sự xuất hiện của chúng. Thiết kế các sản phẩm an toàn thường mang lại kết quả phòng ngừa ban đầu.
4.4.2 Các biện pháp có thể bao gồm một hoặc nhiều nội dung sau đây:
- loại bỏ mối nguy và/hoặc tiếp xúc với mối nguy (ngăn ngừa ở cấp độ 1, ví dụ: thiết kế các sản phẩm an toàn hơn); ví dụ, thay thế chất lỏng dễ cháy bằng chất lỏng không bắt cháy;
- loại bỏ sự tiếp xúc với mối nguy (ngăn ngừa ở cấp độ 1);
- làm giảm khả năng tiếp xúc với mối nguy (ngăn ngừa ở cấp độ 2, ví dụ: sử dụng bao bì ngăn ngừa trẻ em);
- làm giảm mức độ nghiêm trọng của tổn hại (ngăn ngừa ở cấp độ 2, ví dụ: sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân hoặc giảm nhiệt độ nước nóng sinh hoạt);
- làm giảm ảnh hưởng lâu dài của tổn hại thông qua việc cứu chữa, xử lý hoặc phục hồi (ngăn ngừa ờ cấp độ 3).
CHÚ THÍCH: Cách tiếp cận làm giảm rủi ro cũng được trình bày trong TCVN 6844 (ISO/IEC Guide 51:2014, 6.3).
4.4.3 Ngoài ra, các biện pháp có thể là bị động hay chủ động. Đối với các biện pháp bị động thì các cá nhân không cần có hành động gì để được bảo vệ, còn các biện pháp chủ động thì yêu cầu các cá nhân thực hiện một số hành động để làm giảm tổn hại. Các biện pháp bị động loại bỏ hoặc đề phòng đối với mối nguy đảm bảo khả năng thành công cao hơn các biện pháp chủ động.
Việc cải thiện an toàn sản phẩm, nghĩa là loại bỏ hoặc giảm thiểu rủi ro có thể dẫn đến các thương tích nghiêm trọng, nên bắt đầu từ giai đoạn thiết kế sản phẩm, nhằm kết hợp cách tiếp cập ngăn ngừa ở cấp độ 1, hoặc nếu không thể, thì cách tiếp cận ngăn ngừa ở cấp độ 2. Ngăn ngừa ở cấp độ 2 có thể bao gồm việc cung cấp thông tin cho những người sử dụng về rủi ro tồn dư, những rủi ro mà người sử dụng có thể phải giải quyết. Bất cứ khi nào có thể, thiết kế sản phẩm nên hướng tới việc kết hợp các biện pháp ngăn ngừa bị động.
CHÚ THÍCH: Cách tiếp cận làm giảm rủi ro cũng được nêu trong TCVN 6844 (ISO/IEC Guide 51:2014), 6.3.
Có thể sử dụng các nguồn khác nhau để xác định nguy cơ gây tổn hại liên quan đến một sản phẩm. Các nguồn này bao gồm, nhưng không giới hạn ở:
- các dữ liệu thống kê về thương tích;
- thông tin chi tiết có sẵn từ các hệ thống giám sát thương tích;
- các kết quả nghiên cứu;
- dữ liệu thử nghiệm (mặc dù đã qua thử nghiệm nhưng không có nghĩa là sản phẩm không có mốinguy).
- các điều tra liên quan đến các báo cáo vụ việc;
- các dữ liệu liên quan đến khiếu nại;
- ngoại suy dữ liệu liên quan về các đặc tính nguy hiểm từ các loại sản phẩm khác. Dữ liệu giám sát, thu hồi và các hành động tương tự khác trong phạm vi quyền hạn khác cần được xem xét.
THẬN TRỌNG: Việc không có các tổn hại được báo cáo không có nghĩa là không có mối nguy nào.
Do các tổn hại của trẻ em nói chung có liên quan chặt chẽ đến giai đoạn phát triển của trẻ và các tiếp xúc của chúng với các mối nguy ở các lứa tuổi khác nhau, nên việc phân loại dữ liệu về thương tích của trẻ em theo nhóm tuổi để xác định các kiểu tổn hại là rất quan trọng.
VÍ DỤ 1: Số vụ bỏng do cửa lò, bỏng nước nóng, bị ngộ độc do thuốc và các hóa chất sử dụng trong gia đình và chết đuối có tỷ lệ cao nhất đối với trẻ em dưới 5 tuổi.
VÍ DỤ 2: Các thương tích do bị ngã từ các thiết bị trong sân chơi cao nhất ở lứa tuổi từ 5 đến 9 tuổi.
Ví DỤ 3: Các thương tích do bị ngã và các va đập liên quan đến các hoạt động thể thao cao nhất ở lứa tuổi từ 10 đến 14 tuổi.
Việc xác định các biện pháp đối phó thích hợp là kết quả từ các nghiên cứu và đánh giá, đặc biệt là được dựa trên dữ liệu thương tích, hành vi của trẻ em, kỹ thuật và cơ chế sinh học. Phản hồi, ví dụ từ những người tiêu dùng có thể cung cấp thông tin có giá trị về nhu cầu thiết kế lại sản phẩm.
Khi lựa chọn các biện pháp ngăn ngừa, cần nhận thức được rằng rủi ro chấp nhận được cho người lớn có thể không áp dụng cho trẻ em. Khi đưa ra các biện pháp thiết kế để bảo vệ cho người lớn thì cần phải xem xét các rủi ro gia tăng và/hoặc bổ sung đối với trẻ em (ví dụ: túi khí bên hành khách trong ô tô).
4.5 Tính “vô hình” ở trẻ em
4.5.1 Trẻ em là “vô hình”, nghĩa là sự hiện diện của chúng rất khó phát hiện, vì một số lý do:
- kích thước cơ thể nhỏ bé của trẻ khiến người lớn khó nhìn thấy;
- sự thiếu khả năng phán đoán để hiểu các mối nguy hiểm và hành vi không thể đoán trước được của trẻ có thể đặt trẻ vào những tình huống nguy hiểm mà người lớn không lường trước được.
4.5.2 Thị lực của con người có những hạn chế, như hạn chế về tầm nhìn xa. Trẻ em ngoài tầm quan sát của người lớn có mối nguy gặp phải những tai nạn nghiêm trọng. Ví dụ:
- trẻ ở gần phương tiện giao thông có thể nằm trong điểm mù của người lái xe và vô tình bị phương tiện đó đâm phải;
- trẻ có thể nhảy ra trước một phương tiện giao thông đang di chuyển và bị đâm;
- trẻ có thể không được nhìn thấy khi một người khác mở hoặc đóng cửa.
4.5.3 Cần xem xét các biện pháp khả thi để tránh hoặc giảm thiểu rủi ro tại các điểm mù, ví dụ:
- ngăn ngừa trẻ đi vào các vị trí có rủi ro cao, như đường xe chạy, bằng cách lắp đặt các rào chắn hoặc rào chắn tay xoay để ngăn trẻ vượt qua phía trước xe buýt trường học mà tài xế xe buýt không nhìn thấy.
- loại bỏ các điểm mù trên phương tiện giao thông bằng cách lắp gương hoặc hệ thống nhận dạng;
- mở rộng cửa sổ trong suốt ở cửa ra vào ở mức thấp hơn.
4.6 Nhu cầu của trẻ khuyết tật
Một tỷ lệ nhỏ nhưng đáng kể trẻ em bị khuyết tật. Một số trẻ em sinh ra đã bị khuyết tật hoặc tình trạng sức khỏe suy giảm, trong khi các trẻ em khác bị khuyết tật do bệnh tật, thương tích hoặc dinh dưỡng kém. Một số trẻ chỉ có một khuyết tật duy nhất trong khi các trẻ khác lại có nhiều khuyết tật. Ví dụ, một đứa trẻ bị bại não có thể bị suy giảm về khả năng vận động, giao tiếp và trí tuệ. Sự tương tác phức tạp giữa tình trạng sức khỏe hoặc sự suy giảm sức khỏe với các yếu tố môi trường và cá nhân có nghĩa rằng trải nghiệm của mỗi đứa trẻ khuyết tật là khác nhau.
QUAN TRỌNG - Vì những lý do này, nên tham vẫn các chuyên gia.
Đối với trẻ khuyết tật, các yêu cầu đáp ứng nhu cầu của trẻ, ngoài các yêu cầu được nêu trong tiêu chuẩn này, có thể thích hợp, mặc dù có thể có các tình huống khi các cách tiếp cận chung không thể thực hiện được và cần phải có các cách tiếp cận riêng.
Thuật ngữ "khuyết tật” bao gồm nhiều tình trạng khác nhau, khác nhau về tính chất, mức độ nghiêm trọng và tác động của chúng.
Khuyết tật bao gồm, nhưng không giới hạn:
- sự suy giảm về hành vi và học tập;
- sự suy giảm về thể chất và phát triển;
- sự suy giảm về giác quan;
- sự suy giảm về kỹ năng vận động.
Tiêu chuẩn này không đưa ra khuyến nghị chi tiết về cách thức giảm thiểu rủi ro và/hoặc mức độ nghiêm trọng của những thương tích không chủ ý ở trẻ khuyết tật.
CHÚ THÍCH: TCVN 11457 (ISO/IEC Guide 71) đề cập đến nhu cầu của người khuyết tật theo nghĩa rộng, nhưng không đề cập cụ thể đến hướng dẫn liên quan đến trẻ khuyết tật.
5 Xem xét về an toàn: sự phát triển, hành vi và tổn hại không chủ ý của trẻ em
5.1 Sự phát triển và hành vi của trẻ em
5.1.1 Khái quát
Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ. Các đặc điểm vốn gắn liền với trẻ em, bao gồm các giai đoạn phát triển cùng với việc tiếp xúc với các mối nguy làm cho trẻ có thể gặp rủi ro theo cách khác với cách xảy ra cho người lớn. Giai đoạn phát triển bao gồm nhiều yếu tố như kích thước của trẻ, hình dáng, chức năng sinh lý, khả năng về thể chất và tri thức, sự phát triển về cảm xúc và hành vi. Các đặc tính này thay đổi rất nhanh khi trẻ lớn lên. Vì vậy cha mẹ hay người trông nom trẻ khác thường đánh giá quá cao hoặc đánh giá thấp các khả năng của trẻ em tại các giai đoạn phát triển khác nhau, do đó khiến trẻ phải tiếp xúc với các mối nguy. Tình trạng này còn xấu hơn bởi một thực tế là phần lớn môi trường xung quanh trẻ em được thiết kế để dành cho người lớn.
Tất cả các đặc điểm của giai đoạn thơ ấu được mô tả dưới đây cần phải được xem xét để xác định các mối nguy tiềm ẩn gắn liền với các sản phẩm, cần phải lưu ý rằng các đặc điểm này có thể tác động cùng nhau và làm tăng rủi ro gây tổn hại cho trẻ em. Ví dụ:
- hành vi muốn khám phá có thể dẫn đến việc trẻ trèo lên thang;
- các kỹ năng hạn chế về tri thức có thể làm trẻ không nhận thức được rằng cái thang có thể quá cao hay không đứng vững;
- khả năng kiểm soát vận động hạn chế có thể dẫn đến hậu quả trẻ bị tuột tay và ngã.
Cách mà trẻ em sử dụng và tương tác với các sản phẩm này phải được coi là hành vi bình thường của giai đoạn thơ ấu. Thuật ngữ “sử dụng sai” có thể bị hiểu sai lệch và có thể dẫn đến việc đưa ra các quyết định không phù hợp liên quan đến các mối nguy cho trẻ. Bằng chứng khảo sát cho thấy trẻ em thường sử dụng các sản phẩm không được thiết kế để dành cho trẻ, ví dụ lò vi sóng. Khi trẻ em tương tác với một sản phẩm, rất khó để phân biệt giữa việc chúng đang chơi, đang học một cách tích cực hay việc sử dụng đúng mục đích. Vì các lý do an toàn, việc cố gắng phân biệt giữa các tương tác như vậy có thể không mang lại lợi ích gì.
Khi xem xét về mặt an toàn cần đưa ra một sự cân bằng phù hợp giữa rủi ro và tự do để trẻ khám phá một môi trường đầy kích thích và học tập. Mục đích là để làm giảm rủi ro tổn hại bằng thiết kế phù hợp với mức độ phát triển của trẻ.
5.1.2 Kích thước cơ thể của trẻ em và các dữ liệu về nhân trắc học
Một số đặc điểm về kích thước của trẻ em và sự phân bổ khối lượng làm cho trẻ dễ bị tổn hại. Bản chất của tổn hại này cũng có thể khác với tổn hại mà người lớn phải trải qua.
Kích thước của trẻ em liên quan tới môi trường xung quanh khiến nên cần phải kiểm tra các phép đo nhân trắc học của trẻ, bao gồm chiều cao tổng thể cũng như chiều dài, chiều rộng của các bộ phận và số đo các vòng của cơ thể. Các dữ liệu về nhân trắc học cần được tham khảo để thiết lập các phân bổ thông thường và các giới hạn an toàn. Trẻ em, giống như người lớn không nhất thiết phải có số đo nhất quán đối với các bộ phận khác nhau trên cơ thể. Ví dụ, một đứa trẻ có chiều cao ở phân vị thứ 95 có thể có đầu ở phân vị thứ 50 và chiều dài tay ở phân vị thứ 25. Trẻ em trong một nhóm tuổi có thể có sự khác biệt khá lớn về sự phát triển và kích thước. Giới tính trải qua giai đoạn tăng trưởng bùng nổ ở các độ tuổi khác nhau.
CHÚ THÍCH: Các tài liệu tham khảo hữu ích về dữ liệu nhân trắc học, xem trong Thư mục tài liệu tham khảo.
Dưới đây là các ví dụ mà kích thước cơ thể và sự phân bổ khối lượng là các yếu tố gây thương tích khi so sánh với người lớn.
a) Trong trường hợp thương tích do nhiệt, một vùng tiếp xúc nhất định thường chiếm tỷ lệ lớn hơn trên vùng tiếp xúc bề mặt của trẻ so với trường hợp của người lớn. Ngoài ra, tỷ lệ diện tích bề mặt trên khối lượng cơ thể của trẻ em lớn hơn có thể dẫn đến tỷ lệ chất lỏng cơ thể bị mất đi từ vùng bị bỏng lớn hơn.
b) Trẻ nhỏ có kích thước đầu lớn so với kích thước cơ thể của trẻ. Trọng tâm ở cao làm tăng khả năng trẻ bị ngã, ví dụ từ bàn ghế hay từ các kết cấu mà trẻ có thể ngồi, trèo hoặc đứng lên. Trẻ em khi ngã thường đập đầu trực tiếp xuống.
c) Ảnh hưởng khác của trọng tâm cao cũng làm tăng rủi ro bị ngã vào các hồ bơi, thùng chứa, bồn cầu, bồn tắm v.v...khi trẻ dựa hay bám vào đó, do đó làm tăng rủi ro bị chết đuối.
d) Kích thước tương đối lớn của đầu có nghĩa là đầu cần không gian lớn hơn để lọt qua so với phần còn lại của cơ thể. Việc bị kẹt có thể xảy ra khi cơ thể đã lọt qua khe hở do đưa chân vào trước nhưng lại không thể đưa đầu qua.
e) Khối lượng tương đối lớn của đầu làm tăng khả năng và mức độ nghiêm trọng của tổn hại ở cổ.
f) Trẻ em có thể nhét ngón tay, bàn tay hay các phần khác của cơ thể vào các khe và lỗ nhỏ để tiếp xúc với các chi tiết quay và chuyển động hay điện và các mối nguy khác.
g) Một lượng nhỏ chất không gây hại cho người lớn lại có thể gây hại cho trẻ em. Trẻ em có thể bị ảnh hưởng nặng hơn người lớn do tiếp xúc với các mối nguy hóa chất và bức xạ do tỷ lệ bề mặt trên khối lượng lớn cũng như kích thước cơ thể nhỏ của trẻ.
5.1.3 Phát triển vận động
Sự phát triển vận động liên quan đến quá trình hoàn thiện của các vận động thô và tinh cũng như sự phối hợp. Cần hiểu được sự phát triển các kỹ năng vận động của trẻ để thiết kế các sản phẩm nhằm loại bỏ hay giảm nhẹ tổn hại.
Quá trình phát triển này bao gồm những thay đổi từ các hành động phản xạ tự nhiên cơ bản đến các hành động có tính toán, có mục tiêu trực tiếp. Những mốc quan trọng trong quá trình này bao gồm việc có được sức mạnh và kỹ năng để hỗ trợ đầu, cúi xuống, ngồi dậy, lăn tròn, bò, đứng, trèo, đi chập chững, đi và chạy và khả năng điều khiển các vật bằng tay và các ngón tay. Đến giai đoạn sự cân bằng, sự kiểm soát và sức mạnh đã được phát triển đầy đủ, thì trẻ em thường không thể tránh khỏi rủi ro bị ngã và rơi vào các vị trí không an toàn mà chúng không thể tự thoát ra được.
VÍ DỤ 1: Khi nằm, trẻ nhỏ có thể di chuyển đến mép của một bề mặt và rơi xuống nhưng không thể tự nâng mình lên được. Hậu quả là trẻ có thể bị mắc kẹt giữa các vật dụng và bị ngạt do tư thế hay do bị chèn ép.
VÍ DỤ 2: Trẻ nhỏ mới biết đứng hay tập đi có thể bị vướng vào các dây, ruy băng hay rèm cửa ở trong tầm với của trẻ. Khi trẻ ngồi hay ngồi thụp xuống, các dây này có thể xiết quanh cổ và làm trẻ bị nghẹt thở.
VÍ DỤ 3: Khi trẻ leo trèo có thể bị vướng quần áo, phụ kiện và bất cứ thứ gì trẻ mặc (ví dụ: ba lô, phụ kiện tóc) có thể bị vướng vào các đồ vật hay các chi tiết nhô ra. Nếu trẻ không thể tự gỡ ra được, trẻ sẽ bị treo lơ lửng.
VÍ DỤ 4: Trẻ bị rơi từ trên cao do chúng bị mất thăng bằng hay tuột tay.
VÍ DỤ 5: Từ khoảng ba tháng tuổi, trẻ sơ sinh được đặt nằm ngửa khi ngủ có thể bị lật và ngạt thở nếu nệm hoặc ga trải giường quá mềm.
5.1.4 Phát triển tâm sinh lý
Ngoài kích thước cơ thể và các chức năng vận động, còn có rất nhiều các chức năng tâm sinh lý khác phát triển ở trẻ em. Các chức năng này bao gồm các chức năng về cảm nhận, đặc điểm về cơ chế sinh học, thời gian phản ứng, các phát triển về trao đổi chất và các cơ quan trong cơ thể.
