Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Quyết định 04/2019/QĐ-KTNN hướng dẫn phương pháp tiếp cận kiểm toán dựa trên đánh giá rủi ro
- Tóm tắt
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Quyết định 04/2019/QĐ-KTNN
Cơ quan ban hành: | Kiểm toán Nhà nước | Số công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 04/2019/QĐ-KTNN | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Quyết định | Người ký: | Hồ Đức Phớc |
Ngày ban hành: | 31/12/2019 | Ngày hết hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày hết hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Áp dụng: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Kế toán-Kiểm toán |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Hướng dẫn phương pháp tiếp cận kiểm toán dựa trên đánh giá rủi ro
Cụ thể, hướng dẫn này quy định chính sách xác định trọng yếu kiểm toán và hướng dẫn vận dụng phương pháp tiếp cận kiểm toán dựa trên đánh giá rủi ro và xác định trọng yếu kiểm toán khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách của các địa phương; báo cáo tài chính và báo cáo quyết toán của các đơn vị dự toán thuộc ngân sách địa phương (viết tắt là BCNSĐP) do Kiểm toán Nhà nước thực hiện.
Trong đó, chính sách xác định trọng yếu kiểm toán quy định và hướng dẫn các nội dung chủ yếu sau: Xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP; Xác định mức trọng yếu đối với các khoản mục, nhóm giao dịch số dư tài khoản và thông tin thuyết minh cần lưu ý; Xác định ngưỡng sai sót không đáng kể; Xác định mức trọng yếu thực hiện.
Cần chú ý, việc xác định mức trọng yếu của các đơn vị ngân sách cấp dưới phải đảm bảo nguyên tắc, mức trọng yếu đối với các BCNSH phải thấp hơn mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP, nhằm giảm xuống một mức độ thấp hợp lý khả năng tổng hợp các sai sót không được điều chỉnh và không được phát hiện trong BCNSH không vượt quá mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP.
Quyết định này có hiệu lực từ ngày 14/02/2020.
Xem chi tiết Quyết định 04/2019/QĐ-KTNN tại đây
tải Quyết định 04/2019/QĐ-KTNN
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
QUYẾT ĐỊNH
Ban hành Hướng dẫn phương pháp tiếp cận kiểm toán dựa trên đánh giá rủi ro và xác định trọng yếu trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách địa phương
Căn cứ Luật Kiểm toán nhà nước;
Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 22/6/2015;
Căn cứ Quyết định số 02/2016/QĐ-KTNN ngày 15/7/2016 của Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán nhà nước;
Căn cứ Quyết định số 1662/QĐ-KTNN ngày 03/11/2017 của Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành Quy chế soạn thảo, thẩm định, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quản lý của Kiểm toán nhà nước;
Theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán và Vụ trưởng Vụ Pháp chế;
Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành Quyết định Hướng dẫn phương pháp tiếp cận kiểm toán dựa trên đánh giá rủi ro và xác định trọng yếu trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách địa phương.
Nơi nhận: |
TỔNG KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
Hồ Đức Phớc
|
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
HƯỚNG DẪN
PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN KIỂM TOÁN DỰA TRÊN ĐÁNH GIÁ
RỦI RO VÀ XÁC ĐỊNH TRỌNG YẾU TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH,
BÁO CÁO QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG
(Ban hành kèm theo Quyết định số 04/2019/QĐ-KTNN ngày 31/12/2019
của Tổng Kiểm toán nhà nước)
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Các thuật ngữ sử dụng trong hướng dẫn này được định nghĩa như trong các chuẩn mực kiểm toán hiện hành của KTNN.
CHÍNH SÁCH XÁC ĐỊNH TRỌNG YẾU KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH,
BÁO CÁO QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG
Mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP | = | Tỷ lệ phần trăm (%) xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP | X | Giá trị tiêu chí được lựa chọn xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP |
- Tiêu chí phù hợp để xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP có thể được lựa chọn từ một hoặc một số khoản mục quan trọng nhất trong các yếu tố của BCNSĐP như: Tổng số thu (hoặc Tổng số thu cân đối ngân sách); Tổng số chi (hoặc Tổng số chi cân đối ngân sách); thu NSNN; Chi đầu tư phát triển; Chi thường xuyên ...
- Việc lựa chọn tiêu chí để xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCQTNSĐP phụ thuộc vào xét đoán chuyên môn của KTVNN dựa trên các yếu tố sau:
+ Các khoản mục trên BCNSĐP mà đối tượng sử dụng thông tin thường quan tâm;
+ Quy mô ngân sách, đặc điểm của địa phương; môi trường kiểm soát; định hướng phát triển KT-XH của địa phương…
+ Sự thay đổi tiêu chí lựa chọn khi có yếu tố biến động bất thường.
Ví dụ: Trong trường hợp địa phương có số chi đầu tư phát triển lớn, biến động tăng giảm bất thường so với các năm trước thì KTVNN có thể sẽ không sử dụng tiêu chí Tổng số chi để tính mức trọng yếu mà sử dụng tiêu chí Chi đầu tư phát triển;...
- Trường hợp chọn nhiều tiêu chí để xác định mức trọng yếu thì mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP là giá trị thấp nhất xác định được từ các tiêu chí trên.
