Nghị quyết 34/2009/NQ-QH12 của Quốc hội đẩy mạnh chính sách, pháp luật về quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết 34/2009/NQ-QH12
Cơ quan ban hành: | Quốc hội | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 34/2009/NQ-QH12 | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Nguyễn Phú Trọng |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 19/06/2009 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Y tế-Sức khỏe, Chính sách |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Nghị quyết 34/2009/NQ-QH12
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
NGHỊ QUYẾT
CỦA QUỐC HỘI SỐ 34/2009/NQ-QH12 NGÀY 19 THÁNG
6 NĂM 2009
ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
CHẤT LƯỢNG, VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
Căn cứ
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ
sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Căn cứ
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội;
Sau khi xem xét Báo cáo kết quả giám sát số 225/BC-UBTVQH12
ngày 18 tháng 5 năm 2009 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Báo cáo số 45/BC-CP ngày 07 tháng 4 năm 2009 của Chính phủ về
việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn
thực phẩm và ý kiến của đại biểu Quốc hội, Báo cáo tiếp thu, giải trình số
251/BC-UBTVQH12 ngày 18 tháng 6 năm 2009
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Tán thành với nội dung Báo cáo kết quả giám sát của Ủy ban
thường vụ Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý chất
lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhất trí đánh giá công tác quản lý và bảo đảm
chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm trong thời gian qua đã có nhiều chuyển
biến tích cực nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu và vẫn còn là vấn đề được toàn xã
hội đặc biệt quan tâm.
Điều 2. Nhằm đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý
chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, giao Chính phủ thực hiện các nhiệm vụ
sau đây:
1. Sớm trình Quốc hội xem xét, ban hành Luật An
toàn thực phẩm; sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo
thẩm quyền để điều chỉnh toàn diện, đồng bộ và thống nhất các vấn đề về quản lý
chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm.
2. Xây dựng chiến lược quốc gia bảo đảm chất
lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2020 và xác định
việc bảo đảm chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm là Chương trình mục tiêu
quốc gia. Có lộ trình và giải pháp cần thiết, mạnh mẽ để giải quyết dứt điểm
các vấn đề tồn tại trong công tác quản lý và bảo đảm chất lượng, vệ sinh an
toàn thực phẩm như cấp giấy chứng nhận cơ sở sản xuất, kinh doanh đủ điều kiện
vệ sinh an toàn thực phẩm; quy hoạch cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm tập trung, chợ
đầu mối thực phẩm; kiểm soát ô nhiễm vi sinh vật và tồn dư hoá chất trong thực
phẩm, ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua thực phẩm; quản lý chặt chẽ thực phẩm
có nguy cơ cao, thực phẩm chức năng và thực phẩm nhập khẩu, đặc biệt là thực
phẩm nhập khẩu tiểu ngạch.
3. Kiện toàn hệ thống tổ chức cơ quan quản lý
nhà nước về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm từ Trung ương đến cấp huyện.
Áp dụng phù hợp hình thức cộng tác viên trong công tác quản lý chất lượng, vệ
sinh an toàn thực phẩm ở cấp xã. Củng cố và tăng cường mọi mặt để nâng cao khả
năng, hiệu quả hoạt động của cơ quan tham mưu, giúp việc về an toàn vệ sinh
thực phẩm thuộc Bộ Y tế đi đôi với đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động để
giúp Bộ Y tế thực hiện có hiệu quả chức năng đầu mối, chủ trì thực hiện quản lý
nhà nước về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm trong phạm vi cả nước.
4. Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành, phối
hợp chặt chẽ và phân công rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng, vệ
sinh an toàn thực phẩm trong các công đoạn sản xuất nguyên liệu, sơ chế, chế
biến, xuất khẩu, nhập khẩu và cung ứng thực phẩm; đối với các loại thực phẩm mà
sự phân biệt giữa các công đoạn của chuỗi thực phẩm không thật rõ ràng thì cần
có quy định cụ thể trách nhiệm giữa các Bộ quản lý đối với từng loại thực phẩm.
Phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương; kết hợp nguồn lực Trung ương, nguồn
lực địa phương và nguồn lực xã hội để bảo đảm tốt hơn yêu cầu quản lý nhà nước
về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm.
5. Kiện toàn hệ thống thanh tra bảo đảm thực
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm.
Tăng cường kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm và kịp thời các hành vi vi phạm
pháp luật về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm.
6. Trong dự toán ngân sách nhà nước hằng năm,
bố trí kinh phí đảm bảo đủ mức cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quản lý chất
lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo đảm tăng dần hằng năm cùng với tăng thu
của ngân sách nhà nước; trong đó chú trọng tăng kinh phí cho công tác quản lý
chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm ở các địa phương, đặc biệt là ở cấp xã. Từ
năm 2010 tăng đầu tư cho Chương trình mục tiêu quốc gia về bảo đảm chất lượng, vệ
sinh an toàn thực phẩm.
7. Tăng đầu tư cho các hoạt động: xây dựng tiêu
chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và địa phương; đào tạo cán bộ, đặc
biệt là lực lượng cán bộ chuyên ngành về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm;
xây dựng mới và nâng cấp một số phòng kiểm nghiệm hiện có đạt tiêu chuẩn khu
vực và quốc tế; hoạt động kiểm nghiệm phục vụ kiểm tra nhà nước về chất lượng,
vệ sinh an toàn thực phẩm; nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ kiểm soát,
cảnh báo nguy cơ ô nhiễm thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm, sản xuất và chế
biến thực phẩm an toàn.
8. Thực hiện chính sách phát triển vùng sản
xuất nông lâm thủy sản tập trung, quy mô lớn, khuyến khích hình thức trang
trại, an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm, thân thiện môi trường, gắn với phát
triển thị trường hàng hoá nông sản an toàn; áp dụng chính sách ưu đãi đối với
các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng quy
mô sản xuất, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, phát triển hệ thống
cung cấp thực phẩm an toàn.
9. Thực hiện công tác tuyên truyền, vận động
thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực
phẩm một cách thường xuyên với các hình thức đa dạng, phù hợp với từng địa
phương; nâng cao ý thức của người tiêu dùng thực phẩm, đạo đức kinh doanh và
trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm đối với sức khoẻ cộng đồng.
Gia tăng đăng tải các thông tin về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm; quản
lý chặt chẽ hoạt động thông tin, quảng cáo thực phẩm; xử lý nghiêm đối với tổ
chức, cá nhân đưa thông tin, quảng cáo không đúng sự thật.
10. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động dịch vụ kỹ
thuật phục vụ công tác quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm; phát huy
vai trò của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
trong việc tham gia bảo đảm chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm; huy động mọi
nguồn lực xã hội để đa dạng hóa các loại hình đào tạo và mở rộng quy mô đào tạo
nhân lực quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm.
11. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm; ký kết hiệp định song phương, đa phương
công nhận, thừa nhận lẫn nhau về kết quả đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật chất lượng sản phẩm thực phẩm, tạo điều kiện thuận lợi xuất
khẩu, nhập khẩu thực phẩm an toàn.
Điều 3. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi
trường, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban khác của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc
hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình giám sát việc thực hiện Nghị quyết này.
Nghị
quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ
họp thứ Năm thông qua ngày 19 tháng 6
năm 2009.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Nguyễn Phú Trọng