Sự phát triển giác quan ở trẻ em diễn ra theo thời gian. Phát triển thị giác chậm hơn phát triển các giác quan khác. Ngay cả ở giai đoạn khi hầu hết trẻ em có tầm nhìn tương tự như người lớn, trẻ có thể có tầm nhìn hẹp hơn hay gặp khó khăn trong việc nhận thức chiều sâu. Kết quả là trẻ em sẽ gặp khó khăn trong việc nhận biết các tình huống nguy hiểm.
Dưới đây là một số ví dụ về việc phát triển tâm sinh lý chưa đầy đủ có thể là một yếu tố gây thương tích:
a) kích thước cơ thể nhỏ và nhịp thở nhanh hơn của trẻ em khiến trẻ đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi các chất độc hại tiềm ẩn như thuốc, hóa chất và thực vật;
b) đặc điểm hóa sinh của trẻ em khiến chúng dễ bị nhiễm độc bởi hóa chất, thuốc và thực vật không độc hại đối với người lớn;
c) đặc điểm của da trẻ em, bao gồm cả độ mỏng của da, khiến da dễ bị thương tích do nhiệt hơn;
d) xương của trẻ em chưa phát triển hoàn toàn làm chúng có các phản ứng khác với các tác động cơ học;
e) trẻ em dễ bị tổn hại hơn từ các nguồn ánh sáng mạnh;
f) trẻ em nhạy cảm hơn với áp suất âm thanh.
5.1.5 Phát triển về nhận thức
Giai đoạn phát triển về nhận thức của trẻ em xác định khả năng hay không có khả năng để hiểu được hậu quả hành động của trẻ. Trẻ nhỏ có khả năng hạn chế để nhận biết các mối nguy và trẻ không biết trước được hay phản ứng một cách nhất quán và đáng tin cậy với những hậu quả có hại của các điều kiện nguy hiểm. Vì vậy, các mối nguy rõ ràng đối với người lớn lại không quá rõ ràng đối với trẻ em.
Tại một vài giai đoạn đầu tiên của tuổi thơ ấu, các kinh nghiệm ban đầu và chỉ dẫn của cha mẹ và người trông nom trẻ khác sẽ bắt đầu ảnh hưởng đến các hành vi của trẻ em, nhưng không nên dựa vào điều này khi phát triển một sản phẩm.
5.1.6 Biện pháp khám phá
Ngay từ khi còn nhỏ, trẻ em đã được thôi thúc bởi bản năng khám phá bẩm sinh. Hành vi khám phá của trẻ em có thể được phân loại theo các biện pháp cơ bản tương ứng với khả năng mới xuất hiện của chúng. Vì trẻ em trải qua một trình tự có thể dự đoán được một phần nào đó về sự trưởng thành của thể chất và tinh thần, trẻ cũng sử dụng các kiểu hành vi khám phá có thể dự đoán được. Các hành vi khám phá này có thể dẫn đến việc trẻ sử dụng các sản phẩm theo các cách không như nhà sản xuất mong muốn.
Một trong những biện pháp khám phá được quan sát thường xuyên nhất là sử dụng đồ vật. Ở giai đoạn sơ sinh, điều này thường liên quan đến việc cầm và ngậm đồ vật cùng một lúc. Khám phá bằng cách đưa đồ vật vào miệng không chỉ là để ăn uống. Miệng của trẻ em tương đối nhạy cảm và việc đưa đồ vào miệng mang lại cho trẻ em cảm giác thích thú cũng như giảm cơn đau khi mọc răng. Hoạt động khám phá bằng cách đưa đồ vật vào miệng đòi hỏi sự phối hợp vận động cơ bản (ví dụ: đưa tay lên miệng). Trẻ em bắt đầu khám phá các đồ vật theo cách cho phép chúng tìm hiểu về các đặc điểm vật lý của chúng. Với sự xuất hiện của phối hợp hai tay phức tạp hơn và các biện pháp khám phá khác như xoay, thả, đập và ném đồ vật, khám phá bằng cách đưa đồ vật vào miệng sẽ giảm đi tương ứng. Tuy nhiên, một số hành vi đưa vào miệng vẫn tiếp tục diễn ra sau giai đoạn đầu khám phá.
Khi các kỹ năng giác quan, vận động và nhận thức của trẻ em được cải thiện, việc khám phá môi trường dần trở lên phức tạp hơn. Trẻ em tiếp tục khám phá các đồ vật bao gồm cả cơ thể của chính chúng. Việc nhét mình vào một đồ vật lớn hoặc nhét các đồ vật nhỏ vào các bộ phận cơ thể là chuyện thường gặp. Theo thời gian, trò chơi xã hội trở thành biện pháp khám phá cơ bản đối với nhiều trẻ em. Những lựa chọn do bạn cùng lứa trở thành các yếu tố thúc đẩy quan trọng hình thành nên sự khám phá.
Người lớn hiểu rằng khám phá là một quá trình “khám phá những điều chưa biết” có liên quan đến rủi ro. Trẻ em ở mọi lứa tuổi đều phải đối mặt với rủi ro, do nhận thức rủi ro và khả năng ra quyết định hạn chế, hiểu biết kém về những hạn chế của bản thân và sự non nớt về thể chất và nhận thức, tất cả đều ảnh hưởng đến khả năng tránh nguy hiểm của chúng. Trong khi trẻ em có thể nhận thức được một số rủi ro, chúng không thể đánh giá rủi ro liên quan đến tình huống nguy hiểm tiềm ẩn cho đến khi trẻ có khả năng hiểu được những hậu quả (nguyên nhân và kết quả) vào độ tuổi khoảng từ 7 đến 8 tuổi.
Bảng 1 đưa ra ví dụ về các biện pháp khám phá điển hình của trẻ em.
Bảng 1 - Ví dụ về các biện pháp khám phá điển hình của trẻ em
| Biện pháp khám phá | Ví dụ | Độ tuổi tối đa | Ví dụ minh họa |
| Cho đồ vật vào miệng | Cắn, mút, gặm, nhai, liếm | Từ sơ sinh đến 3 tuổi | Vú cao su (hoặc núm vú giả), khối gỗ, khăn lau, quần áo, thực phẩm làm bằng vật liệu không ăn được, ngậm nướu, đồ chơi, pin cúc áo/đồng xu, đồ nội thất, bệ cửa sổ. |
| Xoay | Trẻ em xoay một đồ vật khi chúng kiểm tra nó bằng mắt | Từ 6 tháng đến 2 tuổi | Lúc lắc, đồ chơi có nước/chuỗi hạt, các khối, đồ chơi phát ra tiếng động khi lật úp |
| Chuyển từ tay này sang tay khác | Với sự phối hợp vận động tăng lên, trẻ em có thể sử dụng cả hai tay để xoay một đồ vật. Biện pháp này cho phép trẻ em xoay đồ vật xung quanh hoàn toàn bằng cách truyền từ tay này sang tay kia. | Từ 9 tháng đến 2 tuổi | Quả bóng, dùi trống, khối, đồ chơi xếp chồng, khối xây dựng bằng nhựa. |
| Mắc (cơ thể vào đồ vật) | Bắt đầu khi trẻ em có khả năng tách một ngón tay. Đó là khi trẻ có thể duỗi một ngón tay mà không cần duỗi tất cả các ngón tay khác. Sau đó trẻ bắt đầu khám phá các đồ vật bằng cách đặt ngón tay của chúng vào trong các đồ vật hoặc di chuyển ngón tay của chúng dọc theo bên ngoài đồ vật. Khi trẻ lớn lên, chúng sẽ bắt đầu đưa các bộ phận cơ thể khác (tay, chân, đầu, v.v...) và toàn bộ cơ thể của chúng vào các đồ vật khi chúng khám phá. | Từ 6 tháng đến 10 tuổi | Khóa kéo, vòng dây thắt, ổ cắm điện, ống nhựa, lỗ mở chai, hộp các tông, chuồng chó, lan can và thanh chắn. |
| Mắc (đồ vật vào cơ thể) | Trẻ em khám phá đồ vật trong môi trường của chúng, cũng như cơ thể của chúng bằng cách đặt các đồ vật vào trong lòng. | Từ 2 đến 6 tuổi | Hạt, nhãn dán, đậu, tăm bông, nút/núm, đất nặn, chất nặn, các phần nhỏ từ đồ chơi. |
| Đập | Trẻ em có thể đập đồ vật để nghe những âm thanh mà các đồ vật khác nhau có thể tạo ra. Nó cũng có thể đưa ra phản hồi cho trẻ em về trọng lượng của đồ vật. | Từ 9 tháng đến 5 tuổi | Nồi và chảo có thìa gỗ, khối, bút màu, đồ chơi xếp chồng, đồ chơi phát ra tiếng động khi đập vào nhau hay trên bề mặt cứng. |
| Thả | Thả đồ vật bắt đầu từ rất sớm trong cuộc đời của một đứa trẻ. Kiểu khám phá này cho phép trẻ em bắt đầu học được rằng các đồ vật tiếp tục tồn tại ngay cả khi nằm ngoài tầm mắt và trẻ có thể có mức độ kiểm soát nhất định về những hành động của cha mẹ chúng hay người trông nom trẻ. | Từ 6 tháng đến 3 tuổi | Dụng cụ cho ăn, núm vú giả, quả bóng, đồ chơi nhỏ, đồ chơi nảy lên hoặc phát ra tiếng động khi thả. |
| Ném | Trẻ em bắt đầu ném bất cứ thứ gì chúng có thể nắm được. Biện pháp này có thể cung cấp thông tin cho trẻ em về trọng lượng, cũng như bài tập về các kỹ năng vận động và báo cáo năng lực. | Từ 1 đến 4 tuổi | Quả bóng, đĩa nhựa nhẹ, đồ chơi vải lông, đồ chơi vừa với tay trẻ, đồ vật bất kỳ khi trẻ tức giận hoặc nản chí. |
| Trò chơi tưởng tượng | Khi trẻ không còn hài lòng với việc sử dụng các đồ vật theo ý muốn nữa, chúng bắt đầu tách ra và khám phá tất cả các khả năng khác nhau của đồ vật. Điều này có thể dẫn đến việc thử nghiệm với tất cả các biện pháp trước đó về một đồ vật nhất định khi trẻ cố gắng vượt qua các giới hạn của đồ vật và có được sự bắt chước tối ưu. | Từ 3 đến 10 tuổi | Quần áo hóa trang, búp bê, đồ chơi khủng long, ô tô, xe lửa, thế giới thu nhỏ (lâu đài, nhà búp bê, nhà bếp, v.v.), đóng vai y tá hoặc bác sĩ |
| Kiểm tra giới hạn | Trẻ em thường quan tâm đến việc kiểm tra giới hạn của đồ vật bằng cách tăng rủi ro liên quan đến việc sử dụng chúng. Câu trả lời cho những câu hỏi này hỗ trợ trẻ em hiểu biết về các đồ vật và sự biến đổi các đồ vật có thể trải qua. Ý thức của trẻ về nguyên nhân và kết quả và rủi ro có thể xảy ra với bản thân chúng chưa được phát triển tốt. Thực tế, trẻ em ở giai đoạn này thường tự nhận thức là không thể bị đánh bại. | Từ 3 đến 10 tuổi | Thiết bị sân chơi, xe đẩy và đồ chơi cưỡi ngựa, thiết bị thể thao, giữ thăng bằng trên tường hoặc trèo cây, thử các động tác aerobic bằng xe đạp hoặc ván trượt. |
5.2 Áp dụng kiến thức về sự phát triển của trẻ em để ngăn ngừa tổn hại
Khi xây dựng hay soát xét một tiêu chuẩn sản phẩm, cần xem xét đến việc sử dụng hợp lý có thể dự đoán được của trẻ em. Các đặc điểm mô tả trong 5.1 giúp dự đoán cách trẻ sẽ tương tác với một sản phẩm.
VÍ DỤ 1: Thiết kế thiết bị lưu trữ: trẻ em thích khám phá kích thước cơ thể so với vật chứa, ví dụ: túi đựng đồ hoặc tủ lạnh. Nếu khoảng trống cho phép phần thân dưới lọt vào thiết bị mà không lọt đầu thì trẻ có thể bị tổn hại. Nếu toàn bộ cơ thể có thể lọt vào thì cần có đường thở nếu không trẻ có rủi ro bị ngạt. Nếu thiết bị trữ nước, trẻ có rủi ro bị chết đuối.
VÍ DỤ 2: Thiết kế thiết bị điện: trẻ em sẽ bị thu hút bởi đèn nhấp nháy, âm thanh và các nút bấm. Do đó điều quan trọng là phải loại bỏ các thành phần nguy hiểm, ví dụ: các cạnh sắc, các vật vướng, các bộ phận nhỏ, các bộ phận chuyển động và tiếp cận với pin.
VÍ DỤ 3: Trẻ em thường bắt chước người lớn, trẻ lớn hơn và các nhân vật truyền thông: điều này dẫn đến việc trẻ em sử dụng các sản phẩm mà người lớn thường sử dụng, không dành cho trẻ. Hành vi này nguy hiểm khi trẻ em không hiểu được ý nghĩa hành động của chúng. Ví dụ, chúng có thể cho em nhỏ hơn uống thuốc, mở khóa và bật các thiết bị.
VÍ DỤ 4: Bao bì, đặc biệt nếu nó có nhiều màu sắc và thu hút trẻ em (ví dụ: hình thù đồ chơi), có khả năng dẫn đến việc trẻ sử dụng sản phẩm đó một cách tưởng tượng.
Không thể mong đợi trẻ em nhận ra sự khác biệt giữa đồ vật thật và đồ mô phỏng hoặc mô hình, cả hai đều có thể gây tổn hại. Việc sử dụng hình ảnh trên các sản phẩm có thể thu hút trẻ em, chẳng hạn như các các nhân vật hoạt hình hoặc các sản phẩm được thiết kế trông giống nhân vật hoạt hình, ví dụ: máy sấy tóc, đèn lồng và bật lửa có thể khiến trẻ coi chúng như đồ chơi. Điều này có thể dẫn đến việc sử dụng không thích hợp và không an toàn.
5.3 Độ tuổi theo thời gian so với độ tuổi phát triển
Khi xem xét các rủi ro mà trẻ em gặp phải, cần lưu ý rằng tuổi đời không phải lúc nào cũng phù hợp với tuổi phát triển, nghĩa là trẻ em cùng tuổi có thể phát triển khác nhau đáng kể.
Ví dụ, trong phạm vi độ tuổi hẹp, một số trẻ 12 tháng tuổi có thể biết đi trong khi những đứa trẻ khác vẫn đang bò; một tỷ lệ nhỏ trẻ 4 tuổi có thể mở các hộp đựng được chứng nhận là an toàn cho trẻ em trong khi phần lớn trẻ không thể mở được và một số trẻ 8 tuổi sẽ thực hiện có ý thức các kỹ năng khi băng qua đường trong khi những trẻ khác có thể hành động không thể đoán trước được.
5.4 Từ 16 tuổi trở lên
Trong tiêu chuẩn này, trẻ em được xác định là dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, mặc dù ngoài phạm vi áp dụng của tiêu chuẩn này, điều quan trọng cần lưu ý là sự phát triển không dừng lại ở 16 tuổi. Nhu cầu độc lập có thể dẫn đến hành vi mạo hiểm. Sự phát triển và trưởng thành của não thường vẫn tiếp tục sau tuổi 20.
6 Môi trường an toàn cho trẻ em
6.1 Khái quát
Ngoài sự phát triển của trẻ, môi trường tự nhiên và xã hội cũng ảnh hưởng đến cách trẻ tương tác với sản phẩm. Môi trường tự nhiên và môi trường được tạo ra, khí hậu, ngôn ngữ, thói quen, các quan điểm và niềm tin, kiến thức và kinh nghiệm của người sử dụng đều ảnh hưởng đến an toàn sản phẩm.
Khả năng và mức độ nghiêm trọng của thương tích có thể tăng lên khi có sự hiện diện và sự tham gia của nhiều hơn một đứa trẻ.
VÍ DỤ 1: Thương tích trên giàn nhún thường xảy ra do một đứa trẻ va vào đứa trẻ khác khi đang ở trên đó.
VÍ DỤ 2: Một đứa trẻ có thể cho một đứa trẻ khác uống thuốc, bắt chước hành vi của người lớn.
VÍ DỤ 3: Một đứa trẻ có thể khuyến khích hành vi nguy hiểm ở những đứa trẻ khác thông qua áp lực từ bạn bè.
CHÚ THÍCH: Tỷ lệ thương tích đáng kể có liên quan đến sự tham gia của đứa trẻ thứ hai.
6.2 Môi trường vật lý
Việc sản xuất và bảo quản nguyên liệu thô và các sản phẩm trong môi trường không vệ sinh có thể dẫn đến ô nhiễm.
Cần phải xem xét việc sử dụng các sản phẩm trong nhiều môi trường. Sản phẩm có thể được sử dụng trong môi trường khác ngoài dự kiến. Ví dụ như:
- lều cắm trại bật lên được dựng trong nhà như nhà chơi của trẻ em;
- giàn nhún được dùng trong nhà;
- thiết bị điện trong nhà được dùng bên ngoài;
- máy phát điện ngoài trời được dùng trong nhà;
- các thiết bị hoạt động trong nhà được lắp đặt ngoài trời có mối nguy bị ảnh hưởng bởi thời tiết;
- các thiết bị y tế được sử dụng trong môi trường gia đình, ví dụ: bình oxy, máy khử rung tim, giường bệnh;
- pháo hoa dùng ngoài trời đôi khi được sử dụng trong nhà hoặc không gian kín một phần.
6.3 Môi trường xã hội
Các nhà thiết kế sản phẩm cần nhận thức và giải quyết các vấn đề do sự phát triển công nghệ và xuất hiện các mối nguy, bao gồm cả các sản phẩm hiện đang được trẻ em sử dụng bất kể mục đích ban đầu của nhà sản xuất. Cũng có một số ví dụ về sản phẩm dự kiến cho trẻ em sử dụng, nhưng lại được các nhóm tuổi nhỏ hơn sử dụng so với dự kiến ban đầu. Các sản phẩm đó có thể thiếu các tiêu chuẩn phù hợp phản ánh độ tuổi của người sử dụng hiện tại.
Có xu hướng “trẻ hóa”; điều này thường được gọi là trẻ em “già trước tuổi”. Xu hướng là cho trẻ nhỏ sử dụng quần áo và giày dép, đồ trang sức, khuyên tai mô phỏng, đồ trang điểm và các thiết bị điện tử kỹ thuật số mà người lớn đã từng sử dụng.