- Khi lựa chọn chỉ tiêu hợp lý để xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP dựa trên các chỉ tiêu trên, KTVNN cần phản ánh trong hồ sơ kiểm toán những diễn giải chi tiết lý do lựa chọn của mình.
- KTNN xây dựng khung tỷ lệ sử dụng để xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP là một khoảng tỷ lệ phần trăm (%) tương ứng với mỗi giá trị tiêu chí được lựa chọn (chi tiết theo Bảng 1):
STT |
|
Mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP |
A |
|
Báo cáo quyết toán NSNN |
I |
|
Biểu cân đối quyết toán ngân sách địa phương |
1 |
|
0,5 – 2% Tổng số thu |
2 |
|
0,5 – 2% Tổng số chi |
II |
|
Biểu quyết toán thu NSNN, vay NSĐP |
1 |
|
0,5 – 2% Tổng số thu |
III |
|
Biểu quyết toán chi NSĐP |
1 |
|
0,5 – 2% Tổng số chi |
B |
|
Báo cáo tài chính nhà nước |
I |
|
Báo cáo tình hình tài chính nhà nước |
1 |
|
0,5-2% Tổng tài sản |
2 |
|
0,5-2% Tổng nguồn vốn |
II |
|
Báo cáo kết quả hoạt động tài chính nhà nước |
1 |
|
0,5-2% Tổng thu nhập |
2 |
|
0,5-2% Tổng chi phí |
3 |
|
3-10% Thặng dư/ thâm hụt |
C |
|
Báo cáo quyết toán và báo cáo tài chính của các đơn vị dự toán |
I |
|
Đối với Báo cáo quyết toán kinh phí hoạt động |
1 |
|
0,5-2% Kinh phí được sử dụng trong năm |
2 |
|
0,5-2% Kinh phí đề nghị quyết toán |
II |
|
Đối với Báo cáo kết quả hoạt động |
1 |
|
0,5-2% Tổng doanh thu |
2 |
|
0,5-2% Tổng chi phí |
3 |
|
3-10% Thặng dư/ thâm hụt trong năm trước thuế |
III |
|
Báo cáo tình hình tài chính |
1 |
|
0,5-2% Tổng tài sản |
2 |
|
0,5-2% Tổng nguồn vốn |
Lưu ý: KTVNN phải căn cứ vào tính chất, đặc điểm, quy mô và cơ cấu thu chi NSĐP; tình hình quản lý thu, chi NSNN của địa phương; kết quả đánh giá rủi ro kiểm toán để quyết định tỷ lệ xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP.
- Khi xây dựng kế hoạch kiểm toán tổng quát kiểm toán BCNSĐP, mức trọng yếu được xác định như sau:
+ Đối với cấp BCNSĐP: Việc xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP thực hiện theo hướng dẫn tại Tiết a, b, c, d Khoản 1 Điều 6 của Hướng dẫn này. Trên cơ sở mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP đã được xác định, thực hiện xác định mức trọng yếu cho từng đơn vị cấp dưới tương ứng theo xét đoán và các tiêu chí nhất định.
+ Đối với cấp Báo cáo quyết toán của ngân sách cấp dưới (viết tắt là BCNSH): Trên cơ sở mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP đã được xác định, thực hiện phân bổ cho các ngân sách cấp dưới tương ứng theo xét đoán và các tiêu chí nhất định:
Mức trọng yếu đối với BCNSH của các huyện có thể được xác định theo mức phân bổ theo các tiêu chí (ví dụ chỉ tiêu tổng thu, tổng chi ngân sách huyện… chiếm tỷ lệ bao nhiêu % trong tổng số thu, chi của NSĐP và được phân bổ mức trọng yếu tương ứng). Hoặc các đơn vị ngân sách cấp dưới có thể được xác định mức trọng yếu dựa trên các đặc điểm, quy mô của từng đơn vị và thường khác nhau tại mỗi đơn vị tương ứng theo xét đoán của KTVNN: quy mô tiêu chí lựa chọn càng lớn thì tỷ lệ % trên tiêu chí càng nhỏ; rủi ro của đơn vị càng lớn thì tỷ lệ % trên tiêu chí càng nhỏ.
Song trong cả hai trường hợp việc xác định mức trọng yếu của các đơn vị ngân sách cấp dưới phải đảm bảo nguyên tắc mức trọng yếu đối với các BCNSH phải thấp hơn mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP, nhằm giảm xuống một mức độ thấp hợp lý khả năng tổng hợp các sai sót không được điều chỉnh và không được phát hiện trong BCNSH không vượt quá mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP (KTVNN dựa trên xét đoán mức độ rủi ro tại từng đơn vị cấp dưới để phân bổ mức trọng yếu tương ứng, nhưng mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSH không được vượt quá mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP).
- Với các giao dịch nội bộ cần phân loại riêng để đánh giá, xác định trọng yếu.
- Pháp luật, các quy định hoặc khuôn khổ về lập và trình bày BCNSĐP được áp dụng có thể gây ảnh hưởng đến kỳ vọng của đối tượng sử dụng thông tin tài chính đối với một số khoản mục trên BCNSĐP (Quy định về việc trình bày chi tiết các khoản chi tại báo cáo quyết toán chi ngân sách nhà nước có thể hướng sự quan tâm của các đối tượng sử dụng thông tin tài chính đối với các chỉ tiêu có ảnh hưởng tới bộ phận lớn trong xã hội....).
