Chỉ thị 17/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
- Tóm tắt
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Chỉ thị 17/2004/CT-TTg
Cơ quan ban hành: | Thủ tướng Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 17/2004/CT-TTg | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Chỉ thị | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 24/05/2004 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Tài chính-Ngân hàng, Chính sách |
TÓM TẮT VĂN BẢN
* Đẩy mạnh giải ngân - Theo Chỉ thị số 17/2004/CT-TTg ra ngày 24/5/2004, Về đẩy mạnh giải ngân nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), Thủ tướng Chính phủ chỉ thị: Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm tích cực giải quyết vấn đề cấp đất và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chương trình, dự án ODA trên địa bàn, có kế hoạch xây dựng các khu tái định cư độc lập để chủ động trong việc giải phóng mặt bằng, bảo đảm khởi công và hoàn thành chương trình, dự án theo đúng tiến độ đã được thoả thuận giữa ta và nhà tài trợ... Bên cạnh đó cần tích cực giải quyết vấn đề cấp đất và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chương trình, dự án ODA trên địa bàn, có kế hoạch xây dựng các khu tái định cư độc lập để chủ động trong việc giải phóng mặt bằng, bảo đảm khởi công và hoàn thành chương trình, dự án theo đúng tiến độ đã được thoả thuận giữa ta và nhà tài trợ...
Xem chi tiết Chỉ thị 17/2004/CT-TTg tại đây
tải Chỉ thị 17/2004/CT-TTg
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
CHỈ THỊ
CỦA THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 17/2004/CT-TTG
NGÀY 24 THÁNG 5 NĂM 2004 VỀ ĐẨY MẠNH GIẢI NGÂN
NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA)
Nhờ thành công của
đường lối đổi mới và chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá
của Đảng và Nhà nước, nước ta đã vận động, thu hút được một lượng đáng kể vốn
ODA phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Từ năm 1993 đến nay, cam kết
ODA năm sau cao hơn năm trước, đạt tổng lượng 25,34 tỷ USD. Nguồn vốn ODA đã
được sử dụng để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; giải quyết các vấn đề
xã hội như xoá đói, giảm nghèo; phát triển y tế, giáo dục và khoa học, công
nghệ; bảo vệ môi trường; cải cách hành chính, luật pháp; hỗ trợ một số lĩnh vực
sản xuất. Nhiều công trình đầu tư bằng vốn ODA đã được đưa vào sử dụng, góp
phần tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Công tác quản lý nhà
nước về ODA được tăng cường và từng bước đi vào nề nếp. Hệ thống các cơ quan
quản lý ODA ở các cấp được hình thành. Năng lực cán bộ quản lý ODA ở Trung ương
và cơ sở đã được nâng cao một bước.
Tuy nhiên, tình hình
giải ngân nguồn vốn ODA trong thời gian qua mới chỉ đạt 70 - 80% kế hoạch đề
ra, thấp hơn mức giải ngân trung bình của các nước tiếp nhận ODA trong khu vực.
Việc giải ngân chậm do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ quan của ta là
chính; đó là tình trạng thiếu quy hoạch và chính sách đồng bộ trong việc thu
hút và sử dụng ODA; quy trình và thủ tục thẩm định và phê duyệt chương trình,
dự án còn phức tạp và thiếu minh bạch; công tác đền bù, di dân và giải phóng
mặt bằng kéo dài và có nhiều bất cập; thủ tục hành chính còn rườm rà, phải qua
nhiều cửa, nhiều khâu; lãnh đạo một số Bộ, cơ quan và địa phương chưa chỉ đạo
ráo riết và đôn đốc, kiểm tra sát sao quá trình thực hiện; năng lực cán bộ quản
lý ODA ở các cấp nhìn chung còn yếu...
Xuất phát từ thực tế
trên, để đẩy mạnh giải ngân ODA trong năm 2004 và các năm sau, phấn đấu đạt mức
giải ngân ODA bình quân hàng năm chí ít bằng mức của khu vực, nâng cao hiệu quả
quản lý và sử dụng vốn ODA phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, Thủ tướng Chính phủ
chỉ thị cho các Bộ, cơ quan Trung ương và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương thực hiện các nhiệm vụ sau:
1. Các cơ quan chức năng phải rà soát ngay toàn bộ các văn bản pháp quy có liên quan đến quản lý nhà nước về ODA và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ những giải pháp cần thiết để điều chỉnh, bổ sung nhằm nâng cao tính pháp lý cũng như tính đồng bộ của các văn bản này với các văn bản pháp quy khác liên quan tới công tác quản lý đầu tư và xây dựng.
2. Các Bộ, cơ quan và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải thực hiện ngay việc rà soát kế hoạch phân bổ vốn đầu tư năm 2004 để bảo đảm đủ vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA.
3. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm tích cực giải quyết vấn đề cấp đất và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chương trình, dự án ODA trên địa bàn; có kế hoạch xây dựng các khu tái định cư độc lập để chủ động trong việc giải phóng mặt bằng, bảo đảm khởi công và hoàn thành chương trình, dự án theo đúng tiến độ đã được thoả thuận giữa ta và nhà tài trợ.
4. Các cơ quan chủ chương trình, dự án phải kiện toàn và tăng cường năng lực cán bộ cũng như năng lực quản lý điều hành của các Ban Quản lý dự án ODA và bảo đảm cán bộ cho các đơn vị này; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh hệ thống định mức, tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với tình hình thực tế và thông lệ quốc tế.
5. Các cơ quan quản lý nhà nước về ODA cần tăng cường phối hợp với nhau và với Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trong quá trình quản lý và điều phối ODA, trong đó cần đề ra định chế thích hợp để khuyến khích các đơn vị thực hiện tốt các dự án ODA và cảnh báo các đơn vị yếu kém. Năng lực giải ngân các chương trình, dự án ODA của cơ quan, đơn vị thực hiện cần được coi là tiêu chí để thẩm định và phê duyệt chương trình, dự án của cơ quan, đơn vị đó.
6. Theo sự phân công của Chính phủ, các cơ quan chức năng cần tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra các dự án ODA kết hợp với công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực đầu tư; tiến hành đánh giá các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA sau khi đã kết thúc xây dựng; lựa chọn một số công trình để cùng với các nhà tài trợ tổ chức đánh giá chung; tăng cường hợp tác với nhà tài trợ để đẩy mạnh giải ngân vốn ODA.
Để triển khai thực hiện các nhiệm vụ nói trên, Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ cho các Bộ, ngành thực hiện một số công việc cụ thể sau:
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan rà soát lại toàn bộ các văn bản pháp quy liên quan tới quản lý nhà nước về ODA. Trước mắt, trong qúy II năm 2004 trình Thủ tướng Chính phủ những kiến nghị bổ sung và sửa đổi Nghị định số 17/2001/NĐ-CP ban hành Quy chế quản lý và sử dụng ODA theo tinh thần chỉ đạo của Chỉ thị này.
2. Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp chặt chẽ trong quá trình chỉnh sửa Nghị định số 22/1998/NĐ-CP và dự thảo Nghị định về thi hành Luật Đất đai để trình Chính phủ ban hành ngay sau khi Luật Đất đai sửa đổi có hiệu lực.
3. Bộ Xây dựng nghiên cứu bổ sung các nội dung liên quan đến phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán của các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn ODA vào các Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật Xây dựng theo hướng chặt chẽ song tránh phiền hà, thủ tục rườm rà.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư rà soát và bảo đảm đủ vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA trong kế hoạch năm 2004; sửa đổi cách giao chỉ tiêu kế hoạch vốn đối ứng để áp dụng trong kế hoạch 2005 nhằm bảo đảm để các Bộ, cơ quan và tỉnh, thành phố linh hoạt phân bổ vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA theo đúng tiến độ thực hiện đã thoả thuận với nhà tài trợ.
5. Bộ Tài chính ban hành trong qúy III năm 2004 các văn bản cần thiết để tinh giản hoá các quy trình, thủ tục kiểm soát chi, thanh toán khối lượng hoàn thành, thủ tục giải ngân vốn ODA và vốn đối ứng; rà soát để cải thiện một bước các định mức chi tiêu của các Ban Quản lý dự án.
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư hợp tác với các Bộ, cơ quan, địa phương và các nhà tài trợ triển khai trong qúy III năm 2004 Chương trình đào tạo tăng cường năng lực cho các Ban Quản lý dự án ODA.
7. Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm Tổ trưởng Tổ liên ngành, với thành viên là cán bộ cấp Vụ đại diện cho các Bộ : Tài chính, Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Văn phòng Chính phủ, để giao ban định kỳ bắt đầu từ qúy II năm 2004 nhằm phát hiện và giải quyết kịp thời những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án ODA, tổng hợp kết quả giao ban báo cáo Thủ tướng Chính phủ và thông báo cho các Bộ, cơ quan, tỉnh và thành phố có liên quan nắm thông tin và có biện pháp cải tiến ở đơn vị và địa phương mình.
8. Trong tháng 6 năm 2004, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về ODA và các nhà tài trợ xây dựng kế hoạch hành động về hài hoà quy trình và thủ tục ODA, tập trung vào các khâu thẩm định và phê duyệt chương trình, dự án, đấu thầu, kế hoạch giải ngân, theo dõi và đánh giá chương trình, dự án, chế độ báo cáo về tình hình thực hiện chương trình, dự án ODA.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm đôn đốc, theo dõi và báo cáo định kỳ Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện Chỉ thị này.