Mối quan hệ giữa cha mẹ và những người trông nom trẻ khác và trẻ em có thể thay đổi tùy theo sự khác biệt về địa lý, văn hóa/dân tộc và kinh tế xã hội. Các chuẩn mực văn hóa khác nhau về kỷ luật, giám sát và nhận thức an toàn cần được công nhận. Lối sống của trẻ em không ngừng thay đổi, với sự khác biệt giữa các hoàn cảnh địa lý, văn hóa/dân tộc và kinh tế xã hội. Ví dụ, trẻ em đang ngày càng được đưa đến trường nhiều hơn, hoặc các hoạt động giải trí và xã hội tập trung nhiều hơn vào các hoạt động ít vận động như máy tính và trò chơi điện tử.
Khi trẻ bước vào tuổi dậy thì, áp lực từ bạn bè và việc chấp nhận rủi ro có thể ảnh hưởng đến việc sử dụng hoặc tiêu thụ sản phẩm. Các hoạt động giải trí có thể gắn với hành vi rủi ro cao hơn liên quan đến sự bảo vệ được cho là tăng cường từ thiết bị “an toàn”, hành vi hung hăng vốn có trong tính chất cạnh tranh của thể thao và rủi ro lớn hơn liên quan đến hành vi tạo sự chú ý.
6.4 Môi trường ngủ
Trẻ em cần một khoảng thời gian đáng kể để ngủ. Trẻ dành nhiều thời gian trong phòng ngủ và không có sự giám sát kéo dài khiến phòng ngủ trở thành một môi trường khác thường và đặc biệt. Cũng có thể có trẻ em khác ở cùng phòng làm tăng khả năng tổn hại.
Cũi, giường hay sản phẩm ngủ khác cũng như môi trường xung quanh của trẻ cần phải an toàn không chỉ khi trẻ đang ngủ mà cả khi thức trước hoặc sau khi ngủ khi chúng có thể không được giám sát trong một thời gian dài.
Môi trường ngủ an toàn không chỉ là một chiếc cũi/giường an toàn. Các sản phẩm thường được sử dụng kết hợp với cũi/giường: đồ nội thất và phụ kiện và các vật dụng khác như quần áo và đồ chơi cũng cần được xem xét. Nhiều mối nguy tiềm ẩn trong môi trường ngủ được nêu trong Điều 7.
Nhu cầu lắp ráp, bảo dưỡng và kiểm tra thích hợp để đảm bảo các sản phẩm duy trì kết cấu chắc chắn và không bị hỏng cũng rất quan trọng. Cần ghi nhãn và hướng dẫn rõ ràng cho người tiêu dùng để hỗ trợ các vấn đề này. Các sản phẩm ngủ cần được thiết kế để ngăn ngừa việc lắp ráp sai hay gây nguy hiểm, hoặc làm cho tình trạng đó trở nên rõ ràng ngay lập tức.
Vị trí của đồ đạc, bao gồm cả cũi và giường cũng cần được xem xét, để cho trẻ em không thể rơi vào các tình trạng nguy hại, ví dụ: mở cửa sổ cũng như với tới các đồ vật nguy hiểm, như sợi dây trên rèm che cửa sổ hay thiết bị giám sát trẻ em. Điều này có thể đòi hỏi thiết kế các phòng để tạo ra các bố trí an toàn trong phòng ngủ.
Nhiều sản phẩm dành cho trẻ em không thích hợp để ngủ khi dùng cho trẻ dưới 12 tháng tuổi, ví dụ: ghế xe ô tô, xe đẩy, giường nước hoặc giường có thành giường, dây treo, võng. Cha mẹ và những người trông nom trẻ khác hầu như không biết đến rủi ro ngạt thở do tư thế.
Các sản phẩm ngủ cần phải có hướng dẫn rõ ràng và dễ thực hiện để đảm bảo lắp ráp, sử dụng và bảo dưỡng đúng cách và bao gồm cả các hướng dẫn cảnh báo có liên quan, đặc biệt là thời điểm bắt đầu và ngừng sử dụng các sản phẩm.
Giấc ngủ an toàn không chỉ đơn thuần là đặt trẻ nằm ngửa để ngăn ngừa hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS). Các vấn đề như nhiệt độ phòng và hút thuốc trong môi trường có em bé đều có liên quan. Hướng dẫn chi tiết về cách ngăn ngừa SIDS nằm ngoài phạm vi của tiêu chuẩn này. Hướng dẫn về vấn đề này có thể nhận được từ các chuyên gia y tế và các tổ chức liên quan đến sức khỏe và sự phát triển của trẻ sơ sinh.
7 Các mối nguy liên quan đến trẻ em
7.1 Khái quát
Khi xem xét đến các thực tế nêu trong Điều 6, các rủi ro gắn với sản phẩm có thể rất cao đối với trẻ em. Các mối nguy liên quan đến sản phẩm và những nguy cơ tiềm ẩn gây thương tích cho trẻ em sẽ được thảo luận dưới đây. Các ví dụ dựa trên loại thương tích được báo cáo sẽ được cung cấp để người sử dụng tiêu chuẩn này hiểu về các mối nguy. Một điều rất quan trọng là cần nhận thức được rằng các mối nguy riêng biệt có thể kết hợp với nhau và gây ra các thương tích có thể khác hay nặng nề hơn so với tổn hại do từng mối nguy gây ra.
Một điều cũng quan trọng là cần nhận thức được các mối nguy mới có thể nảy sinh và tác động vào môi trường của trẻ do sự phát triển của công nghệ và sự thay đổi phong cách sống, như làm việc tại nhà và chăm sóc sức khỏe tại nhà (ví dụ: sử dụng các bình khí và thiết bị quan sát).
Nói chung, cần phải xem xét tất cả các nhóm tuổi trong việc đánh giá các mối nguy. Nhiều mối nguy sẽ áp dụng cho người lớn cũng như trẻ em, mặc dù trẻ em thường sẽ nhạy cảm với những tổn hại gây ra, ví dụ: từ các mối nguy về hóa học và các mối nguy về nhiệt.
Khi xem xét đến tính an toàn của sản phẩm, cần xem xét đến các điều kiện trong đó sản phẩm sẽ được sử dụng. Ví dụ, nếu sản phẩm được thử nghiệm trong tình trạng mà thông thường nó không được sử dụng trên thực tế thì đặc tính hoạt động của nó thực tế sẽ khác biệt. Tương tự, khi một sản phẩm được dự định hoặc có thể được sử dụng kết hợp với một sản phẩm khác, như ghế cho trẻ sơ sinh trong bồn tắm hay ghế an toàn cho trẻ trong ô tô, thì cần phải kiểm tra hiệu suất của cả hai hệ thống kết hợp để giảm thiểu rủi ro và đảm bảo không có mối nguy mới nào xuất hiện.
Một sản phẩm có thể gây tử vong hay gây thương tích ở các giai đoạn khác nhau của vòng đời, bao gồm cả khi thời gian sử dụng hữu ích hoặc dự kiến của nó. Điều quan trọng là khi một sản phẩm đã đến lúc bị bỏ đi thì nó không gây ra các mối nguy mới. Ví dụ, trẻ em có thể lấy viên pin lithium hoặc pin cúc áo đã qua sử dụng ra và nuốt chúng. Tương tự, thiết kế để giảm thiểu nhu cầu bảo dưỡng, cùng với việc bảo dưỡng sản phẩm đúng cách và kịp thời, có thể làm giảm việc hình thành các mối nguy.
Bao bì dự kiến được giữ lại như một phần của sản phẩm cần phải được coi là một phần không tách rời của sản phẩm, ví dụ: khối lắp ghép dành cho trẻ em được để trong hộp đựng. Ngay cả khi không có ý định giữ lại, bao bì có thể hấp dẫn trẻ em vì vậy bất kỳ yếu tố an toàn nào cũng cần được đánh giá.
7.2 Mối nguy cơ học và ngã
7.2.1 Khoảng trống và khe hở
Các khoảng trống và khe hở có thể tiếp cận được có thể làm tăng các rủi ro bị kẹt hoặc vướng toàn bộ hay một phần cơ thể và vướng quần áo hay các phụ kiện. Việc bị kẹt và vướng không chỉ giới hạn ở các sản phẩm dạng cứng mà còn có thể xuất hiện ở các vòng dây thắt hay lưới. Hình 1 đưa ra ví dụ minh họa về các tình huống bị kẹt và vướng. Khi đánh giá khoảng trống và khe hở, nên sử dụng các đầu dò khả năng tiếp cận ngón tay có liên quan và các thiết bị kiểm tra thân và đầu được xác định trong các tiêu chuẩn hiện hành. Các thương tích tiềm ẩn bao gồm vết bầm tím, cắt đứt chi và bị siết cổ (xem 7.6). Đầu hoặc cơ thể có thể bị mắc kẹt trong những tình huống khi trẻ không có khả năng nâng trọng lượng cơ thể lên để giảm bớt áp lực. Với trường hợp đầu bị vướng, đặc biệt nếu chân của trẻ không thể chạm tới bề mặt đứng thì có rủi ro cao gây thương tích nghiêm trọng hoặc tử vong.
Xe đẩy, xe ngựa, thiết bị di động nhỏ và các thiết bị tương tự có thể có khoảng trống thay đổi khi trẻ em bước vào hoặc ra khỏi chúng (hoặc khi được chuyển đổi từ hình dạng này sang hình dạng khác, chẳng hạn như bằng cách gấp lại hoặc mở ra). Chúng cần phải được thiết kế để loại bỏ những khoảng trống nguy hiểm gây ra mối nguy bị vướng hoặc xiết cổ do vướng vào quần áo hoặc mối nguy dập nát hoặc cắt đứt ngón tay/chân trong các di chuyển đó. Vấn đề này cũng liên quan đến các chi tiết nhô ra (xem 7.2.2) cũng như các cạnh và đầu nhọn (xem 7.2.3).
Đối với khe hở có thể thay đổi theo cỡ, xem thêm 7.2.6.
Bị kẹt đầu xảy ra theo hai cách khác nhau:
a) đưa đầu qua trước, ví dụ: qua các chấn song của ban công hoặc lưới leo trèo, và
b) đưa chân qua trước, ví dụ: qua các song chắn của giường.
Khoảng cách giữa thanh để của cũi và giường và giữa các thanh chắn của cũi cần phải đảm bảo tránh rủi ro bị kẹt đầu nếu cơ thể có thể lọt qua các khe hở.
Bị kẹt phần thân hoặc cổ có thể làm ngạt thở.
VÍ DỤ 1: Hàm bị mắc kẹt trong các khe hở nhỏ có giới hạn.
VÍ DỤ 2: Các ngón tay có thể bị kẹt trong cơ cấu lò xo, dây xích trên xích đu sân chơi, các cơ cấu gấp, v.v.... gây ra gãy xương, bị tróc da hay làm cho máu không cung cấp được đến đầu các ngón tay.
VÍ DỤ 3: Dây hoặc ruy băng lỏng lẻo trên quần áo trẻ em bị rơi vào các khe hở hoặc khoảng trống hình chữ V có chiều rộng đủ cho dây nhưng lại quá hẹp cho nút hay nút buộc ở cuối. Khi nút hay nút buộc bị vướng, hoạt động của trẻ bị dừng đột ngột. Khi các dây này nằm ở phần cổ áo, trẻ có thể bị xiết cổ.
VÍ DỤ 4: Khe hở hoạt động giống như cửa sập, nghĩa là cho phép vào tự do và không bị cản trở theo một hướng và tự động khép lại khi chuyển động theo hướng ngược lại, chẳng hạn như cửa nắp trên một số hộp thư. Điều này có thể dẫn đến việc các chi bị kẹt.
VÍ DỤ 5: Dây trên rèm cửa sổ và rèm cửa có thể gây nghẹt thở, đặc biệt là trong phòng ngủ của trẻ em.
Biện pháp tránh hay giảm thiểu rủi ro do các khoảng trống và khe hở bao gồm:
- tránh các khoảng trống;
- quy định kích thước cho các khoảng trống và khe hở liên quan đến dữ liệu nhân trắc học của trẻ đang phát triển.
7.2.2 Chi tiết nhô ra
Các chi tiết nhô ra có thể tạo ra các vùng bị va đập hay làm quần áo và các phụ kiện vướng vào. Các thương tích gây ra có thể là bị kẹp, bị rách da thịt, bị đâm vào da thịt hay các vết thương ở ngoài da. Các vòng trên các dây (quần áo) hay vòng cổ v.v...có thể quấn xung quanh các chi tiết nhô ra có thể làm trẻ bị xiết cổ.
VÍ DỤ 1: Quần áo của trẻ em, đặc biệt là dây và mũ liền có thể mắc vào các cọc ở góc của nôi cũi, các cọc ở trên đỉnh cầu trượt hay các bu lông nhô ra, gây nghẹt thở.
VÍ DỤ 2: Các cọc nhô ra theo phương ngang ở độ cao gần bằng độ cao của đầu trong các thiết bị sân chơi dẫn đến đến các thương tích ở đầu.
VÍ DỤ 3: Trẻ bị ngã hoặc ngồi lên đồ chơi trong bồn tắm, gậy lặn hoặc đầu trục của đồ chơi có bánh xe khi các đầu nhô ra ngoài mặt bánh xe, gây thương tích đâm xuyên hoặc đâm thủng.
VÍ DỤ 4: Các đai ốc và bu lông nhô ra trong thiết bị sân chơi có thể gây ra vết rách trên cơ thể và đầu.
Các biện pháp để tránh hoặc làm giảm rủi ro do các chi tiết nhô ra bao gồm:
- tránh các chi tiết nhô ra không cần thiết;
- đảm bảo rằng các chi tiết nhô ra có hình dạng được làm tròn và nhô ra khỏi bề mặt càng ít càng tốt. Các dây, xích hay thiết bị thử nghiệm khác có thể được sử dụng để đánh giá mối nguy.
7.2.3 Các cạnh sắc và đầu nhọn
Việc tiếp xúc với các cạnh, đầu và góc nhọn có thể dẫn đến vết rách, vết thương đâm thủng hoặc vết thương do cùn. Nhiều sản phẩm mà trẻ tiếp cận ở trong nhà hay trong môi trường học tập được làm cho sắc hay nhọn để đáp ứng các yêu cầu chức năng của sản phẩm (ví dụ; dao, kim, thiết bị nhà bếp hay các dụng cụ làm vườn hay trong gara).
Các cạnh sắc và đầu nhọn có thể phát sinh khi đồ vật bị vỡ. Thủy tinh sử dụng trong các sản phẩm gia dụng (bình nước, bàn, đồ gia dụng khác) và các chi tiết kiến trúc (ví dụ: cửa ra vào, cửa sổ, các tấm chắn) gây ra mối nguy đặc biệt khi chúng bị vỡ. Các gờ sắc và ba via không được cắt gọt trên các vật liệu cứng như nhựa đúc và tấm kim loại bị cắt cũng là những cạnh sắc phổ biến.
Hành vi thông thường của trẻ em là đưa một vật sắc nhọn vào miệng và đi hay chạy khi mang đồ vật theo cách này.
VÍ DỤ 1: Các vết rách trên mặt, bị thương ở răng hay mắt có thể là hậu quả của sự va chạm với góc bàn có độ cong nhỏ ở nhà hay các bề mặt làm việc ở bếp.
VÍ DỤ 2: Đã có trường hợp trẻ bị rơi xuống bàn có mặt kính không “an toàn” đã bị tử vong do bị đứt động mạch chủ. Các va chạm với các bề mặt bằng thủy tinh thẳng đứng loại không “an toàn” ở cửa hay các đồ vật khác cũng có thể dẫn đến thương tích đe dọa tính mạng.
VÍ DỤ 3: Bị ngã khi đang ngậm đồ vật trong miệng, ví dụ: bàn chải đánh răng hay dĩa, có thể dẫn đến bị thương do bị đồ vật xuyên vào vòm miệng hoặc tắc nghẽn đường thở.

Hình 1 - Ví dụ về việc bị kẹt và vướng vào các khoảng trống
Các biện pháp để tránh hay làm giảm các rủi ro do các góc, cạnh và đầu nhọn bao gồm:
- tránh, bảo vệ hoặc uốn các mép của các cạnh nhô ra để làm giảm rủi ro bị rách da;
- sử dụng loại kính khó vỡ hoặc vỡ theo cách mà các mảnh vỡ không gây các thương tích nghiêm trọng (kính “an toàn”). Ở một số vị trí có rủi ro cao ở nhà hay một số nơi có trẻ chạy nhảy tự do, cần cân nhắc việc sử dụng các vật liệu khác thay cho kính trong kiến trúc;
- hạn chế việc tiếp xúc của trẻ em với các đồ vật có đầu nhọn như bút, bút chì hay kim đan;
- hạn chế việc tiếp xúc của trẻ em với các bộ phận sắc của các dụng cụ bằng cách bảo vệ thích hợp hay gây ra khó khăn cho trẻ khi sử dụng dụng cụ;
- dạy trẻ sử dụng các dụng cụ sắc khi chúng có thể làm điều đó dưới sự giám sát chặt chẽ, trong những lần đầu dạy trẻ nên sử dụng các dụng cụ có mức độ nguy hiểm ít hơn (ví dụ: kéo không có đầu nhọn).
7.2.4 Độ ổn định
Một sản phẩm không ổn định có thể bị đổ và làm cho trẻ đang ở bên trong, trèo lên hay ở bên cạnh bị thương. Tính chất của tổn hại có thể thay đổi tùy thuộc vào chức năng của sản phẩm đó. Ví dụ:
a) bị bỏng bởi chất lỏng nóng khi nồi đun bị đổ;
b) bị thương do đồ đạc hay ti vi rơi, v.v...
c) bị bỏng do đèn dầu đặt tự do không chắc chắn.
VÍ DỤ 1: Đồ nội thất cao, quá nặng hay có bánh xe, như các kệ để ti vi, gây ra rủi ro khi trẻ em kéo hay đẩy chúng
VÍ DỤ 2: Các bàn có chân đế có thể bị đổ khi gắn ghế vào.
VÍ DỤ 3: Các cánh cửa mở của máy rửa chén hay lò nướng, hay các ngăn kéo trong tủ đựng đồ có thể gây ra các tình huống nguy hiểm khi nó được dùng để làm vật trèo lên.
VÍ DỤ 4: Cột khung thành có thể di chuyển và thiết bị sân chơi đứng tự do không được cố định chắc chắn vào mặt đất đã bị lật đổ và gây tử vong.