- Các thuyết minh quan trọng liên quan đến đặc điểm, tình hình kinh tế chính trị của địa phương được kiểm toán, chính sách nhà nước trong từng thời kỳ được kiểm toán (Ví dụ: đối với địa phương thường xuyên bội chi ngân sách, trong khi các khoản chi thường xuyên như chi hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, chi khác ngân sách có xu hướng tăng cao thì các khoản chi đó có thể cần được lưu ý).
- Đối tượng sử dụng BCNSĐP quan tâm đến một khoản mục nhất định được thuyết minh riêng rẽ trên BCQT (Ví dụ: trong giai đoạn nhà nước thực hiện chính sách thắt chặt tài khóa, tiết giảm đầu tư công. Quốc hội quan tâm đến hiệu quả sử dụng các khoản chi đầu tư XDCB tại các địa phương, thì khoản mục chi đầu tư phát triển có thể cần được lưu ý).
- Các chỉ tiêu liên quan đến định hướng, trọng tâm kiểm toán của ngành thuộc lĩnh vực kiểm toán BCNSĐP (Ví dụ: công tác quản lý thu tiền sử dụng đất liên quan đến kiểm toán chuyên đề thu sử dụng đất trong năm).
- Các khoản mục của BCNSĐP có sự tăng, giảm đột biến so với kỳ trước (ví dụ: các khoản chi sự nghiệp giáo dục trong năm giảm rất nhiều so với năm trước).
- Mức trọng yếu đối với khoản mục cần lưu ý là giá trị tối đa của toàn bộ sai sót đối với từng khoản mục trên BCNSĐP được kiểm toán mà KTVNN cho rằng ở mức đó khoản mục có thể bị sai nhưng chưa ảnh hưởng đến quyết định của các đối tượng sử dụng thông tin.
- Tùy vào hoàn cảnh cụ thể, có thể có các khoản mục có sai sót với mức thấp hơn mức trọng yếu tổng thể đối với BCNSĐP nhưng vẫn ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng thông tin của BCNSĐP thì KTVNN phải xác định mức trọng yếu hoặc các mức trọng yếu áp dụng cho từng khoản mục này. Tuy nhiên, mức trọng yếu riêng cho các khoản mục trên BCNSĐP không được lớn hơn mức trọng yếu tổng thể đối với BCNSĐP.
- Đối với những khoản mục trọng yếu về bản chất hoặc hậu quả của sai sót tại khoản mục đó nếu xảy ra là nghiêm trọng thì mức trọng yếu được xác định ở mức tỷ lệ thấp trong khung.
- Trường hợp có những khoản mục, thông tin thuyết minh có yêu cầu chính xác cao về số liệu, mức trọng yếu đối với khoản mục đó có thể được xác định ở mức rất thấp (mức trọng yếu gần bằng 0). Khi đó, KTVNN có thể kiểm toán gần như toàn bộ các giao dịch có liên quan nhằm phát hiện các sai sót có liên quan đến khoản mục.
Mức trọng yếu thực hiện BCNSĐP | = | Tỷ lệ phần trăm (%) xác định mức trọng yếu thực hiện BCNSĐP | X | Mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP |
Ví dụ: thông thường xác định mức trọng yếu thực hiện được xác định ở tỷ lệ phần trăm (%) thấp (trong khung hướng dẫn) khi có các yếu tố như: có nhiều chỉ tiêu thu, chỉ tiêu chi có biến động lớn trong năm; số bổ sung nhiệm vụ cuối năm cho các đơn vị cấp dưới lớn; hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động không hiệu quả; năng lực nhân viên không đạt yêu cầu;...
Ngưỡng sai sót không đáng kể | = | Tỷ lệ phần trăm (%) xác định ngưỡng sai sót không đáng kể | x | Mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP |
VẬN DỤNG ĐÁNH GIÁ RỦI RO VÀ XÁC ĐỊNH TRỌNG YẾU
TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ KIỂM TOÁN
Khi khảo sát và thu thập thông tin, KTVNN thực hiện theo quy định tại Quy trình kiểm toán ngân sách địa phương hiện hành do Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành, trong đó cần lưu ý:
KTVNN sử dụng các xét đoán chuyên môn để tìm hiểu đánh giá Hệ thống KSNB của đơn vị có thể thực hiện bằng cách phỏng vấn, quan sát, hoặc kiểm tra tài liệu (theo Phụ lục số 02/HD-RRTY-NSĐP), bao gồm:
- KTVNN phải tìm hiểu về môi trường kiểm soát của đơn vị theo hướng dẫn tại các đoạn từ Đoạn 24 đến Đoạn 28 của CMKTNN số 1315 - Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu thông qua hiểu biết về đơn vị được kiểm toán và môi trường hoạt động của đơn vị trong kiểm toán tài chính.
- Để tìm hiểu môi trường kiểm soát của đơn vị, KTVNN phải xem xét các yếu tố: truyền đạt thông tin về tính chính trực và giá trị đạo đức; đảm bảo về năng lực; hoạt động của bộ phận kiểm soát; triết lý và phong cách điều hành của lãnh đạo đơn vị; cơ cấu tổ chức; phân công quyền hạn và trách nhiệm; các chính sách và quy định về nhân sự.
KTVNN tìm hiểu quy trình quản trị rủi ro của đơn vị để: xác định rủi ro hoạt động liên quan tới mục tiêu lập và trình bày BCNSĐP; ước tính mức độ rủi ro và đánh giá khả năng xảy ra rủi ro; quyết định các thủ tục kiểm toán thích hợp đối với các rủi ro đó theo hướng dẫn tại Đoạn 31đến Đoạn 32 của CMKTNN số 1315 - Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu thông qua hiểu biết về đơn vị được kiểm toán và môi trường hoạt động của đơn vị trong kiểm toán tài chính. Trong đó lưu ý:
- Nếu đơn vị đã xây dựng quy trình quản trị rủi ro, KTVNN phải tìm hiểu và đánh giá nội dung, kết quả và tính phù hợp của quy trình này hoặc xác định những khiếm khuyết nghiêm trọng trong kiểm soát nội bộ liên quan đến quy trình đánh giá rủi ro của đơn vị trong việc không phát hiện được rủi ro có sai sót trọng yếu.
- Nếu đơn vị chưa có quy trình quản trị rủi ro hoặc đã có quy trình nhưng chưa được chuẩn hóa, KTVNN phải trao đổi với lãnh đạo đơn vị về các phát hiện và có biện pháp xử lý các rủi ro hoạt động liên quan tới mục tiêu lập và trình bày BCNSĐP trong kế hoạch kiểm toán. KTVNN phải đánh giá mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng trong kiểm soát nội bộ khi không có văn bản quy định quy trình quản trị rủi ro của đơn vị để xác định các nội dung trọng yếu, mục tiêu trong kế hoạch kiểm toán.
- KTVNN phải tìm hiểu về hệ thống thông tin liên quan đến việc lập và trình bày BCNSĐP:
+ Trình tự lập dự toán, chấp hành, quyết toán ngân sách của địa phương. Việc thẩm tra quyết toán của các cơ quan tài chính, đối chiếu số liệu thu chi với KBNN.
+ Các hoạt động của địa phương trong năm ngân sách kiểm toán và các thời kỳ trước, sau có liên quan có ảnh hưởng quan trọng đối với thông tin trên BCNSĐP.
+ Các thủ tục được thực hiện trong hệ thống công nghệ thông tin hoặc thủ công để tạo lập, ghi chép, xử lý, chỉnh sửa các nghiệp vụ kinh tế, ghi nhận và trình bày trong BCNSĐP.
+ Quy trình lập và trình bày BCNSĐP, bao gồm cả các báo cáo thuyết minh quan trọng như Thuyết minh tình hình sử dụng nguồn dự phòng, tăng thu và thưởng vượt dự toán thu ngân sách năm, Thuyết minh kết dư ngân sách, Báo cáo chi chuyển nguồn sang năm sau....., Thuyết minh tăng, giảm chi quản lý hành chính, Đảng, đoàn thể năm....
+ Các kiểm soát của đơn vị đối với các nghiệp vụ kinh tế phát sinh (Hạch toán nghiệp vụ kinh tế phát sinh, điều chỉnh, chuyển nguồn, kết dư, khóa sổ cuối năm...), cần lưu ý những nghiệp vụ phát sinh trong giai đoạn chỉnh lý quyết toán.
- KTVNN phải tìm hiểu cách thức trao đổi thông tin về vai trò, trách nhiệm và các vấn đề quan trọng khác liên quan đến lập và trình bày BCNSĐP như: Trao đổi giữa lãnh đạo đơn vị và bộ phận kiểm soát; thông tin trao đổi giữa các cơ quan tài chính như Sở Tài chính, KBNN, Cục thuế…
Thực hiện theo quy định tại Đoạn 35 đến Đoạn 40 CMKTNN số 1315 - Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu thông qua hiểu biết về đơn vị được kiểm toán và môi trường hoạt động của đơn vị trong kiểm toán tài chính. Trong đó, cần lưu ý:
- Phải tìm hiểu những hoạt động kiểm soát liên quan đến cuộc kiểm toán mà theo xét đoán của KTVNN là cần thiết để đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ sở dẫn liệu và thiết kế các thủ tục kiểm toán tiếp theo đối với rủi ro đã đánh giá đối với quá trình lập BCNSĐP.
- Các hoạt động kiểm soát là các chính sách và thủ tục nhằm đảm bảo sự chỉ đạo của lãnh đạo đơn vị trong quá trình quản lý, điều hành thực hiện ngân sách như: phê duyệt; đánh giá hoạt động; xử lý thông tin; các kiểm soát vật chất; thực hiện các nguyên tắc trong phân công nhiệm vụ của các Sở, ngành của địa phương...
- Cần chú trọng vào việc phát hiện các hoạt động kiểm soát nghiệp vụ, giao dịch được coi là có mức độ rủi ro có sai sót trọng yếu cao:
+ Việc tuân thủ các quy chế quản lý, kiểm soát trong các khâu: lập, thẩm định quyết toán của cơ quan tài chính đối với các đơn vị sử dụng NSNN, của cơ quan tài chính cấp trên đối với ngân sách cấp dưới.