VÍ DỤ 5: Một vài loại bếp sử dụng nhiên liệu dầu mỏ không ổn định và đặc biệt nguy hiểm do sự có mặt của nhiên liệu và lửa ở bên trong.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro do không đảm bảo về độ ổn định bao gồm:
- thiết kế các sản phẩm có các đặc điểm như trọng tâm thấp, vị trí của các điểm tiếp xúc với bề mặt đỡ làm chúng có thể chịu được các tải trọng làm mất thăng bằng có thể dự đoán trước;
- cung cấp các thiết bị neo cho sản phẩm có khả năng không ổn định (ví dụ: các cột khung thành có thể di chuyển, đồ nội thất);
- giới hạn ảnh hưởng của việc tràn sản phẩm ra ngoài (ví dụ: cốc chống tràn).
7.2.5 Tính toàn vẹn về kết cấu (độ bền cơ học)
Tính toàn vẹn về kết cấu không đạt có thể dẫn đến gãy sản phẩm, có thể làm các chi tiết nhỏ rời ra và dẫn đến các mối nguy khác. Điều này có thể gây ra nhiều thương tích như gãy xương, bị thương ở bên trong, vết rách và nghẹt thở vì những chi tiết nhỏ.
Sản phẩm cũng có thể bị hỏng trong vòng đời của nó do việc bảo trì không đầy đủ hay không thích hợp.
Một số sản phẩm được dự kiến lắp ráp hay lắp đặt chỉ một lần (ví dụ: tủ quần áo, xe đạp hay các cấu trúc của môi trường xây dựng như hàng rào), hay nhiều lần (ví dụ: xe đẩy gấp). Tính an toàn các sản phẩm tự lắp ráp phụ thuộc vào thiết kế của sản phẩm, tính đầy đủ của hướng dẫn và kỹ năng của người lắp ráp. Các sản phẩm được lắp ráp mỗi lần sử dụng thường bao gồm các cơ cấu khóa nên có thể không khóa được một các đúng đắn. Ngoài ra, trẻ em có thể tiếp cận và tháo chúng ra. Cần có các biện pháp bảo vệ để đảm bảo bất cứ khi nào cơ cấu khóa không thể tiếp cận được đối với trẻ em hay cản trở trẻ em tác động đến. Cần cho người dùng thấy rõ khi cơ cấu khóa không được gài đúng cách.
VÍ DỤ 1: Bàn uống cà phê có mặt kính, mà trẻ em và người lớn tưởng là chắc chắn, đã bị vỡ khi trẻ đứng hoặc ngồi lên bàn, gây ra rách da nghiêm trọng.
VÍ DỤ 2: Thiết bị dùng cho sân chơi có thể bị hỏng do lắp ráp, kiểm tra hay bảo trì không đầy đủ. Đã xảy ra tử vong khi xích đu bị gãy.
VÍ DỤ 3: Các ghế đẩy bị đổ khi có trẻ ngồi bên trong do khóa không cẩn thận, dẫn đến đứt rời các ngón tay.
VÍ DỤ 4: Sự xuống cấp của các chi tiết chính của sản phẩm có thể dẫn đến hư hỏng về cấu trúc, chẳng hạn như lưới hoặc tấm bạt lò xo nhiều năm tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm các rủi ro do không đảm bảo về tính toàn vẹn về kết cấu bao gồm:
- thiết kế sản phẩm có hệ số an toàn phù hợp nhằm giảm thiểu khả năng sập, gẫy/vỡ một cách không an toàn, nhận thức được người sử dụng sản phẩm có thể lớn tuổi hơn hoặc nặng cân hơn dự kiến của nhà sản xuất;
- thiết kế sản phẩm phải sao cho khi xảy ra sai sót thì ít có khả năng gây nguy hại;
- đảm bảo rằng nếu các sản phẩm ở tình trạng mà một hoặc nhiều trẻ em hay người lớn có thể ngồi lên, đứng lên hay trèo lên, thì sản phẩm thực sự có thể chịu được khối lượng.
- dán nhãn sản phẩm để tư vấn cho người tiêu dùng cách sử dụng hợp lý, bao gồm, ví dụ, tải trọng tối đa;
- thiết kế sản phẩm để làm giảm nhu cầu bảo trì. Nếu cần bảo trì, cần phải cung cấp các hướng dẫn đầy đủ;
- thiết kế và bảo trì cần xem xét đến các điều kiện môi trường địa phương để làm giảm tác động xuống cấp của sản phẩm;
- việc lắp ráp không đầy đủ hoặc không chính xác, bao gồm cả việc sử dụng cơ cấu khóa, hầu như không thể thực hiện được hay hiển nhiên rõ ràng (ví dụ: nếu lắp ráp không đúng cách, sản phẩm sẽ không thể sử dụng được, xem thêm 8.2);
- đảm bảo rằng các sản phẩm đa dụng hay đa chế độ có các vị trí điều chỉnh hay phụ tùng không gây nguy hiểm trong quá trình chuyển từ cấu hình này sang cấu hình khác.
- đảm bảo rằng cơ cấu khóa dẫn đến việc sập đổ của sản phẩm không thể được vận hành bởi trẻ em.
Sản phẩm phải có khả năng chịu được quá tải mà không bị sập.
Các phương pháp thử cần phản ánh việc sử dụng có thể dự đoán trước một cách hợp lý trong suốt vòng đời của sản phẩm.
7.2.6 Vật phóng và vật thể chuyển động/quay
Va chạm với các vật thể chuyển động có thể dẫn đến bị kẹp, nội thương, gãy xương, v.v... Mức độ nghiêm trọng của thương tích phụ thuộc vào khối lượng và tốc độ của các vật thể đó. Các yếu tố, ví dụ như hình dạng và vật liệu của vật thể, cũng có thể ảnh hưởng.
Thương tích do xe mô tô gây ra cho hành khách và người đi bộ là nguyên nhân quan trọng gây tử vong ở trẻ em. Một số cố gắng nhằm làm giảm khả năng gây chết và thương tích do xe cộ gây ra đã được nhắm đến bằng các biện pháp can thiệp thứ cấp như các hệ thống ghế an toàn cho trẻ em và túi khí tốt hơn. Không nên quá trông chờ vào các biện pháp bảo vệ sơ cấp. Các biện pháp này bao gồm nhưng không giới hạn ở việc thiết kế các con đường để định tuyến giao thông an toàn hơn, giảm tốc độ ở những khu vực có trẻ em, cung cấp ánh sáng tốt hơn và xây dựng những con đường nhỏ được bảo vệ cho người đi bộ và người đi xe đạp.
Việc tiếp xúc với các vật thể chuyển động và quay (ví dụ các cánh quạt, lưỡi dao của máy xay thực phẩm và các cơ cấu bản lề) có thể dẫn đến việc bị rách da thịt, đứt rời các chi hay các thương tích nghiêm trọng khác. Các tiếp xúc kiểu này cũng có thể làm tóc, quần áo, các phụ kiện bị quấn vào, ví dụ như trong thang cuốn, tháp trượt, thang máy và cửa xe buýt, gây ra việc bị nghẹt thở, lột da đầu hay bị kéo lê đi. Cũng cần đặc biệt chú ý sự tiếp xúc của các bộ phận cơ thể trong các khoảng trống làm thay đổi kích thước trong quá trình hoạt động, ví dụ: đóng cửa gara hoặc cửa kính ô tô điều khiển bằng điện và khung xe đẩy/xe đẩy gấp.
Vật phóng có thể đặc biệt nguy hiểm vì đường đi của chúng không phải lúc nào cũng có thể đoán trước được và năng lượng của chúng khi va chạm có xu hướng tập trung ở một khu vực tương đối nhỏ.
VÍ DỤ 1: Trẻ em đã phải chịu cảnh bị rụng tóc và tróc da đầu khi tóc của chúng bị cuốn vào máy nông nghiệp có bộ phận quay.
VÍ DỤ 2: Một vài dụng cụ nhà bếp có các chi tiết chuyển động và quay. Việc bị rách và đứt rời các ngón tay đã xảy ra với các máy xay, máy trộn và các thiết bị tương tự.
VÍ DỤ 3: Chân và tay của trẻ em bị kẹt trong các thiết bị sân chơi chuyển động, như đu quay.
VÍ DỤ 4: Các thang cuốn và thang máy làm kẹt các ngón tay, bàn tay, chân, quần áo và các phụ kiện của trẻ.
VÍ DỤ 5: Các nan hoa của bánh xe đạp không được che chắn tốt đã gây ra khá nhiều tai nạn ở chân của trẻ nhỏ khi trẻ được chở bằng xe đạp.
VÍ DỤ 6: Cửa có bản lề đã gây ra nhiều thương tích cho trẻ em, đặc biệt là ở bản lề.
VÍ DỤ 7: Khi kích thước của các khoảng trống thay đổi, trẻ hoặc các chi của trẻ có thể bị đè lên, ví dụ cửa gara hoặc cửa kính ô tô điều khiển bằng điện.
VÍ DỤ 8: Trẻ em bị kéo lê khi dây thắt lưng vướng vào cửa xe, thang máy và thang cuốn.
VÍ DỤ 9: Bỏng do ma sát và trầy xước có thể xảy ra khi tiếp xúc với các vật thể chuyển động hay quay như máy chạy bộ.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm các rủi ro do các vật thể chuyển động và quay bao gồm:
- giữ cho trẻ cách xa sản phẩm;
- giới hạn khối lượng hay tốc độ của vật thể chuyển động;
- cung cấp phương thức đầy đủ để dừng hoặc đảo chiều chuyển động của các vật thể;
- cung cấp phương thức phù hợp để hấp thụ năng lượng nếu xảy ra va đập;
- thiết kế sản phẩm sao cho các bộ phận chuyển động hay quay ở ngoài tầm với của trẻ em, ví dụ: bằng cách bao quanh hay bảo vệ nó;
- đảm bảo rằng khoảng cách giữa các bộ phận chuyển động đủ lớn hoặc đủ nhỏ để ngăn ngừa thương tích, các khoảng cách này phải dựa trên các dữ liệu nhân trắc học;
- lắp các khóa an toàn hay các biện pháp an toàn khác mà trẻ không thể tháo ra được.
7.3 Ngã và các thương tích do va đập khác
Thương tích do bị ngã xảy ra khi trẻ sơ sinh có thể di chuyển. Trẻ em thường sẽ leo lên các bề mặt cao, thậm chí trước khi chúng có thể đi được. Trò chơi và môn thể thao tích cực có thể gây ra những tác động có thể gây tổn hại.
Ngã từ trên cao và các tác động khác có thể dẫn đến thương tích ở bên trong (não và các cơ quan nội tạng khác) và gãy xương, đặc biệt là ở đầu, tay và chân. Loại và mức độ tổn hại phụ thuộc vào độ cao rơi, các các vật thể gặp phải trong khi rơi, hướng mà trẻ tiếp đất, trọng lượng của trẻ và bản chất của bề mặt mà trẻ rơi xuống. Ở những nơi khác, thương tích nghiêm trọng có thể xảy ra do ngã từ tường, mái nhà, vách đá và các môi trường ngoài trời khác.
VÍ DỤ 1: Tại nhà, các cú ngã nghiêm trọng nhất là từ những khoảng trống có thể tiếp cận được (cửa sổ và cửa ra vào) và từ cầu thang.
VÍ DỤ 2: Ban công có các thanh chắn mà trẻ có thể chui xuống dưới hay trèo qua có thể gây ra những cú ngã chết người.
VÍ DỤ 3: Trẻ em có thể bị ngã ở các sân chơi khi sử dụng thiết bị không phù hợp với năng lực của trẻ.
VÍ DỤ 4: Việc bị gãy xương liên quan đến thể thao và giải trí tăng theo độ tuổi của trẻ em và sự tham gia vào các hoạt động nơi bị ngã do va chạm.
VÍ DỤ 5: Trẻ sơ sinh có thể bị ngã từ các bàn thay tã không có đai an toàn hay được thiết kế không có bảo vệ bên cạnh.
VÍ DỤ 6: Bị ngã có thể xảy ra do trẻ em mang giày dép không phù hợp, ví dụ: giầy cao gót.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm các rủi ro do độ cao nguy hiểm bao gồm cả việc ngăn ngừa bị ngã và làm giảm hậu quả của việc bị ngã.
Có thể ngăn ngừa ngã bằng cách:
- thiết kế bảo vệ ban công hiệu quả;
- giảm khả năng trẻ em trèo lên, bằng cách thiết kế, ví dụ: bằng cách sử dụng các chi tiết thiết kế theo chiều thẳng đứng hơn là theo chiều ngang (loại bỏ chỗ bám chân và ngón chân) và kết hợp các rào chắn;
- ngăn cản việc tiếp cận đầu và cuối cầu thang;
- lắp các tấm chắn ở cửa sổ và các cơ cấu khóa trong các tòa nhà;
- sử dụng các cấu trúc có kích thước sao cho trẻ có thể có được chỗ bám tay an toàn;
- cung cấp các lan can và rào chắn có chiều cao thích hợp xung quanh các sản phẩm như cũi và giường cao và thiết bị sân chơi;
- cung cấp các hướng dẫn về sử dụng sản phẩm thích hợp (ví dụ: thiết bị sân chơi), đặc biệt liên quan đến tuổi, kích thước, cân nặng, v.v...
Có thể làm giảm hậu quả của việc bị ngã bằng cách:
- giảm độ cao rơi tiềm ẩn, thiết kế và lắp đặt sản phẩm để tránh việc tiếp xúc với các mối nguy nếu trẻ bị ngã hay cung cấp các bề mặt bằng vật liệu hấp thụ năng lượng;
- thiết kế các thiết bị và môi trường an toàn phù hợp;
- đảm bảo các quy định về các hoạt động thể thao hay giải trí phản ánh khả năng và mức độ phát triển của những người tham gia.
7.4 Mối nguy do đuối nước
Trẻ em bị nước thu hút nhưng khả năng thể chất của chúng không phù hợp với sở thích nước của chúng. Chúng thường không kêu lên hay gây tiếng động lớn khi đuối nước; trong thực tế sự việc có thể hoàn toàn trong im lặng. Trẻ sơ sinh và trẻ mới biết đi dễ bị đuối nước; thậm chí một lớp nước nông cũng có thể gây tử vong nếu mặt trẻ bị tiếp xúc.
Môi trường, mức độ phát triển và năng lực của trẻ sẽ tác động đến rủi ro và địa điểm đuối nước. Trọng tâm cao của trẻ làm tăng rủi ro rơi vào bể bơi, xô, bồn cầu, bồn tắm, v.v., do đó làm tăng rủi ro chết đuối. Trẻ em cũng có thể bị chết đuối khi tóc hay bộ phận cơ thể của chúng bị cuốn xuống cống thoát của bể bơi/spa.
VÍ DỤ 1: Trẻ em có thể bị chết đuối khi chúng cố đi qua các tấm đậy bể nước và ngã xuống bể chứa nước hay khi trẻ bị ngã xuống ao trong vườn khi ranh giới giữa mặt đất và nước bị cây cỏ che phủ.
VÍ DỤ 2: Trẻ nhỏ bắt chước người trông trẻ của mình giặt quần áo và bị ngã vào máy giặt cửa trên.
VÍ DỤ 3: Trẻ em bị mắc dưới tấm che mờ của bể bơi.
VÍ DỤ 4: Trẻ em bị chết đuối trong các thùng chứa nước.
VÍ DỤ 5: Trẻ em bị chết đuối khi bị bỏ lại trong nước mà không được giám sát, ví dụ: trên ghế tắm.
Các biện pháp để tránh và làm giảm rủi ro do đuối nước bao gồm:
- ngăn ngừa trẻ em, đặc biệt là trẻ mới biết đi và trẻ nhỏ tiếp cận với nước ở trong và xung quanh nhà, như hồ/bể bơi, ao vườn và thùng đựng nước;
- đậy các bể nước, giếng nước và các chỗ chứa nước khác bằng nắp đậy mà trẻ em không thể mở được;
- đóng các bể nước, giếng nước và các chỗ chứa nước khác bằng nắp đậy, v.v...
- đưa ra các cảnh báo không bao giờ để trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ một mình trong bồn tắm và nhấn mạnh thực tế rằng ghế tắm không phải là thiết bị an toàn;
- thiết kế môi trường nước dễ giám sát;
- thiết kế các hệ thống cảnh báo, như chuông, các thanh chắn hỗ trợ;
- đảm bảo rằng trẻ mang các thiết bị hỗ trợ nổi không theo quy định, ví dụ: đồ chơi trẻ em có cảnh báo thích hợp không được sử dụng như là các thiết bị an toàn;
- đảm bảo trẻ em mặc áo phao đã được phê duyệt trong các môn thể thao dưới nước phù hợp với kích thước và trọng lượng của trẻ.
- khi ở dưới hay xung quanh nước, trẻ em cần phải ở trong tầm nhìn và tầm với của người trông trẻ;
- những người không biết bơi cần phải đeo các thiết bị nổi được phê duyệt khi ở dưới và xung quanh nước.
Ngoài ra, các biện pháp liên quan đến bể bơi, bồn tắm nước nóng, công viên nước và các tình huống tương tự bao gồm:
a) giảm lực hút thông qua việc tăng diện tích bề mặt;
b) lắp đặt nhiều lỗ hút;
c) giảm tốc độ dòng chảy hiệu dụng qua cống;
d) định cỡ lưới thoát nước sao cho các đồ vật như đồ trang sức, ngón tay, ngón chân, quần áo hay tóc không thể bị vướng vào;
e) lắp đặt công tắc an toàn để tắt lỗ hút khi bị tắc;
f) lắp đặt khung không vừa với các bộ phận cơ thể, ngăn ngừa lực hút mạnh.
7.5 Mối nguy ngạt thở
7.5.1 Khái quát
Trẻ em khám phá môi trường xung quanh chúng bằng cách đưa toàn bộ hoặc một phần cơ thể vào các đồ vật. Chúng có thể bao bọc toàn bộ hoặc một phần cơ thể bằng những vật liệu không thấm khí, làm hạn chế khả năng thở hoặc hạn chế lượng oxy hấp thụ. Ngoài ra, ngạt thở có thể xảy ra do tư thế của trẻ. Vì chúng có đầu nặng và cổ yếu tương ứng, đầu của trẻ không được đỡ khi đang ngồi có thể chuyểnsang tư thế khiến trẻ khó thở. Điều này cũng có thể xảy ra nếu chúng ngủ trên bề mặt không thích hợp, chẳng hạn như bề mặt quá mềm hay nghiêng quá mức.