+ Việc tuân thủ chế độ kế toán: Chế độ kế toán áp dụng, tổ chức bộ máy kế toán; tổ chức hạch toán kế toán theo mục lục ngân sách của kho bạc nhà nước và của các đơn vị sự nghiệp.
+ Việc đối chiếu số liệu thu, chi của các đơn vị sử dụng ngân sách với KBNN.
+ Việc luân chuyển hồ sơ tài liệu khi xác định nghĩa vụ với NSNN trong thu tiền sử dụng đất....
+ Các hoạt động kiểm soát các nghiệp vụ có rủi ro cao khác.
- Tìm hiểu cách thức đơn vị xử lý rủi ro phát sinh từ công nghệ thông tin: việc sử dụng công nghệ thông tin ảnh hưởng đến cách thức hoạt động kiểm soát; các kiểm soát chung về công nghệ thông tin và các chính sách, thủ tục liên quan đến nhiều chương trình ứng dụng và hỗ trợ hiệu quả hoạt động của các kiểm soát chương trình ứng dụng để ngăn chặn hoặc phát hiện các sai sót, đảm bảo tính toàn vẹn của dữ liệu kế toán. Các kiểm soát này thường liên quan đến các thủ tục được sử dụng để tạo lập, ghi chép, xử lý và báo cáo các giao dịch hoặc các dữ liệu tài chính khác nhằm bảo đảm các giao dịch phát sinh được phê duyệt; ghi nhận và xử lý đầy đủ, chính xác.
Thực hiện theo quy định tại Đoạn 41 đến Đoạn 44 CMKTNN số 1315- Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu thông qua hiểu biết về đơn vị được kiểm toán và môi trường hoạt động của đơn vị trong kiểm toán tài chính. Trong đó, KTVNN phải lưu ý tìm hiểu những phương thức chủ yếu mà địa phương sử dụng để giám sát kiểm soát nội bộ đối với việc lập và trình bày BCNSĐP, gồm các hoạt động kiểm soát liên quan đến tạo lập, xử lý các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, điều chỉnh và biện pháp khắc phục các khiếm khuyết trong kiểm soát của địa phương.
- Các thông tin khác cần thu thập về tình hình tài chính ngân sách của địa phương như: các thông tin và kết quả thực hiện của địa phương đối với báo cáo kiểm toán, kết luận thanh tra và kiểm tra nội bộ; các vấn đề cần lưu ý từ những cuộc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán; các vấn đề khác liên quan đến quá trình điều hành, thực hiện ngân sách địa phương...
- KTVNN có thể thu thập thông tin từ các đơn vị khác có liên quan như: cơ quan phê chuẩn dự toán, quyết toán của ngân sách địa phương (Hội đồng nhân dân), cơ quan đã tiến hành thanh tra, kiểm tra, kiểm toán trước đó (các báo cáo, biên bản kết luận,...); các phương tiện thông tin đại chúng (bài viết, thông tin có liên quan đến tài chính ngân sách của địa phương....); các đơn vị khác (nếu có).
Việc xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu theo hướng dẫn tại CMKTNN 1315 - Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu thông qua hiểu biết về đơn vị được kiểm toán và môi trường hoạt động của đơn vị trong kiểm toán tài chính. Trong đó, lưu ý các nội dung sau:
- Đối với lĩnh vực thu từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: các đơn vị hoạt động xây lắp có hoạt động kinh doanh bất động sản, có số thuế được hoàn, được miễn giảm lớn; thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất không được theo dõi đầy đủ…
- Đối với lĩnh vực chi đầu tư XDCB: các dự án phải điều chỉnh tổng mức đầu tư nhiều lần, dự toán thiết kế thay đổi nhiều, dự án kéo dài nhiều năm, chậm tiến độ, tình hình nợ đọng kéo dài; giá trị quyết toán cao hơn dự toán được duyệt; suất đầu tư cao hơn so với công trình cùng loại....
- Đối với lĩnh vực chi thường xuyên: Sử dụng và quyết toán nguồn kinh phí không đúng nội dung, dự toán được duyệt, chi vượt dự toán, không đúng nhiệm vụ và chưa phù hợp với chế độ; Công tác mua sắm tài sản, dịch vụ: có giá mua cao bất thường, không tổ chức đầu thầu…
- Đối với cơ quan quản lý thu NSNN: nhân lực làm công tác thanh tra, kiểm tra chưa đồng đều, công tác phối hợp thu thuế giữa các cơ quan thuế chưa tốt, phối hợp giữa cơ quan thuế, cơ quan Tài nguyên và Môi trường, cơ quan Tài chính trong xác định tiền sử dụng đất, tiền thuê đất chưa tốt…
- Đối với lĩnh vực quản lý chi đầu tư XDCB: Việc triển khai các văn bản quy phạm pháp luật chậm hoặc không triển khai; công tác phân bổ và giao vốn cho một số đơn vị chấp hành chưa đầy đủ, kịp thời về chế độ báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư theo quy định; năng lực của các đơn vị tư vấn tham gia thực hiện dự án chưa cao; trùng lắp hoặc chồng chéo trong điều hành;...
- Đối với lập dự toán: Quá trình xây dựng dự toán của các địa phương còn chưa đảm bảo quy định về các yếu tố như tốc độ tăng trưởng, nhiệm vụ chi chưa căn cứ vào nguồn thu, đối với các địa phương hưởng trợ cấp từ NSTW chưa chủ động để giảm tỷ lệ hỗ trợ, lập dự toán thu NSNN chưa bao quát hết nguồn thu trên địa bàn, tính bền vững của các chỉ tiêu thu; chi tiêu công chưa được xây dựng theo hướng thay đổi cơ cấu, giảm bớt các khoản chi hành chính, tăng chi đầu tư phát triển; phân bổ vốn đầu tư còn dàn trải, dẫn đến các dự án kéo dài nhiều năm làm cho các dự án không phát huy được hiệu quả; chưa phân bổ hết dự toán cho các đơn vị làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện nhiệm vụ....
- Đối với thực hiện dự toán: trong quá trình điều hành ngân sách, các địa phương ban hành các văn bản đặc thù hoặc cơ chế tài chính chưa rõ ràng minh bạch giữa các đơn vị cấp dưới. Hiệu quả của kiểm soát không cao, để xảy ra những tồn tại như làm giảm nguồn thu vào NSNN, tăng chi sai quy định, nhiều khoản chi đặc thù, chuyển nguồn sai quy định...
- Đối với quyết toán ngân sách: Công tác thẩm tra phê duyệt quyết toán chưa hiệu quả; những điều chỉnh trong giai đoạn chỉnh lý quyết toán nhằm đạt được mục tiêu riêng của lãnh đạo quản lý của địa phương...
Thực hiện theo hướng dẫn tại các đoạn từ Đoạn 21 đến Đoạn 42 CMKTNN số 1320- Xác định và vận dụng trọng yếu trong kiểm toán tài chính, trong đó cần lưu ý:
- Việc xác định tiêu chí để xác định mức trọng yếu tổng thể đối với BCNSĐP phụ thuộc vào xét đoán chuyên môn của KTVNN về nhu cầu thông tin của đa số người sử dụng báo cáo quan tâm nhiều nhất đến chỉ tiêu nào.
- Đối với BCNSĐP: Thông thường, chỉ tiêu quan tâm của các cơ quan quản lý nhà nước và công chúng là: tổng số thu, tổng số chi của địa phương, tổng số thu ngân sách trên địa bàn, tổng chi cân đối ngân sách, vì vậy KTVNN có thể lựa chọn một hoặc một số chỉ tiêu này trong từng báo cáo làm tiêu chí ước lượng mức trọng yếu tổng thể đối với tổng thể BCNSĐP.
- Đối với Báo cáo tài chính của các đơn vị dự toán: Thông thường, chỉ tiêu quan tâm của các cơ quan quản lý nhà nước, công chúng là: tổng kinh phí được sử dụng trong năm, kinh phí đề nghị quyết toán trong báo cáo quyết toán kinh phí hoạt động; tổng doanh thu, chi phí trong báo cáo kết quả hoạt động, vì vậy KTVNN có thể lựa chọn một hoặc một số chỉ tiêu này trong từng báo cáo làm tiêu chí ước lượng mức trọng yếu tổng thể đối với Báo cáo tài chính của các đơn vị dự toán.
- Việc xác định tiêu chí để ước tính mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP phụ thuộc vào xét đoán chuyên môn của KTVNN, tùy thuộc vào đặc điểm từng địa phương, thực trạng tài chính, nhu cầu của đa số người sử dụng thông tin.
Ví dụ: Đối với địa phương thường xuyên bội chi ngân sách, nguồn thu hàng năm hạn hẹp, số thu thấp, trong khi đó các khoản chi ngân sách có xu hướng tăng, lúc này mục tiêu kiểm toán quan tâm nhiều hơn đến công tác quản lý điều hành chi ngân sách thì có thể chọn tiêu chí Tổng số chi NSĐP để ước tính mức trọng yếu cho tổng thể BCNSĐP.
- Trong trường hợp chỉ kiểm toán một số khoản mục của BCNSĐP, thì khoản mục đó có thể là tiêu chí phù hợp để xác định mức trọng yếu tổng thể.
Ví dụ: Nếu chỉ thực hiện kiểm toán công tác quản lý thu NSNN trên địa bàn KTVNN có thể chọn tiêu chí Thu NSNN (trong báo cáo quyết toán thu NSNN) để xác định mức trọng yếu tổng thể.
- Việc xác định tiêu chí còn có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác như: đặc điểm, tình hình kinh tế chính trị của địa phương được kiểm toán, chính sách nhà nước trong từng thời kỳ được kiểm toán.
Ví dụ: Trong giai đoạn nhà nước tiết giảm đầu tư công, đồng thời Quốc hội và công chúng đang quan tâm đến hiệu quả sử dụng các khoản chi đầu tư XDCB tại các địa phương, KTVNN có thể lựa chọn tiêu chí để xác định mức trọng yếu có thể là chi đầu tư phát triển, tức là chỉ là một bộ phận trong tổng chi ngân sách địa phương. Hoặc đối với những địa phương miền núi, nguồn thu hạn hẹp, cơ cấu thu ngân sách chủ yếu thu bổ sung từ ngân sách trung ương, lúc này tiêu chí được lựa chọn để xác định mức trọng yếu có thể là Chi cân đối NSĐP.