7.5.2 Vật liệu mềm dẻo
Các vật liệu không cho không khí đi qua có mối nguy gây ngạt thở, đặc biệt đối với trẻ nhỏ. Trong khi chơi, trẻ có thể úp vật liệu hoặc đồ vật đó lên mặt, đầu hoặc nằm lên trên.
Các sản phẩm có thể góp phần gây ra rủi ro này là các vật liệu mềm dẻo có hình dạng tạo khuôn mặt và do đó che mũi và miệng.
VÍ DỤ: Nghẹt thở và thương tích não không thể phục hồi có thể xảy ra khi trẻ em đặt các túi nhựa chùm lên đầu hay mặt của chúng.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro do các vật liệu mềm dẻo bao gồm:
- giới hạn kích thước của các vật liệu mềm dẻo để chúng không thể che được mũi và miệng;
- cung cấp các lỗ thông gió;
- hạn chế sử dụng và tiếp cận với giường, gối mềm và đồ chơi mềm đặc biệt đối với trẻ dưới 12 tháng tuổi;
- đảm bảo đệm chắc chắn và vừa khít với cũi;
- sử dụng vật liệu kém mềm dẻo hơn.
7.5.3 Không gian kín
Các không gian kín không cho không khí đi qua có mối nguy gây ngạt thở. Trong khi chơi, trẻ em có thể ẩn mình hoàn toàn trong sản phẩm.
Các sản phẩm có thể gây ra rủi ro bao gồm tủ đồ chơi, tủ lạnh cũ, các hộp cách nhiệt di động, cốp xe và túi đựng đồ.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro do không gian kín bao gồm:
- giới hạn kích thước không gian để trẻ không thể vào được;
- cung cấp các lỗ thông gió để đảm bảo thông gió đầy đủ cho không gian kín;
- thiết kế các sản phẩm có thể mở được từ bên trong, ví dụ: tủ lạnh, cốp ô tô, túi đựng đồ.
7.5.4 Mặt nạ và các đồ vật hình bán cầu và tương tự
Trẻ em sẽ đeo mặt nạ và các đồ vật hình bán cầu lên mặt của chúng như một phần của trò chơi tưởng tượng, dẫn đến tắc nghẽn luồng không khí. Ví dụ như hộp đựng thực phẩm dùng một lần, vật liệu đóng gói, mặt nạ trò chơi và mũ bảo vệ giả.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro do tắc nghẽn đường hô hấp ở miệng và mũi hay hút da mặt bao gồm:
- giới hạn kích thước của đồ vật để không thể che cả mũi và miệng;
- cung cấp các lỗ thông gió để cung cấp luồng không khí thích hợp;
- thay đổi hình dạng để ngăn ngừa việc bịt kín mũi và miệng.
7.5.5 Nghẹt thở do tư thế
Khi đặt trẻ nhỏ ở các tư thế ngồi hay đứng thẳng, đầu của chúng có thể ngã về phía trước, khiến đường thở của chúng bị hạn chế.
VÍ DỤ 1: Nôi tựa, ghế ngồi ô tô cho trẻ sơ sinh, địu trẻ em và ghế đẩy có thể không cung cấp đủ sự hỗ trợ cho đầu đặc biệt đối với các trẻ sơ sinh, khiến đầu của trẻ ngã về phía trước trong thời gian dài.
Tương tự, khi trẻ sơ sinh được đặt trên các bề mặt mềm, có thể xảy ra hiện tượng trẻ hít thở lại carbon dioxide.
VÍ DỤ 2: Ví dụ về các bề mặt mềm là đệm nước và ghế túi nệm.
Các biện pháp để tránh hay làmgiảm rủi ro do nghẹt thở tư thế bao gồm:
- thiết kế các sản phẩm sao cho được đỡ đầu;
- cung cấp thông tin cho các chuyên gia y tế và người trông nom trẻ;
- đưa ra các cảnh báo trên các sản phẩm để chỉ ra rằng không nên sử dụng chúng khi ngủ.
7.6 Mối nguy bị nghẹt thở
Bị nghẹt thở có thể dẫn đến hai kết quả khác nhau. Một là hạn chế cung cấp không khí cho phổi. Hai là can thiệp vào quá trình oxy hóa não. Nguyên nhân thường là do dây mềm, khoảng trống hình chữ V, quai mũ bảo vệ, các khoảng trống cổ quần áo, dải rút trên các vật dụng như quần áo và túi xách, đồ trang sức hay các vật dụng khác đeo vòng quanh cổ, lưới leo núi và rèm cửa sổ buộc bằng dây. Bị nghẹt thở thường là kết quả của sự kết hợp nhiều yếu tố: hoạt động và khám phá của trẻ em, sự thiếu nhận thức của người trông nom trẻ về các mối nguy bị nghẹt thở và thiết kế sản phẩm không phù hợp.
VÍ DỤ 1: Dây hay ruy băng không chặt trên quần áo của trẻ em rơi vào các khoảng trống hay khe hở hình chữ V đủ rộng cho dây nhưng lại quá hẹp cho nút bật hay nút thắt ở cuối. Khi nút bật hay nút thắt bị vướng, chuyển động của trẻ sẽ đột ngột dừng lại. Khi dây quấn vào cổ áo, trẻ em bị nghẹt thở.
VÍ DỤ 2: Quần áo của trẻ em, đặc biệt là các dây và mũ trùm đầu, có thể vướng vào các cột ở góc cũi, các cột ở đầu cầu trượt và các bu lông nhô ra, dẫn đến bị nghẹt thở.
VÍ DỤ 3: Dây trên rèm cửa sổ và màn che có thể gây nghẹt thở, đặc biệt là trong phòng ngủ của trẻ em.
VÍ DỤ 4: Trẻ em đội mũ bảo vệ xe đạp bị dây mũ bảo hiểm thắt cổ khi sử dụng thiết bị sân chơi mà cơ thể của chúng lọt qua một khe hở nhưng đầu đội mũ bảo vệ thì không lọt.
Các biện pháp có thể bao gồm:
- sản xuất nôi, cũi, giường tầng và thiết bị sân chơi không có phần nhô ra có thể vướng vào quần áo;
- sử dụng các tấm che cửa sổ không có dây hay không có vòng dây hay chiều dài nguy hiểm;
- sản xuất các thiết bị an toàn để ngăn ngừa các vòng dây hay chiều dài nguy hiểm của cửa sổ che các dây mà trẻ em có thể tiếp cận được;
- sản xuất quần áo trẻ em không có dây, đặc biệt ở cổ;
- tạo ra những chiếc vòng cổ sẽ bị gãy khi bị tác dụng lực;
- giáo dục người trông nom trẻ hay áp dụng các cảnh báo về các mối nguy bị nghẹt thở của sản phẩm được đeo quanh cổ;
- nâng cao nhận thức về các mối nguy khi gắn dây vào thiết bị sân chơi (ví dụ: cầu trượt).
7.7 Các đồ vật nhỏ và mối nguy do hút/mút
7.7.1 Các đồ vật nhỏ
Các đồ vật nhỏ và các chi tiết của sản phẩm thể hiện những mối nguy nghiêm trọng tiềm ẩn, đặc biệt đối với trẻ mới biết đi và trẻ nhỏ. Các đồ vật nhỏ có thể xâm nhập vào đường thở, khí quản và thực quản, làm tắc nghẽn luồng khí đi vào phổi. Các đồ vật tròn (ví dụ: hình cầu) có thể chặn đường thở ở phía sau miệng, cũng gây ngạt. Các đồ vật như bóng bay cao su đặc biệt nguy hiểm.
Trẻ em thường hít hay nuốt nhiều chi tiết cùng một lúc.
Các tình huống nguy hiểm sau có thể xảy ra:
a) các đồ vật có thể bị nuốt hay hít vào, mắc kẹt trong khí quản hay sâu hơn trong đường thở, gây ra ngạt thở;
b) các đồ vật có thể bị ăn vào bụng, mắc kẹt trong thực quản ở quai động mạch chủ, gây tắc nghẽn đường thở có thể dẫn đến ngạt thở;
c) pin cúc áo trong thực quản làm tan các mô cục bộ, đây là mối nguy bổ sung;
d) pin cúc áo có thể gây tắc nghẽn, rò rỉ, ăn mòn hay dẫn đến các phản ứng điện hóa có hại cục bộ khi đưa vào một lỗ trên cơ thể, như mũi hay khi nuốt phải;
e) nam châm có thể bị nuốt vào gây tổn hại các cơ quan nội tạng, có thể gây tử vong;
f) nam châm nhỏ khi nuốt phải có thể hút nhau và phá hủy ruột non;
g) các đồ vật có thể bị nuốt vào, gây rủi ro tắc nghẽn hay thủng thực quản, dạ dày hoặc ruột;
h) các đồ vật có thể được đưa vào các lỗ khác của cơ thể, dẫn đến đau, sưng tấy, tắc nghẽn hay gây bệnh.
VÍ DỤ 1: Các đồ vật thay đổi kích thước, hình dạng hoặc kết cấu khi hòa với nước bọt có thể làm tắc đường thở.
VÍ DỤ 2: Thực phẩm có chứa các sản phẩm không ăn được, như là đồ chơi, dẫn đến việc hít vào hoặc nuốt phải các bộ phận nhỏ trong khi ăn, ngay cả với trẻ em 12 tuổi.
VÍ DỤ 3: Các đồ vật mềm dẻo như bóng bay cao su nguyên vẹn hay vỡ bị lọt vào đường thở.
VÍ DỤ 4: Nắp bút thường được trẻ lớn ngậm trong miệng và do hình dạng của chúng có thể bị nuốt vào.
VÍ DỤ 5: Trẻ em đôi khi nuốt cả trái cây nhỏ, cả hạt của trái cây và bị mắc kẹt trong cổ họng.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro do các bộ phận nhỏ bao gồm:
- cần loại bỏ các chi tiết nhỏ, đặc biệt là các hình dạng như là hình cầu và hình nón;
- ngăn ngừa các chi tiết nhỏ rơi ra, đặc biệt là nam châm và pin, trong quá trình sử dụng có thể dự đoán được hợp lý;
- đưa ra hướng dẫn và các cảnh báo phù hợp với lứa tuổi cho người tiêu dùng về những mối nguy đối với trẻ nhỏ;
- áp dụng các biện pháp ngăn ngừa thứ cấp như cung cấp đường dẫn khí liên tục, sao cho nếu chi tiết đó bị nuốt vào thì trẻ vẫn có thể thở;
- ngăn ngừa trẻ em tiếp cận với pin;
- thay đổi hình dạng bên ngoài của các đồ vật nhỏ không ăn được để tránh việc trông giống thức ăn và do đó làm giảm các rủi ro nghẹt thở cho trẻ nhỏ vì có thể cố gắng ăn chúng.
7.7.2 Sự hút/mút vào
Đầu mút trên các sản phẩm, ví dụ: đồ chơi tắm, mũi tên hay phi tiêu đồ chơi, có thể gây ra các vết thâm tím khi tác động lên các bộ phận cơ thể. Khi mắt bị tổn thương, thương tích có thể nghiêm trọng và dẫn đến mù lòa.
VÍ DỤ 1: Trẻ em đã bị rách bụng khi bị mắc lại trong tư thế ngồi xổm/ngồi trên các cống thoát nước của bể bơi.
VÍ DỤ 2: Trẻ nhỏ bị ngạt thở khi các đồ chơi lõm, có hình vòm hay hình bán cầu dính chặt vào mũi hay miệng.
VÍ DỤ 3: Trẻ em úp các cốc hút lên các bộ phận của cơ thể.
Biện pháp để tránh hay làm giảm các rủi ro do sự hút/mút vào bao gồm thiết kế các cốc hút không dính vào cơ thể hay hốc mắt hoặc che mũi và miệng, ví dụ: nhiều cốc hút nhỏ.
7.8 Mối nguy cháy
7.8.1 Ngọn lửa hở
Trong khi các ngọn lửa hở, ví dụ: từ lò sưởi và nến, là mối nguy rõ ràng đối với người lớn thì chúng lại có thể lôi cuốn trẻ em. Trong quá khứ, đã từng có trẻ 2 tuổi bị hỏa hoạn và bị thương do chơi diêm hoặc bật lửa. Hành vi chơi này có thể gắn với mối quan tâm đối với lửa hay bật lửa hay do cố gắng bắt chước người lớn.
Các rào chắn cần phải ngăn trẻ tiếp cận hay ném một đồ vật vào lửa, cũng như ngăn than hồng văng ra khỏi đám cháy.
VÍ DỤ 1: Vì trẻ nhỏ dễ bị lôi cuốn bởi ánh sáng rực rỡ và ngọn lửa dùng để nướng thịt và ngọn lửa hở, trẻ có thể bị bỏng.
VÍ DỤ 2: Bình xịt thường còn để lại vết dung môi dễ bắt cháy nếu phun gần ngọn lửa hở.
VÍ DỤ 3: Trẻ em bị bỏng nặng và gây cháy nhà khi nghịch bật lửa.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro do ngọn lửa hở bao gồm:
- kết hợp các đặc trưng gây khó khăn cho trẻ khi sử dụng (tức là ngăn ngừa trẻ em) vào thiết kế bật lửa và các nguồn tạo lửa khác;
- tránh thiết kế các bật lửa hay các nguồn tạo lửa khác có bề ngoài thu hút sự chú ý của trẻ em (vídụ: giống các nhân vật hoạt hình hay đồ chơi quen thuộc); ngược lại, các đồ chơi hay các hộp kẹo tương tự với bật lửa có thể làm cho trẻ em có ý nghĩ là bật lửa là một cái gì đó dành cho trẻ;
- sử dụng các thanh chắn ở nơi có ngọn lửa tại gia đình;
- cảnh báo người trông nom trẻ về những mối nguy ít rõ ràng hơn liên quan đến nguồn gây cháy (ví dụ: trẻ em bị thu hút bởi ngọn lửa, ngọn lửa có thể không dễ dàng nhìn thấy, quần áo rộng có thể có rủi ro bắt lửa, trẻ em dễ bị bỏng hơn).
7.8.2 Tính dễ cháy và các đặc tính cháy
Lửa là một rong các nguyên nhân hàng đầu dẫn đến việc bị thương tích hay tử vong. Các vật liệu dễ cháy có thể bắt cháy khi tiếp xúc với ngọn lửa hở, nhiệt độ cao, các tia lửa hay tự cháy. Tính dễ bắt lửa, tốc độ cháy và đặc tính tự tắt là các yếu tố gây ảnh hưởng đến việc ngọn lửa sẽ lan truyền hoặc bị kìm lại.
VÍ DỤ 1: Quần áo rộng có rủi ro bắt lửa cao hơn so với mặc quần áo bó sát.
VÍ DỤ 2: Trẻ lớn hơn, đặc biệt là bé trai, thực nghiệm đốt lửa bằng cách sử dụng các chất dễ bắt cháy. Khi các chất lỏng này đổ ra quần áo của chúng thì có thể gây ra bỏng nặng nếu chúng ở gần nguồn cháy.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro do tính dễ cháy và các vật liệu cháy bao gồm:
- hạn chế khả năng dễ bắt lửa bằng cách lựa chọn và thiết kế vật liệu;
- hạn chế sự lan truyền của lửa bằng cách lựa chọn các vật liệu có khả năng
- tự tắt, hoặc
- có tốc độ lan truyền ngọn lửa thấp;
- khống chế đám cháy bằng cách sử dụng các bình chữa cháy.
CHÚ THÍCH: Các phụ gia chống cháy có thể gây ra các mối nguy khác do các tính chất hóa học của chúng (xem thêm 7.10). Việc sử dụng phụ gia như vậy có thể bị hạn chế bởi các quy định liên quan.
7.9 Mối nguy do nhiệt
7.9.1 Nguy cơ do các bề mặt nóng và lạnh
Tiếp xúc với các bề mặt nóng và lạnh có thể dẫn đến các thương tích do nhiệt. Các bề mặt có thể trở nên nóng hay lạnh do các bộ phận ở bên trong (ví dụ: động cơ, pin, chất làm lạnh) hoặc do tiếp xúc bên ngoài với ánh nắng mặt trời hay giá lạnh. Các đặc tính hấp thụ/phản xạ nhiệt của vật liệu sẽ xác định nhiệt độ của bề mặt và độ dẫn nhiệt quyết định sự truyền năng lượng nhiệt. Một số bề mặt được thiết kế để làm nóng (ví dụ: bếp điện/mặt bếp) hay lạnh (ví dụ: tủ đông). Trẻ em thường hay sờ vào các bề mặt nóng/lạnh do khả năng hạn chế nhận biết các thương tích tiềm ẩn gắn liền với các bề mặt này. Các sản phẩm và vật dụng nóng hay lạnh mà không có các dấu hiệu về điều đó thường gây ra rủi ro.
CHÚ THÍCH: IEC Guide 117 cung cấp thêm thông tin về truyền năng lượng nhiệt.
VÍ DỤ 1: Cầu trượt ở sân chơi hướng về phía mặt trời có thể bị làm nóng đến mức có thể gây thương tích khi tiếp xúc.
VÍ DỤ 2: Các vật dụng làm nóng, như bếp/mặt bếp bằng sứ, vẫn tiếp tục nóng sau khi tắt đi; mặc dù điều này có thể không rõ ràng đối với một đứa trẻ.
VÍ DỤ 3: Đèn ở trong lò có thể hấp dẫn trẻ nhỏ.
VÍ DỤ 4: Trẻ nhỏ bị hấp dẫn một cách tự nhiên bởi các thanh nung đỏ của lò sưởi điện.
VÍ DỤ 5: Trẻ nhỏ bị bỏng khi liếm các thanh chắn, các chi tiết bằng kim loại của địu trẻ em rất lạnh và thực phẩm đông lạnh lấy ra từ ngăn đá.