- Việc lựa chọn các tiêu chí xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP cần có sự thống nhất, đồng bộ tối đa với tất cả các đơn vị cấp dưới (ví dụ: Có thể chọn tiêu chí Tổng số chi đối với báo cáo quyết toán chi NSĐP) hoặc có thể áp dụng lựa chọn kết hợp đồng thời nhiều chỉ tiêu (ví dụ: vừa chọn chỉ tiêu Tổng số thu và chỉ tiêu Tổng số chi đối với báo cáo cân đối quyết toán NSĐP…).
- Giá trị tiêu chí xác định trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán thường dựa trên số liệu báo cáo của đơn vị. Trường hợp trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, địa phương chưa hoàn thành BCNSĐP thì giá trị các tiêu chí được lấy theo số tạm tính theo báo cáo của đơn vị.
- Giá trị của tiêu chí lựa chọn xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP cần được xác định dựa trên các dữ liệu tài chính phù hợp. Khi đơn vị được kiểm toán có những biến động lớn hoặc có những thay đổi quan trọng có liên quan đến môi trường hoạt động của đơn vị, KTVNN cần loại trừ các biến động bất thường để điều chỉnh tăng, giảm giá trị tiêu chí cho phù hợp.
Ví dụ: Trong niên độ ngân sách do sự thay đổi chính sách của nhà nước về Thu tiền khai thác khoáng sản (nộp 1 lần cho cả thời gian khai thác), làm tăng số thu từ các DN ngoài quốc doanh trên địa bàn 500 tỷ đồng. Khi đó KTVNN cần loại trừ số liệu này trước khi xác định mức trọng yếu tổng thể để phản ánh phù hợp mức độ ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng BCNSĐP.
- Trên cơ sở khung xác định mức trọng yếu tổng thể quy định tại Khoản 1 Điều 6 của hướng dẫn này, KTVNN phải sử dụng xét đoán chuyên môn khi xác định tỷ lệ % áp dụng cho tiêu chí đã lựa chọn cho từng cuộc kiểm toán, phụ thuộc vào hiểu biết của KTVNN về mức độ sai sót có thể ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng BCNSĐP.
- Tùy theo từng địa phương, với cùng một tiêu chí lựa chọn nhưng tỷ lệ % tương ứng để xác định mức trọng yếu có thể khác nhau, chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố: Quy mô ngân sách, đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị của từng địa phương được kiểm toán… (Chi tiết xem Bảng 02).
STT |
Trị số của các tiêu chí lựa chọn |
|
Hướng tới tỷ lệ % cao trong khung |
Hướng tới tỷ lệ % thấp trong khung |
|
1 |
Địa phương có quy mô ngân sách nhỏ. |
Địa phương có quy mô ngân sách lớn |
2 |
Các tỉnh, thành phố đồng bằng, kinh tế phát triển tương đối ổn định |
Các tỉnh có địa bàn rộng, phức tạp, hoặc nhiều huyện, thị vùng sâu, miền núi khó khăn, biên giới… |
3 |
Tình hình kinh tế chính trị ổn định, có ít tác động đến tình hình ngân sách |
Tình hình kinh tế chính trị biến động, có nhiều tác động đến tình hình ngân sách |
|
.... |
|
Mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP |
= |
Tỷ lệ phần trăm (%) xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP |
X |
Giá trị tiêu chí lựa chọn để xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP |
Nội dung |
|
Kế hoạch |
Tiêu chí được sử dụng để ước tính mức trọng yếu |
|
Chi cân đối ngân sách
|
Nguồn số liệu để xác định mức trọng yếu |
|
BCNSĐP trước kiểm toán |
Lý do lựa chọn tiêu chí này |
|
Đây là chỉ tiêu quan trọng và được nhiều cơ quan quản lý nhà nước quan tâm |
Giá trị tiêu chí được lựa chọn |
(a) |
10.000 tỷ đồng |
Tỷ lệ sử dụng để ước tính mức trọng yếu |
(b) |
1% |
Lý do lựa chọn tỷ lệ này |
|
Địa phương có quy mô ngân sách trung bình, hệ thống KSNB ở mức trung bình |
Mức trọng yếu tổng thể |
(c)=(a)*(b) |
100 tỷ đồng |
Tỷ lệ sử dụng để ước tính mức trọng yếu thực hiện |
(d) |
60% |
Lý do lựa chọn tỷ lệ này |
|
Do đánh giá quyết toán chi có rủi ro trung bình nên chọn mức trung bình |
Mức trọng yếu thực hiện |
(e)=(c)*(d) |
60 tỷ đồng |
Tỷ lệ xác định ngưỡng sai sót không đáng kể |
(f) |
0,3% |
Lý do lựa chọn tỷ lệ này |
|
Việc quản lý chi NSNN được sự quan tâm của dư luận địa phương |
Ngưỡng sai sót không đáng kể |
(g) = (c)*(f) |
180 triệu đồng |
- Trong một số trường hợp đặc biệt, có thể có các khoản mục có sai sót với mức thấp hơn mức trọng yếu tổng thể đối với BCNSĐP nhưng vẫn ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng thì KTVNN phải xác định mức trọng yếu hoặc các mức trọng yếu áp dụng cho từng khoản mục này. KTVNN có thể dựa vào xét đoán chuyên môn của mình để xác định mức trọng yếu đối với từng khoản mục cần lưu ý hoặc vận dụng tỷ lệ % trong khung tỷ lệ tại chính sách xác định mức trọng yếu kiểm toán để xác định tương tự như đối với xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp thì mức trọng yếu đối với từng khoản mục cần lưu ý đều được xác định ở mức thấp hơn mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP.