VÍ DỤ 6: Chăn điện hay đệm sưởi có thể không phù hợp đối với trẻ em vì da của trẻ nhạy cảm hơn da của người lớn và tỷ lệ bề mặt cơ thể trẻ dễ dàng hấp thụ nhiệt quá mức.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro do bề mặt nóng và lạnh bao gồm:
- cung cấp các bộ phận tự động tắt và hẹn giờ trong các vật dụng tích nhiệt;
- sử dụng các vật liệu ít hấp thụ nóng/lạnh hoặc ít có khả năng truyền năng lượng hơn trong các sản phẩm có tiếp xúc với môi trường (ví dụ: thiết bị sân chơi, bề mặt sàn bể bơi, cửa, ghế ngồi cho trẻ em trong xe ô tô và vật dụng ngoài trời): việc lắp ráp phù hợp, như cung cấp bóng mát và sử dụng sản phẩm với hướng dẫn đầy đủ có thể làm giảm thương tích;
- giảm tiếp xúc có thể gây bỏng từ các bề mặt nóng/lạnh bằng cách làm giảm/tăng nhiệt độ của bề mặt; thêm vào các thanh chắn hay thêm các dấu hiệu trực quan về thay đổi nhiệt độ (mặc dù các dấu hiệu này không có ý nghĩa gì đối với trẻ còn nhỏ và dấu hiệu đó không được thu hút trẻ em);
- tránh lôi kéo sự chú ý của trẻ em đối với các bề mặt nóng;
- đảm bảo rằng các bề mặt cần phải nóng do chức năng sẽ nhanh chóng nguội đi sau khi sử dụng;
- bổ sung thanh chắn để ngăn ngừa việc tiếp cận với các bề mặt nóng hay lạnh, như bếp đốt củi hay các chi tiết nóng của lò sưởi điện.
7.9.2 Mối nguy do các chất lỏng nóng
Chất lỏng nóng, kể cả hơi nước, có thể gây bỏng. Trẻ em đặc biệt cóc nguy cơ chịu các rủi ro do bị bỏng trong khu vực bếp/bàn ăn và phòng tắm do đặc điểm thích khám phá.
VÍ DỤ 1: Cốc chứa đồ uống nóng rất dễ bị đổ.
VÍ DỤ 2: Trẻ em kéo các đồ vật đang treo rủ xuống, như khăn trải bàn hay dây của các thiết bị treo trên bàn hay các bề mặt, do đó cũng kéo theo các vật chứa chất lỏng ở phía trên đó.
VÍ DỤ 3: Trẻ nhỏ với lấy cốc do người trông nom trẻ đang cầm.
VÍ DỤ 4: Bỏng trong bồn tắm xảy ra do trẻ bị rơi vào bồn tắm chứa nước nóng hay bản thân chúng hay các anh chị của chúng mở nước nóng khi không được giám sát. Trẻ nhỏ có thể không nhận ra nguy hiểm cho đến khi quá muộn để có thể ra khỏi bồn mà không có sự hỗ trợ của người lớn.
VÍ DỤ 5: Nồi cơm điện tạo ra đủ hơi nước để làm bỏng.
VÍ DỤ 6: Lò vi sóng có thể làm nóng chất lỏng đến mức không thấy dấu hiệu nào cho thấy nó đang sôi.
VÍ DỤ 7: Lò vi sóng có thể được đặt ờ độ cao làm tăng rủi ro trẻ làm đổ thức ăn nóng lên người khi lấy đồ ra khỏi lò vi sóng.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro do các chất lỏng nóng bao gồm:
- sử dụng cốc uống trà và cà phê chống tràn hoặc thêm nắp đậy để chống tràn;
- gia tăng độ ổn định của các vật chứa như ấm đun nước, bình cà phê và nồi chiên ngập dầu;
- cung cấp ấm đun nước có dây không treo trên mép của mặt bếp hay dễ tháo ra;
- giới hạn lượng chất lỏng nóng sẵn có;
- đặt lại nhiệt độ của thiết bị làm nóng nước ở mức an toàn;
- sử dụng thiết bị pha trộn có thể kiểm soát nhiệt độ của nước chảy ra từ vòi;
- hướng dẫn cho người sử dụng về nguy cơ bị bỏng do nước nóng từ vòi.
7.9.3 Mối nguy do hiện tượng nóng chảy
Một vài sản phẩm ở dạng rắn, như một số loại nhựa, bị mềm ra khi chịu nhiệt trong khi một số khác có thể chuyển sang dạng lỏng. Bất kỳ sự tiếp xúc nào với da của các chất rắn bị mềm ra hay các chất lỏng nóng thường dẫn đến các thương tích nghiêm trọng vì vùng da tiếp xúc và thời gian sẽ kéo dài. Người lớn có thể biết các mối nguy liên quan đến các loại thay đổi này nhưng trẻ em thì có thể không biết.
VÍ DỤ 1: Nến bằng sáp nóng chảy có thể làm trẻ bị bỏng và khiến trẻ đánh rơi cây nến đang cháy.
VÍ DỤ 2: Các loại vải tổng hợp, như là vải dùng cho lều trại hay quần áo, có thể bị chảy ra khi cháy và nhỏ giọt hoặc dính vào người bị cháy. Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro do nóng chảy bao gồm các vật liệu chứa có thể bị chảy ra hoặc làm mềm hoặc sử dụng các vật liệu thay thế.
7.9.4 Mối nguy do thân nhiệt cao và giảm nhiệt của cơ thể
Thân nhiệt cao (tăng nhiệt độ cơ thể) có thể xuất hiện khi trẻ ở trong môi trường có nhiệt độ cao (ví dụ: trong phòng hay ô tô). Sự kết hợp giữa nhiệt độ phòng và các sản phẩm làm cho sức nóng tích tụ lại (ví dụ: chăn lông vịt hay chăn điện dùng cho trẻ sơ sinh) tạo thành mối nguy. Đây là yếu tố gắn liền với hội chứng trẻ nhỏ bị chết đột ngột.
Trẻ em hấp thụ hay mất nhiệt nhanh hơn và dễ bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ nóng hay lạnh hơn người lớn, trẻ thường không nhận ra điều này và không có khả năng phản ứng lại nó.
Sự giảm thân nhiệt có thể xảy ra do bị kẹt trong kho lạnh hay do không thể trở về nhà được trong thời tiết quá lạnh. Một số sản phẩm cũng có thể có khả năng làm giảm nhiệt độ cơ thể xuống dưới mức an toàn (ví dụ: trang phục thể thao mạo hiểm).
VÍ DỤ: Trẻ em bị bỏ quên trong ô tô dưới ánh nắng mặt trời đã chết vì thân nhiệt cao.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro thân nhiệt cao và giảm quá mức bao gồm:
- dùng các thiết bị để giới hạn nhiệt độ trong phòng, xem xét việc thiết kế các sản phẩm (ví dụ: ô tô, ghế an toàn cho trẻ em) theo cách làm giảm khả năng trẻ em bị bỏ quên trong môi trường nóng hay lạnh.
- cung cấp các cảnh báo về sự gia tăng nhiệt độ quá mức của chăn và các sản phẩm tương tự.
7.10 Mối nguy do hóa chất
Sự tiếp xúc với các hóa chất độc hại có thể là mạn tính thường xảy ra sau một khoảng thời gian dài và ảnh hưởng của hóa chất độc hại có thể là mạn tính hay mạn tính. Sự tiếp xúc có thể xảy ra trong vòng đời của sản phẩm, kể cả sau khi sản phẩm đã bị loại bỏ. Nó cũng có thể xảy ra trong quá trình sửa chữa, dọn dẹp nhà cửa, v.v...
Việc tiếp cận bao gồm nhưng không giới hạn với: sự nhiễm độc, bỏng hóa chất ở bên trong hay bên ngoài, bị dị ứng, bệnh mạn tính và tổn hại nội tạng, ung thư, viêm phổi do hóa chất và rối loạn khả năng sinh sản.
VÍ DỤ 1: Nhà bị cháy thường tạo ra các chất khí độc hại có thể gây tử vong.
VÍ DỤ 2: Trẻ em cần được thường xuyên chăm sóc về y tế sau khi uống hay hít phải các hóa chất gia dụng, các loại thuốc hay thuốc trừ dịch hại.
VÍ DỤ 3: Trẻ em bị bỏng hóa chất do tiếp xúc hoặc nuốt phải các sản phẩm tẩy rửa mạnh và pin.
VÍ DỤ 4: Cao su và niken tiếp xúc với da có thể gây dị ứng.
VÍ DỤ 5: Các tiếp xúc lâu dài với một số kim loại nặng có thể gây ra những ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.
VÍ DỤ 6: Trẻ em tiếp cận các sản phẩm và đồ uống có cồn không được để đúng chỗ.
VÍ DỤ 7: Hóa chất nguy hiểm được đựng trong các vật dụng chứa không phù hợp như các chai nước ngọt.
VÍ DỤ 8: Các đồ vật mà trẻ em tiếp cận có thể có sơn độc hại trên đó, ví dụ: sơn có chứa chì trên đồ nội thất trẻem, thiết bị vui chơi, bệ cửa sổ và các vị trí khác trong nhà.
VÍ DỤ 9: Trẻ em đã tiếp xúc với bụi hay khói có khả năng độc hại khi tiến hành sửa chữa lại nhà.
VÍ DỤ 10: Các thiết bị tạo ra lửa như lò sưởi trong nhà dùng ga và dầu sẽ tạo ra monoxit nếu thiết bị không đượcbảo trì đúng cách và không có hệ thống thông gió phù hợp.
VÍ DỤ 11: Một số chất phụ gia hóa chất trong nệm, đồ nội thất bọc nệm và quần áo có thể độc hại.
VÍ DỤ 12: Hơi nước hữu cơ từ các sản phẩm tẩy rửa gia dụng, thuốc trừ dịch hại, mỹ phẩm, v.v... có thể còn sótlại gần sàn nơi trẻ em ngồi hay nằm.
VÍ DỤ 13: Khí thải từ các bãi rác, lửa nấu ăn, thực vật cháy, nhà máy công nghiệp, v.v... có thể ảnh hưởng xấuđến trẻ em sống hay đi học gần đó. Một số trẻ em có thể chơi hay nhặt những vật có giá trị từ các bãi rác này.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro do các hóa chất độc hại bao gồm:
- giới hạn lượng hóa chất sẵn có trong tiếp xúc một lần hay lặp đi lặp lại;
- sử dụng các rào chắn vật lý, như là các vỏ bọc chống sự tiếp cận của trẻ em, đưa vào các thùng chứa thích hợp hay các dụng cụ lưu giữ an toàn;
- thay thế bằng các hóa chất ít độc hơn hay sử dụng lượng hóa chất ít hơn;
- thiết kế nhà/tòa nhà có máy phát hiện khỏi và khí carbon monoxit hoặc lắp đặt bổ sung ở các nhà hiện có;
- sử dụng các vật liệu khi cháy tạo ra sản phẩm cháy ít hơn và/hoặc ít độc hơn
- đảm bảo rằng khi các vật liệu hữu cơ bị cháy một cách có chủ ý, có hệ thống thông gió đầy đủ để làm giảm việc giải phóng và tích tụ carbon monoxide;
- cấm sử dụng các chất gây đột biến, chất gây ung thư và chất độc hại cho sinh sản bị nghi ngờ hay đã biết;
- tránh các chất gây dị ứng và ăn mòn đã biết;
- tránh các hóa chất có ngoại quan, mùi vị lôi cuốn trẻ em;
- hóa chất gây đắng có thể bổ sung cho các biện pháp khác để làm giảm rủi ro nhiễm độc;
- đưa ra các cảnh báo và thông tin sản phẩm thích hợp, bao gồm các thành phần, mối nguy cụ thể, hướng dẫn sử dụng, lưu trữ và loại bỏ an toàn, các biện pháp sơ cứu, nhận biết nhà sản xuất và thông tin liên hệ khẩn cấp;
- đưa ra các cảnh báo khi cần thiết về nhu cầu giặt quần áo tiếp xúc với da trước khi sử dụng lần đầu, để làm giảm rủi ro dị ứng;
- xác định và kiểm soát một cách thích hợp việc tiếp cận các vị trí nguy hiểm nơi chất thải có thể gây hại.
7.11 Mối nguy bị điện giật
Bị điện giật có thể gây ra thương tích hay tử vong. Trẻ em không thể “nhìn thấy” hay nhận thức được mối nguy này nên điều đó rất nguy hiểm.
VÍ DỤ 1: Mấy sấy tóc có hình dạng bên ngoài (ví dụ như hình con vịt) lôi cuốn trẻ em có thể dẫn đến việc trẻ em mang chúng vào bồn tắm.
VÍ DỤ 2: Đèn cắm ở ổ điện có hình dáng lôi cuốn có thể làm trẻ coi ổ điện là vô hại.
VÍ DỤ 3: Hướng của ổ cắm cần phải sao cho không lôi cuốn trẻ em. Một số ổ cắm có thể trông giống như một khuôn mặt thân thiện với trẻ nhỏ.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro do bị điện giật bao gồm:
- bảo vệ để tránh tiếp xúc với các bộ phận mang điện, vị trí và kích thước của các lỗ cắm cần phải xem xét nhân trắc học của trẻ em, như cỡ ngón tay. Môi trường ẩm làm tăng rủi ro bị điện giật;
- dùng các biện pháp cách điện hiệu quả (bao gồm cơ cấu chắn, công tắc hay các vật chắn khác) nếu do chức năng của sản phẩm, các lỗ cắm này cần phải được tiếp cận một cách dễ dàng, như trong trường hợp ổ cắm điện;
- dùng các thiết bị ngắt dòng điện, như các thiết bị ngắt mạch khi chạm đất (còn được gọi là thiết bị dòng dư). Khi được đưa vào như một phần của sản phẩm, chúng cần phải được đánh giá theo khía cạnh sinh lý của trẻ em;
- làm đồ chơi và các sản phẩm lôi cuốn trẻ em hoạt động ở các mức năng lượng an toàn (nghĩa là: sự kết hợp giữa điện áp và dòng điện phù hợp) ví dụ: bằng cách chạy bằng pin.
Tuy nhiên, điều quan trọng cần phải thừa nhận là pin có thể gây ra những mối nguy đáng kể khác. Các mối nguy khác ngoài điện giật có thể xảy ra do sử dụng điện được đề cập trong các điều khác của tiêu chuẩn này (xem 7.2.6, 7.7.1 và 7.9).
7.12 Mối nguy bức xạ
7.12.1 Bứcxạionhóa
Trẻ em có thể được tiếp xúc với bức xạ ion hóa, nghĩa là bức xạ từ các nguồn xuất hiện tự nhiên (ví dụ: radon) hay từ các sản phẩm như máy phát hiện khói, ti vi tia cực âm và thiết bị y tế. Việc tiếp cận với bức xạ ion hóa của trẻ em cần phải được kiểm soát rất chặt chẽ.
VÍ DỤ 1: Một số loại sơn phủ bề mặt và men gốm trên bát đĩa có chứa hàm lượng chất màu bức xạ có hại.
VÍ DỤ 2: Một số thép không gỉ được sản xuất có chứa coban bức xạ từ các sản phẩm tái chế.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro có thể bao gồm:
- thiết kế những ngôi nhà mới để làm giảm sự xâm nhập của bức xạ xuất hiện tự nhiên; cách tiếp cận này thường được hỗ trợ bởi các quy định;
- sửa các ngôi nhà hiện có để ngăn khí bức xạ vào hay loại bỏ nó bằng hệ thống thông gió;
- làm cho các nguồn bức xạ trong các sản phẩm gia dụng không thể tiếp cận được, ngay cả khi đang thải bỏ;
- đảm bảo rằng pháp luật đưa ra các giới hạn nghiêm ngặt về việc tiếp xúc với bức xạ đối với trẻ em vì mục đích y tế và các mục đích khác.
7.12.2 Bức xạ do tia cực tím
Tiếp xúc với bức xạ do tia cực tím (UV) từ mặt trời là tiếp xúc bức xạ phổ biến nhất. Khi tiếp xúc trong khoảng thời gian ngắn thì có thể bị cháy nắng hay bỏng võng mạc. Tiếp xúc trong khoảng thời gian dài có thể gây ung thư da hay đục thủy tinh thể. Tiếp xúc với tia UV cũng có thể phát sinh từ các sản phẩm như sản phẩm thuộc da, ánh sáng và thậm chí một số đồ chơi.
Trẻ em nhạy cảm với tác hại từ bức xạ UV hơn là người lớn.
VÍ DỤ 1: Tiếp xúc với ánh sáng mặt trời vào buổi trưa khi ánh sáng mặt trời gay gắt nhất.
VÍ DỤ 2: Trẻ em sử dụng giường tắm nắng.
VÍ DỤ 3: Việc sử dụng bức xạ UV cho mục đích khử trùng trong một số sản phẩm gia dụng, như chất tẩy rửa bàn chải đánh răng.
VÍ DỤ 4: Đưa tia UV vào đồ chơi “bộ dụng cụ gián điệp”.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro do tiếp xúc với bức xạ do tia cực tím bao gồm:
- hạn chế tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, đặc biệt khi nó gay gắt nhất, thông qua việc nâng cao nhận thức của người trông nom trẻ để đảm bảo tạo môi trường râm mát ở nơi trẻ chơi và sử dụng đủ biện pháp bảo vệ cá nhân khỏi mặt trời, như mũ và kem chống nắng;
- khuyến nghị quần áo làm từ các loại vải có chỉ số chống nắng cao (SPF), tuy nhiên cần lưu ý rằng một số loại vải có tác dụng bảo vệ ít khi chúng bị ẩm hay bị kéo căng;
- không khuyến khích việc sử dụng kính râm giả có chức năng bảo vệ không phù hợp với trẻ em (xem 8.1);
- cảnh báo trên các thiết bị tạo ra bức xạ do tia cực tím, như giường tắm nắng, cần phải nêu rõ ràng rằng trẻ em không được sử dụng những sản phẩm này;
- che chắn nguồn ánh sáng cực tím có thể tiếp cận từ các hệ thống chiếu sáng và các sản phẩm như các hệ thống khử trùng bàn chải đánh răng;
- cấm trẻ em sử dụng giường tắm nắng theo quy định.
7.12.3 Ánh sáng cường độ cao, tập trung hay nhấp nháy
Phản ứng tự nhiên của con người là rời khỏi chỗ quá nóng hay che mắt khi bị sáng quá, bao gồm cả tia laser và điot phát sáng (đèn LED). Tuy nhiên trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ sơ sinh, có thể sẽ không có khả năngcó bất cứ phản ứng tự vệ nào như vậy. Nguồn sáng cường độ cao có thể gây tổn hại mắt nhanh hơn mức người ta có thể phản ứng.
Ánh sáng chu kỳ (nghĩa là ánh sáng nhấp nháy hay nhấp nháy thường xuyên) có thể ảnh hưởng đến trẻ em bị động kinh.
Ánh sáng nhấp nháy tiềm ẩn mối nguy, chẳng hạn như đèn LED hoặc đèn nhấp nháy xenon, có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của trẻ. Ảnh hưởng đáng kể nhất là gây ra chứng động kinh nhạy với ánh sáng (co giật do ánh sáng nhấp nháy). Hiệu ứng nhấp nháy (trong đó máy móc quay hay di chuyển dường như đang chuyển động chậm hoặc đứng yên), đau nửa đầu, tăng tỷ lệ hành vi lặp đi lặp lại ở người tự kỷ và giảm hiệu suất trong các chức năng thị giác như đọc cũng có thể phát sinh. Các ảnh hưởng khác bao gồm mỏi mắt, mệt mỏi, mờ mắt và đau đầu thông thường. Tần số nhấp nháy, tính đều đặn và sự thay đổi độ sáng đều có thể ảnh hưởng đến khả năng xảy ra những hiệu ứng này.
VÍ DỤ 1: Bút chỉ laser được trẻ em sử dụng có thể làm hỏng thị lực của chúng hay thị giác của người khác.
VÍ DỤ 2: Một số trẻ em rất dễ bị ảnh hưởng bởi ánh sáng nhấp nháy đôi khi liên quan đến hình ảnh trên tivi hoặc trò chơi máy tính. Co giật đã xảy ra. Tác động bất lợi này có thể trở nên tồi tệ hơn do ánh sáng xung quanh kém.
VÍ DỤ 3: Ánh sáng nhìn thấy có cường độ cao, tập trung bao gồm cả chùm tia laser (bút), có thể nhanh chóng gây thương tích da và mắt.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro bao gồm:
- hạn chế tiếp xúc với ánh sáng cường độ cao, tập trung thông qua quy định sản phẩm và giáo dục người trông nom trẻ;
- hạn chế tiếp xúc với ánh sáng nhấp nháy;
- tránh các tần số được biết là gây hại.
7.12.4 Bức xạ điện từ
Có hai vấn đề an toàn liên quan đến bức xạ điện từ:
- trường điện từ (EMF), nghĩa là tác động của bức xạ điện từ lên cơ thể con người, và
- tương thích điện từ (EMC), nghĩa là tác động của bức xạ điện từ của một sản phẩm này lên sản phẩm khác.
Chức năng hoạt động chính xác của sản phẩm có thể bị ảnh hưởng bởi bức xạ EMC. Một sản phẩm có thể:
- bức xạ rộng đến mức cản trở các sản phẩm khác hoạt động bình thường hay gây ra sự kích thích ngoài ý muốn, và/hoặc
- dễ bị nhiễm bức xạ từ các sản phẩm khác khiến cho chức năng hoạt động bình thường của chính nó bị cản trở hay xảy ra hoạt động ngoài ý muốn.
Cả hai trường hợp đều có thể dẫn đến tình huống không an toàn, cần phải tránh.
Ngày càng có nhiều sản phẩm phát ra bức xạ điện từ, hoặc cố ý (ví dụ: công nghệ không dây, máy phát sóng vô tuyến, thiết bị vi sóng) hoặc vô tình (ví dụ: máy thu sóng vô tuyến, thiết bị gia dụng) trong môi trường của trẻ em, khiến chúng tiếp xúc với các bức xạ này.
Một số quy định và tiêu chuẩn xác định các giá trị giới hạn tiếp xúc để bảo vệ khỏi việc tiếp xúc với EMF. Tác dụng đầy đủ của trường điện từ có thể chưa được biết đến.
Hoạt động chính xác của các sản phẩm có thể bị ảnh hưởng bởi bức xạ EMC từ các sản phẩm khác, dẫn đến các điều kiện không an toàn, ví dụ: bằng cách làm xáo trộn hoạt động bình thường của các thiết bị hay bắt đầu hoạt động không chủ ý.
VÍ DỤ 1: Hoạt động không chủ ý của các thiết bị gia dụng, chẳng hạn như dụng cụ mở cửa gara hay bếp, do bức xạ điện từ phân tán.
VÍ DỤ 2: Hoạt động bất ngờ của các sản phẩm dành cho trẻ em như đồ chơi cưỡi ngựa.
VÍ DỤ 3: Rò rỉ năng lượng tần số vô tuyến từ lò vi sóng.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro bao gồm:
- hạn chế lượng bức xạ điện từ từ các sản phẩm;
- tăng khoảng cách giữa nguồn bức xạ điện từ và trẻ;
- che chắn các phần tử mạch nhạy cảm liên quan đến an toàn để ngăn ngừa các hoạt động nguy hiểm tiềm ẩn.
7.13 Mối nguy từ tiếng ồn (áp suất âm thanh)
Mối nguy do tiếng ồn đã được thừa nhận từ lâu. Thương tích đã xảy ra khi các cơ quan thính giác nhạy cảm trong tai phải chịu mức áp suất âm quá cao trong một khoảng thời gian nhất định. Những thương tích gây tổn hại đến thính giác có thể không thể phục hồi được.
Trẻ em nhạy cảm hơn người lớn trong việc mất khả năng nghe. Tổn hại thính giác do tiếng ồn ở trẻ em có thể khó phát hiện, vì chúng có thể không nhận biết được hay không thể nêu ra vấn đề của mình. Điều này thường chỉ được phát hiện ra khi trẻ có biểu hiện khó khăn đặc biệt trong việc nghe hay có vấn đề về ngôn ngữ hay xã hội. Tổn hại từ tiếng ồn tỷ lệ thuận với cả mức áp suất âm thanh và thời gian tiếp xúc. Những tiếng ồn rất lớn dù chỉ diễn ra trong thời gian ngắn cũng có thể gây tổn hại tai ngay lập tức.
Việc tiếp xúc có thể diễn ra trong thời gian ngắn (ví dụ: tiếng súng, túi khí bung ra, chất nổ, tiếng lách cách) hoặc lâu hơn (ví dụ: âm nhạc, tiếng bíp của sản phẩm, tiếng động cơ). Khoảng cách giữa nguồn tiếng ồn và tai cũng cần được xem xét khi xác định rủi ro.
Tiếng ồn liên tục sẽ gây ra các thương tích sau một khoảng thời gian nhất định. Việc đánh giá rủi ro cần xem xét đến cả mức áp suất âm thanh và thời gian tiếp xúc. Hầu hết các sản phẩm phát ra âm thanh sẽ thuộc loại này.
Trẻ em sử dụng các sản phẩm gây ra tiếng ồn mà không nhận thức được các mối nguy cho bản thân và cho trẻ em khác. Hậu quả gián tiếp của mức tiếng ồn cao, ví dụ: đi bộ hay đi xe đạp đeo tai nghe, có thể gây tai nạn giao thông hoặc các mối nguy khác. Tuy nhiên, mức độ tiếng ồn thấp cũng có thể vô tình tạo ra các mối nguy, chẳng hạn như chuông báo cháy kêu không đủ to hoặc xe điện chạy không tiếng động.
VÍ DỤ 1: Trẻ em tiếp xúc với chất nổ, chẳng hạn như đồ chơi sử dụng mũ gõ và/hoặc pháo.
VÍ DỤ 2: Trẻ tiếp xúc với tiếng ồn từ đồ chơi bóp, tiếng bíp, tiếng lạch cạch, hộp nhạc, chuông báo thức, v.v. Trẻ nhỏ thông thường không thể tự vận hành đồ chơi. Người thứ ba, như anh chị hay người trông nom chúng thường xác định khoảng cách giữa nguồn tiếng ồn và tai của trẻ nhỏ và trong một số trường hợp cả mức áp suất âm thanh.
VÍ DỤ 3: Trẻ em tự mình tiếp xúc với tiếng ồn, ví dụ: tiếng nhạc lớn trong tai nghe hay nút tai hoặc khi chơi trò chơi điện tử.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro do tiếng ồn bao gồm:
- giảm mức tiếng ồn tối đa mà sản phẩm có thể phát ra và/hoặc thời gian tiếp xúc;
- tự động điều chỉnh về âm thanh thấp khi sản phẩm được bật lên;
- làm cho bớt ồn;
- ghi nhãn kiểm soát âm thanh một cách rõ ràng;
- thông tin hay cảnh báo người tiêu dùng về mối nguy.
7.14 Mối nguy sinh học
Vi rút, nấm và vi khuẩn có thể gây bệnh cho tất cả mọi người, nhưng trẻ nhỏ có sức đề kháng/miễn dịch kém hơn người lớn khỏe mạnh. Chất lỏng, chất bán rắn và bột cũng như nguyên liệu nhồi đặc biệt dễ bị nhiễm bẩn sinh học.
Ngoài ra, sự hiện diện của côn trùng, lông động vật và phân có thể là nguồn gây ô nhiễm sinh học.
VÍ DỤ 1: Các kẽ hở hoặc hình dạng kỳ lạ trong các sản phẩm hạn chế khả năng tiếp cận để làm sạch.
VÍ DỤ 2: Vi khuẩn Legionella đã được tìm thấy trong hệ thống điều hòa không khí, bồn tạo sóng và vòi hoa sen. Các biện pháp để tránh hay làm giảm tiếp xúc với các nhiễm bẩn sinh học bao gồm:
- thiết kế các sản phẩm để tạo thuận lợi cho việc làm sạch kỹ lưỡng, bao gồm hướng dẫn làm sạch toàn diện nếu cần thiết;
- thiết kế các ống dẫn nước để tránh sự phát triển của vi khuẩn Legionella;
- bảo quản nguyên vật liệu một cách hợp vệ sinh, ví dụ: hàng dệt may, nguyên liệu nhồi, kể cả trongquá trình vận chuyển;
- cung cấp bao bì thích hợp để ngăn ngừa ô nhiễm;
- đảm bảo rằng chất lỏng, chất bán rắn và bột có trong sản phẩm dành cho trẻ em (ví dụ: đồ chơi) khôngbị ô nhiễm và được bảo vệ đầy đủ khỏi sự phát triển của vi sinh vật.
7.15 Mối nguy do nổ và tia lửa
Đặc tính dễ cháy và cháy của sản phẩm quyết định mối nguy cháy nổ. Ngoài ra, áp suất tích tụ cũng có thể gây nổ. Hỗn hợp các chất gây nổ có thể được tạo ra một cách có chủ ý (ví dụ: pháo hoa, súng bắn nắp) hay không cố ý (rò rỉ khí ga, hơi xăng). Các sản phẩm dễ bay hơi, dễ cháy có thể gây cháy nổ nếu được cho vào thùng chứa nóng hoặc thùng chứa có ngọn lửa chưa được dập tắt hoàn toàn. Các vụ nổ cũng có thể gây ra mức tiếng ồn có hại (xem 7.13). Trẻ em, đặc biệt là những trẻ lớn, có mong muốn thử nghiệm mọi loại sản phẩm, trong đó có pháo hoa.
VÍ DỤ 1: Pháo hoa nếu không được hoàn thiện tốt có thể sẽ nổ sớm hay nổ muộn hơn. Các vụ nổ thường kèm theo các hạt bắn ra và tia sáng có thể làm hỏng mắt và bỏng da.
VÍ DỤ 2: Tiếng ồn do vụ nổ tạo ra có thể gây hại cho tai của trẻ.
VÍ DỤ 3: Pin và bình sơn khí tiếp xúc với nhiệt hay ném vào lửa có thể phát nổ.
VÍ DỤ 4: Pin lắp không đúng chiều có thể gây ra nổ.
VÍ DỤ 5: Việc cho gel hay chất lỏng dễ cháy vào thùng chứa nóng hay đám cháy chưa được dập tắt sẽ gây ra tia lửa.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm các rủi ro do nổ và tia lửa bao gồm:
- hạn chế (càng nhiều càng tốt) để trẻ em tiếp xúc với các vật liệu nổ và dễ bay hơi;
- đưa ra các hướng dẫn và nhãn cảnh báo thích hợp trên bao bì, giới hạn thiết kế theo lượng vật liệu cháy bay ra và khoảng cách mà các hạt bắn đến;
- đóng gói các sản phẩm dễ bay hơi và dễ nổ để giảm thiểu rủi ro do tự phát nổ;
- sử dụng bao bì cảnh báo trẻ em để hạn chế sự tiếp xúc của trẻ với các sản phẩm dễ bay hơi, dễ nổ;
- sử dụng hay hướng dẫn sử dụng, thiết bị bảo vệ cá nhân, như tấm che mặt và găng tay với các yêu cầu tính năng phù hợp, khi trẻ em thực hành với các vật liệu có thể phát nổ, ví dụ: trong giờ hóa học ở trường.
Pháo hoa không thể được coi là an toàn cho trẻ em nếu không có sự giám sát. Một số nước cấm bán pháo hoa cho người dân (với một số ngoại lệ) và yêu cầu chỉ những người lớn được cấp phép mới được phép bắn pháo hoa.
8 Sự đầy đủ của chức năng bảo vệ
8.1 Khái quát
Chức năng bảo vệ có thể được áp dụng cho sản phẩm, hệ thống lắp đặt nội bộ hay con người, hoặc có thể là hành vi được học hoặc được chỉ dẫn (ví dụ: xuất phát từ chức năng bảo vệ của hướng dẫn) nhằm giảm khả năng xảy ra gây tổn hại cho trẻ em. Do đó, chức năng bảo vệ bao gồm không chỉ là thiết bị bảo vệ mà có thể bao gồm một hay nhiều biện pháp và/hoặc hành vi. Nhìn chung, thứ tự ưu tiên cung cấp các chức năng bảo vệ là
- bảo vệ của sản phẩm, vì chúng không yêu cầu bất kỳ kiến thức hay hành động nào của những người tiếp xúc với sản phẩm;
- bảo vệ khi lắp đặt (bao gồm lắp ráp và bảo trì) khi các đặc tính an toàn chỉ có thể được cung cấp sau khi lắp đặt (ví dụ: sản phẩm phải được bắt vít vào sàn để có độ ổn định);
- bảo vệ cá nhân và hành vi khi chức năng hoạt động cần khả năng tiếp cận nguồn năng lượng;
- bảo vệ của hướng dẫn để cảnh báo người dùng về nguồn năng lượng nguy hiểm hay để hướng dẫn một hành vi cụ thể khi hành vi đó thường không được mong đợi có sẵn.
8.2 Chức năng bảo vệ của sản phẩm
Chức năng bảo vệ của sản phẩm là một phần vật lý của sản phẩm. Vì chức năng này không yêu cầu bất kỳ hoạt động hay kiến thức cụ thể nào từ người sử dụng, nên chúng là phương pháp ưu tiên để ngăn ngừa thương tích xảy ra. Điều này đặc biệt đúng đối với các sản phẩm mà trẻ em có thể tiếp cận, vì các chức năng bảo vệ cá nhân hay hướng dẫn ít hiệu quả hơn đối với trẻ em.
VÍ DỤ 1: Trên đồ chơi cưỡi ngựa, phanh tự động được sử dụng khi trẻ bỏ chân ra khỏi chân ga.
Đôi khi thiết bị bảo vệ được thiết kế cho các bộ phận người dân không bao gồm trẻ em. Khi các thiết bị này hoạt động, chúng có thể gây nguy hiểm cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
VÍ DỤ 2: Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ đã bị thương hoặc tử vong khi túi khí hành khách bung ra trong khi trẻ ngồi trên ghế hành khách và do đó cần phải sử dụng chức năng tắt hoặc giảm lực của túi khí khi trẻ ngồi vào ghế.
8.3 Chức năng bảo vệ khi lắp đặt
Chức năng bảo vệ khi lắp đặt là một phần vật lý của môi trường nhân tạo. Chức năng bảo vệ khi lắp đặt thường không được kiểm soát bởi nhà sản xuất sản phẩm, mặc dù trong một số trường hợp, chức năng bảo vệ có thể được quy định trong các hướng dẫn lắp đặt.
VÍ DỤ: Hệ thống tiếp đất bảo vệ được bố trí một phần trong sản phẩm và một phần trong lắp đặt. Cả hai yếu tố đều cần thiết để hệ thống có hiệu quả.
8.4 Chức năng bảo vệ cá nhân
Chức năng bảo vệ cá nhân thường là thiết bị vật lý được đeo trên người.
CHÚ THÍCH: Đôi khi nó còn được coi là thiết bị bảo vệ cá nhân.
Một số sản phẩm, như mũ bảo vệ, kính râm, áo phao, cổng và rào chắn “an toàn” nhằm mục đích giảm khả năng tử vong và thương tích hay giảm thiểu mức độ nghiêm trọng của thương tích. Điều quan trọng là các sản phẩm như vậy thực sự cung cấp các mức độ bảo vệ chấp nhận được. Một vấn đề có thể phát sinh khi các sản phẩm giống với các thiết bị bảo vệ nhưng lại không có chút khả năng bảo vệ nào. Các sản phẩm này thường là đồ chơi, ví dụ: đồ chơi mũ bảo vệ hay kính chống nắng.
Nhiều thiết bị bảo vệ dành cho người lớn không cung cấp sự bảo vệ đầy đủ cho trẻ em. Ví dụ, mũ bảo hiểm dành cho người lớn có thể không cung cấp sự hấp thụ va đập thích hợp cho trẻ em do đội mũ không vừa vặn.
Đôi khi các thiết bị bảo vệ gây ra vấn đề khi được sử dụng trong những trường hợp không dự đoán trước được. Ví dụ, trẻ em vẫn đội mũ bảo vệ xe đạp khi dừng chơi ở sân chơi. Thiết bị sân chơi thường được thiết kế để làm cho đầu không bị mắc kẹt lại bằng cách tạo ra các khoảng hở hoặc quá nhỏ để không đưa đầu vào được hoặc đủ lớn để đầu có thể chui qua một cách an toàn. Khi trẻ đội mũ bảo vệ, kích thước đầu sẽ tăng lên một cách đáng kể, gây ảnh hưởng đến việc đầu có thể chui qua chui lại dễ dàng.
Vì dây buộc mũ của mũ bảo vệ người đi xe đạp được thiết kế để không bung ra khi ngã từ xe đạp, chúng cũng không bung ra khi trẻ bị mắc kẹt trong thiết bị dùng cho sân chơi. Đứa trẻ có thể chết. Những thay đổi về thiết kế cho phép để mũ bảo vệ rời ra trong trường hợp mắc kẹt trong sân chơi cũng được cho là mang lại sự bảo vệ đầy đủ cho người lái xe, ngoại trừ trường hợp xảy ra sự cố giao thông nghiêm trọng.
VÍ DỤ 1: Mũ bảo vệ đồ chơi mà người đi xe đạp đội sẽ không bảo vệ được đầu khỏi bị thương tích khi bị ngã.
VÍ DỤ 2: Miếng bịt bảo vệ đầu gối đồ chơi sẽ không bảo vệ được người trượt băng hay trượt bằng ván trượt trong trường hợp bị ngã.
VÍ DỤ 3: Các thiết bị nổi đồ chơi cần phải được dán nhãn đầy đủ để không bị hiểu lầm là chúng có chức năng như phao cứu sinh hoặc áo phao thực sự.
VÍ DỤ 4: Thanh chắn để ngăn việc tiếp cận các môi trường nhất định, nhưng có kết hợp với chỗ đặt chân, có thể trèo qua được.
Các biện pháp để tránh hay làm giảm rủi ro với chức năng bảo vệ không đầy đủ bao gồm:
- các thiết bị bảo vệ mô phỏng, chẳng hạn như mũ bảo vệ đồ chơi, cần được dán nhãn rõ ràng để chỉ ra rằng mũ không cung cấp sự bảo vệ; cung cấp thông tin rõ ràng và kịp thời cho công chúng về các nguy hiểm tiềm ẩn;
- thiết kế lại sản phẩm để chúng được phép sử dụng cho môi trường mà chúng được sử dụng trong thực tế.
8.5 Chức năng bảo vệ của hành vi
Chức năng bảo vệ của hành vi là hành vi tự nguyện hay được hướng dẫn nhằm giảm khả năng xảy ra tổn hại. Chức năng này chỉ có thể được sử dụng bởi những người có trình độ kinh nghiệm nhất định trong việc xử lý các mối nguy. Vì các chức năng bảo vệ của hành vi cho trẻ nhỏ là không sẵn có và không thể tin cậy được nhưng sẽ trở nên phù hợp hơn khi trẻ lớn và tích lũy kinh nghiệm. Ví dụ, trẻ biết rằng kính vỡ rất sắc và có thể làm trẻ bị thương.
8.6 Chức năng bảo vệ của hướng dẫn
Chức năng bảo vệ của hướng dẫn là một phương tiện cung cấp thông tin. Chức năng này có thể bao gồm các báo động và cảnh báo, mô tả sự tồn tại và vị trí của một hay nhiều mối nguy và nhằm mục đích khơi gợi hành vi cụ thể một người để làm giảm khả năng bị tổn hại.
Cần đưa ra thông tin để tránh những hậu quả của các mối nguy liên quan đến sản phẩm có thể xảy ra mà không thể khắc phục được, hoặc được kiểm soát đầy đủ bằng cách bảo vệ hay che chắn.
Thông tin phải rõ ràng, dễ hiểu và sẵn có trong thời gian hoặc trường hợp khi mối nguy tương ứng có thể xuất hiện, ví dụ bằng cách cung cấp hướng dẫn sử dụng có thể tải xuống từ trang web của nhà cung cấp. Những vật mang thông tin không được tạo ra những rủi ro mới cho trẻ em (ví dụ rủi ro bị hóc do nhãn rời ra).
Nghiên cứu chỉ ra rằng các nhãn cảnh báo có hiệu quả hạn chế hơn so với việc phòng ngừa các mối nguy ban đầu. Các cảnh báo và thông tin không có khả năng ảnh hưởng đến hành vi của trẻ em và cần được chuyển trực tiếp đến người trông nom trẻ.
Nếu sử dụng thông tin sản phẩm dành cho trẻ em, thì thông tin đó phải được viết và/hoặc mô tả theo cách thích hợp với mức độ phát triển nhận thức của trẻ. Hiệu quả của thông tin này cần được kiểm tra. Khi có khả năng trẻ em sẽ sử dụng sản phẩm ngay cả khi sản phẩm đó không dành cho chúng sử dụng, thông tin sản phẩm thiết yếu phải được cung cấp để chúng có thể sử dụng sản phẩm một cách an toàn.
Thông tin phải không được khuyến khích trẻ hành động một cách không phù hợp như biểu tượng gây sự chú ý trên các chất độc hại vì điều này sẽ khuyến khích trẻ tiếp cận với chất đó.
VÍ DỤ 1: Đồ chơi hóa học (bộ đồ chơi hóa học) có thể chứa hóa chất độc hại đã biết (ví dụ: đồng sunphat) là chất cần thiết cho hoạt động của đồ chơi. Thực tế điều này phải được thông báo trên nhãn và có hướng dẫn sử dụng phù hợp.
VÍ DỤ 2: Ví dụ về cảnh báo trong soạn thảo tiêu chuẩn an toàn của pin lithium có thể là “tránh xa tầm với của trẻ em. Nuốt phải có thẻ dẫn đến bỏng hóa chất, thủng mô mềm và tử vong. Bỏng nặng có thể xảy ra trong vòng 2 h sau khi uống, cần tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức”.
CHÚ THÍCH 1: Hướng dẫn chung về hướng dẫn sử dụng và thông tin trước khi mua được đưa ra trong TCVN 10426 (ISO/IEC Guide 14 và TCVN 10430 (ISO/IEC 37).
CHÚ THÍCH 2: TCVN 10428 (ISO/IEC Guide 74) đề cập đến việc sử dụng các ký hiệu bằng hình vẽ. Nguồn bổ sung cho các ký hiệu đồ họa là ISO 7000 và ISO 7001.
Phụ lục A
(tham khảo)
Danh sách kiểm tra
Để tuân theo cách tiếp cận có cấu trúc, tổ chức xây dựng tiêu chuẩn và người sử dụng khác cần sử dụng danh sách cho trong Bảng A.1 để xác định rằng tất cả các khía cạnh về an toàn trẻ em đã được xem xét khi đề xuất một dự án xây dựng tiêu chuẩn mới.
Danh sách kiểm tra này sẽ trở thành phụ lục tiêu chuẩn khi được soạn thảo.
Bảng A.1 - Danh sách kiểm tra
| TT | Câu hỏi | Có | Không | Không liên quan |
| 1 | Sự tương tác tiềm ẩn của trẻ em với sản phẩm, dịch vụ, quá trình, lắp đặt đã được xem xét chưa?a |
|
|
|
| 2 | Các chuyên gia về an toàn trẻ em (những người có hiểu biết về sinh lý trẻ em, sự phát triển của trẻ, dịch tễ học, v.v...) có tham gia vào quá trình thiết kế hay tiêu chuẩn hóa không? |
|
|
|
| 3 | Những mối nguy dưới đây đã được xem xét chưa? |
|
|
|
|
| - cơ học và ngã (xem 7.2) |
|
|
|
|
| - ngã và các thương tích do va đập khác (xem 7.3) |
|
|
|
|
| - đuối nước (xem 7.4) |
|
|
|
|
| - nghẹt thở (xem 7.5) |
|
|
|
|
| - nghẹt thở (xem 7.6) |
|
|
|
|
| - các đồ vật nhỏ và sự hút/mút (xem 7.7) |
|
|
|
|
| - cháy (xem 7.8) |
|
|
|
|
| - nhiệt (xem 7.9) |
|
|
|
|
| - hóa chất (xem 7.10) |
|
|
|
|
| - điện giật (xem 7.11) |
|
|
|
|
| - bức xạ (xem 7.12) |
|
|
|
|
| - tiếng ồn (áp suất âm thanh) (xem 7.13) |
|
|
|
|
| - sinh học (xem 7.14) |
|
|
|
|
| - nổ và tia lửa (xem 7.15) |
|
|
|
| 4 | Các mối nguy có được đánh giá trên cơ sở các đặc điểm thể chất và phát triển của trẻ em hay không? |
|
|
|
|
| - kích thước cơ thể (xem 5.1.2) |
|
|
|
|
| - sự phát triển khả năng vận động (xem 5.1.3) |
|
|
|
|
| - sự phát triển tâm lý (xem 5.1.4) |
|
|
|
|
| - sự phát triển nhận thức và hành vi (xem 5.1.5) |
|
|
|
|
| - biện pháp khám phá (xem 5.1.6) |
|
|
|
| 5 | Các chức năng bảo vệ dưới đây đã được xem xét để làm giảm rủi ro hay chưa (theo thứ tự ưu tiên)? |
|
|
|
|
| - bảo vệ của sản phẩm (xem 8.2) |
|
|
|
|
| - bảo vệ khi lắp đặt (xem 8.3) |
|
|
|
|
| - bảo vệ cá nhân (xem 8.4) |
|
|
|
|
| - bảo vệ của hành vi (xem 8.5) |
|
|
|
|
| - bảo vệ của hướng dẫn (xem 8.6) |
|
|
|
| a Nếu trả lời Câu hỏi 1 là “không”, các câu hỏi khác có thể bỏ qua. | ||||
Sau khi hoàn thành bản liệt kê nêu trên, cần chắc chắn rằng mọi mối nguy được đánh dấu “Có” trong Câu hỏi 3 là đã được thảo luận kỹ. Kiểm tra xem bất kỳ yêu cầu chức năng phát sinh từ thảo luận này có bao gồm các rủi ro do các đặc tính đề cập trong Câu hỏi 4 hay không.
Thư mục tài liệu tham khảo
[1] TCVN 4898 (ISO 7001), Biểu trưng bằng hình vẽ - Biểu trưng thông tin công cộng
[2] TCVN 6238-1 (ISO 8124-1), An toàn đồ chơi trẻ em - Phần 1: Các yêu cầu an toàn liên quan đến tính chất cơ lý
[3] TCVN 6238-8 (ISO/TR 8124-8), An toàn đồ chơi trẻ em - Phần 8: Hướng dẫn xác định tuổi sử dụng
[4] TCVN 6844 (ISO/IEC Guide 51:2014), Các khía cạnh an toàn - Hướng dẫn đề cập khía cạnh an toàn trong tiêu chuẩn
[5] TCVN 10426 (ISO/IEC Guide 14), Sản phẩm và dịch vụ liên quan - Thông tin cho người tiêu dùng
[6] TCVN 10427 (ISO/IEC Guide 41), Bao bì - Khuyến nghị đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng
[7] TCVN 10428 (ISO/IEC Guide 74), Ký hiệu bằng hình vẽ - Hướng dẫn kỹ thuật cho việc xem xét nhu cầu của người tiêu dùng
[8] TCVN 10430 (ISO/IEC Guide 37), Hướng dẫn sử dụng sản phẩm cho người tiêu dùng
[9] TCVN 10578 (ISO 10377), An toàn sản phẩm tiêu dùng - Hướng dẫn người cung ứng
[10] TCVN 11332 (IEC 62115), Đồ chơi sử dụng điện - An toàn
[11] TCVN 11457 (ISO/IEC Guide 71), Hướng dẫn đề cập đến khả năng tiếp cận trong tiêu chuẩn
[12] ISO 7000, Graphical symbols for use on equipment - Registered symbols (Ký hiệu đồ họa cho sử dụng trên thiết bị - Ký hiệu đã đăng ký)
[13] ISO 9186, Graphical symbols - Test methods forjudged comprehensibility and for comprehension (Ký hiệu đồ họa - Phương pháp thử cho khả năng hiểu và sự nhận thức được đánh giá)
[14] IEC Guide 117, Electrotechnical equipment - Temperatures of touchable hot surfaces (Thiết bị kỹ thuật điện - Nhiệt độ của bề mặt nóng có thể chạm tới)
[15] IEC 60417 (all parts), Graphical symbols for use on equipment [(tất cả các phần), Ký hiệu đồ họa để sử dụng trên thiết bị]
[16] IEC 61032, Protection of persons and equipment by enclosures - Probes for verification (Bảo vệ con người và thiết bị bằng vỏ bọc - Đầu dò để xác minh)
[17] IEC 62368-1, Audio/video, information and communication technology equipment - Part 1. Safety Requirements (Thiết bị công nghệ âm thanh/video, thông tin và truyền thông - Phần 1: Yêu cầu an toàn)
[18] EN 71-1, Safety of toys - Part 1: Mechanical and physical properties (An toàn đồ chơi trẻ em - Phần 1: Các tính chất cơ lý)
[19] EN 563, Safety of machinery - Temperatures of touchable surfaces - Ergonomics data to establish temperature limit values for hot surfaces (An toàn máy - Nhiệt độ của các bề mặt có thể chạm vào - Dữ liệu ecgônômi để thiết lập các giá trị giới hạn nhiệt độ cho các bề mặt nóng)
[20] CEN/CENELEC Guide 14, Child safety - Guidance for its inclusion in standards1)) (An toàn trẻ em - Hướng dẫn đưa nội dung này vào các tiêu chuẩn)
[21] CR 13387, Child use and care articles - General and common safety guidelines (Các sản phẩm chăm sóc và sử dụng của trẻ em - Tổng quan và hướng dẫn an toàn chung)
[22] CR 14379, Classification of toys - Guidelines (Phân loại đồ chơi - Hướng dẫn)
[23] ASTM F 963-11, Standard Consumer Safety Specification on Toy Safety (Quy định kỹ thuật tiêu chuẩn an toàn cho người tiêu dùng về an toàn đồ chơi)
[24] Handbook for Public Playground Safety. US Consumer Product Safety Commission, Publication No. 325, 1997 (Sổ tay an toàn sân chơi công cộng, Ủy ban an toàn sản phẩm tiêu dùng Hoa Kỳ)
[25] Childata - The handbook of child measurements and capabilities. UK Department of Trade and Industry. DTI, 1995 (Sổ tay về đo lường và khả năng của trẻ)
[26] WHO/UNICEF World Report on Child Injury Prevention (Báo cáo về ngăn ngừa thương tích ở trẻ)
[27] KUTNER L. and OLSON C.K.. Grand Theft Childhood. Simon & Schuster, 2008
[28] PHILLIPS D.. Early childhood development and disability: Discussion paper. WHO/UNICEF, Geneva, 2012 (Sự phát triển và khuyết tật ở trẻ nhỏ)
[29] PEDEN M. et al. World report on child injury prevention. WHO/UNICEF, Geneva, 2008 (Báo cáo thế giới về ngăn ngừa thương tích ở trẻ)
[30] BJORKLUND D.. Children’s Thinking: Developmental Function and Individual Differences Wadsworth/Thomson Learning, Belmont, CA, Fourth Edition, 2005 (Chức năng phát triển và sự khác biệt cá nhân)
[31] DAVIES D.. Child Development: A Practitioner’s Guide. The Guilford Press, New York, 1999
[32] ELIOT. L.. What’s Going On. In: There? How the Brain and Mind Develop In the First Five Years of Life. Bantam Books, New York, 1999 (Não và trí tuệ phát triển như thế nào trong 5 năm đầu đời)
[33] GOPNIK A., MELTZOFF A.N. and KUHL P.K.. The Scientist in the Crib: Minds, Brains, and how Children Learn. William Morrow and Company, New York, 1999
[34] HEALY J.M.. Your Child’s Grown Mind: Brain Development and Learning from Birth to Adolescence. Broadway Books, New York, 2004 (Phát triển trí não và học tập từ khi sinh ra đến tuổi thiếu niên)
[35] RUFF H.A.. Infants’ Manipulative Exploration of Objects: Effects of Age and Objects Characteristics. Dev. Psychol. 1984, 20 (1) pp. 9-20 (Ảnh hưởng của tuổi và đặc điểm của đồ vật)
[36] SINGER J.L.. Imaginative play and adaptive development. In: Toys, Play and Child Development, (Goldstein J.H. ed.). Cambridge University Press, Cambridge, 1994 (Trò chơi tưởng tượng và phát triển thích ứng)
[37] U.S. Consumer Product Safety Commission (CPSC): Relating Children’s Ages to Toy Characteristics and Play Behaviour, September 2002 (Mối liên hệ giữa độ tuổi của trẻ với đặc tính đồ chơi và hành vi trò chơi)
[38] GOLDSTEIN J.H.. (ed). Toys, Play and Child Development (pp. 6-26). Cambridge University Press, Cambridge, 1994 (Đồ chơi trẻ em, trò chơi và sự phát triển của trẻ)
[39] ISO Catalogue of standards: http://www.iso.org/iso/home/store/catalogue_ics.htm
[40] Consumer Product Safety Commission, http://www.cpsc.gov/
[41] Luật trẻ em 2016.
MỤC LỤC
0 Lời giới thiệu
1 Phạm vi áp dụng
2 Tài liệu viện dẫn
3 Thuật ngữ và định nghĩa
4 Tiếp cận chung về an toàn cho trẻ em
4.1 Khái quát
4.2 Mô tả độ tuổi được sử dụng trong tiêu chuẩn này
4.3 Đánh giá rủi ro
4.4 Ngăn ngừa và giảm tổn hại
4.5 Tính “vô hình” ở trẻ em
4.6 Nhu cầu của trẻ khuyết tật
5 Xem xét về an toàn: sự phát triển, hành vi và tổn hại không chủ ý của trẻ em
5.1 Sự phát triển và hành vi của trẻ em
5.2 Áp dụng kiến thức về sự phát triển của trẻ em để ngăn ngừa tổn hại
5.3 Độ tuổi theo thời gian so với độ tuổi phát triển
5.4 Từ 16 tuổi trở lên
6 Môi trường an toàn cho trẻ em
6.1 Khái quát
6.2 Môi trường vật lý
6.3 Môi trường xã hội
6.4 Môi trường ngủ
7 Các mối nguy liên quan đến trẻ em
7.1 Khái quát
7.2 Mối nguy cơ học và ngã
7.3 Ngã và các thương tích do va đập khác
7.4 Mối nguy do đuối nước
7.5 Mối nguy ngạt thở
7.6 Mối nguy bị nghẹt thở
7.7 Các đồ vật nhỏ và mối nguy do hút/mút
7.8 Mối nguy cháy
7.9 Mối nguy do nhiệt
7.10 Mối nguy do hóa chất
7.11 Mối nguy bị điện giật
7.12 Mối nguy bức xạ
7.13 Mối nguy từ tiếng ồn (áp suất âm thanh)
7.14 Mối nguy sinh học
7.15 Mối nguy do nổ và tia lửa
8Sự đầy đủ của chức năng bảo vệ
8.1 Khái quát
8.2 Chức năng bảo vệ của sản phẩm
8.3 Chức năng bảo vệ khi lắp đặt
8.4 Chức năng bảo vệ cá nhân
8.5 Chức năng bảo vệ của hành vi
8.6 Chức năng bảo vệ của hướng dẫn
Phụ lục A (tham khảo) Danh sách kiểm tra
Thư mục tài liệu tham khảo
1) Bao gồm danh mục tài liệu tham khảo mở rộng về sự phát triển của trẻ em và nguy cơ tiếp xúc với nguy hiểm, hành vi dễ bị nguy hiểm và nguy cơ bị thương, các biện pháp phòng ngừa tiềm năng và các ấn phẩm dành riêng cho sản phẩm/dịch vụ dành cho trẻ em dưới 14 tuổi.
Bạn chưa Đăng nhập thành viên.
Đây là tiện ích dành cho tài khoản thành viên. Vui lòng Đăng nhập để xem chi tiết. Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!