- Khi xác định trọng yếu đối với các từng khoản mục cần lưu ý, KTVNN cần thu thập thêm các thông tin về quan điểm và định hướng của lãnh đạo đơn vị được kiểm toán trong việc lập và trình bày các từng khoản mục trong BCNSĐP.
- Đối với những từng khoản mục trọng yếu về bản chất hoặc hậu quả của sai sót tại khoản mục đó nếu xảy ra là nghiêm trọng thì mức trọng yếu được xác định ở mức thấp. Trường hợp có những khoản mục có yêu cầu chính xác cao về số liệu, mức trọng yếu đối với từng khoản mục đó có thể được xác định ở mức rất thấp (mức trọng yếu gần bằng 0), khi đó KTVNN có thể cần kiểm toán toàn bộ các giao dịch có liên quan nhằm phát hiện tất cả các sai sót có liên quan đến từng khoản mục.
Ví dụ: Khi kiểm toán NSĐP của một tỉnh mà Hội đồng nhân dân tỉnh đang quan tâm đến vấn đề chi đầu tư phát triển trên địa bàn vì có nhiều thông tin, ý kiến cho rằng thời gian qua chi đầu tư tăng cao nhưng việc phân bổ vốn đầu tư dàn trải, nhiều công trình chậm được đưa vào sử dụng nên không phát huy được hiệu quả. Khi đó chỉ tiêu chi đầu tư phát triển (xét riêng lẻ) nếu có sai sót với mức thấp hơn mức trọng yếu tổng thể vẫn có thể ảnh hưởng đến đánh giá của người sử dụng thông tin. Vì vậy KTVNN cần phải xác định mức trọng yếu riêng áp dụng cho chỉ tiêu chi đầu tư phát triển thấp hơn mức trọng yếu tổng thể đối với BCNSĐP (chi tiết ví dụ xem Bảng 4).
Các khoản mục cần lưu ý |
Giá trị khoản mục |
Xác định mức trọng yếu khoản mục lưu ý |
Xác định mức trọng yếu thực hiện của KM lưu ý |
Xác định ngưỡng sai sót không đáng kể |
Mô tả cách xác định |
|||
Tỷ lệ% |
Mức trọng yếu |
Tỷ lệ % |
Mức trọng yếu |
Tỷ lệ % |
Ngưỡng sai sót không đáng kể |
|||
(1) |
(2) |
(3) |
(4=3x2) |
(5) |
(6=5x4) |
(5) |
(6=5x4) |
7 |
1. Chi đầu tư phát triển |
1.500 tỷ đồng |
1% |
15 tỷ đồng |
50% |
7,5 tỷ đồng |
1% |
150 triệu đồng |
Do là chỉ tiêu rất quan trọng |
.... |
|
|
|
|
|
|
|
|
Trên cơ sở mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP và mức trọng yếu đối với các khoản mục cần lưu ý, KTVNN xác định các khoản mục trọng yếu (theo Phụ lục số 05/HD-RRTY-NSĐP).
- Xét về mặt định lượng: Các khoản mục trên BCNSĐP có giá trị vượt quá mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP có thể xác định là trọng yếu vì có thể chứa đựng sai sót lớn hơn mức trọng yếu tổng thể.
Ví dụ: Với tiêu chí được lựa chọn khi xác định mức trọng yếu tổng thể là Chi cân đối ngân sách, tỷ lệ sử dụng để xác định mức trọng yếu là 1,5%, giá trị tiêu chí được lựa chọn 10.000 tỷ đồng, mức trọng yếu tổng thể là 150 tỷ đồng; xét về mặt định lượng các khoản mục trên BCNSĐP có giá trị lớn hơn 150 tỷ đồng có thể được xác định là trọng yếu.
- Xét về mặt định tính: Việc xác định các khoản mục trọng yếu không chỉ đơn thuần là việc xem xét về giá trị của các khoản mục trên BCNSĐP mà cần phải sử dụng xét đoán chuyên môn khi xem xét các yếu tố định tính trong hoàn cảnh cụ thể. Một khoản mục có giá trị nhỏ hơn mức trọng yếu có thể là trọng yếu khi xem xét các yếu tố định tính nếu khoản mục là quan trọng và có khả năng chứa đựng sai sót, gian lận. Ngược lại, một khoản mục có giá trị lớn hơn mức trọng yếu có thể không xác định là trọng yếu nếu KTVNN có đủ cơ sở, bằng chứng xác định khoản mục không chứa đựng sai sót trọng yếu.
Ví dụ: Khi xem xét khoản chi hỗ trợ cho doanh nghiệp, do đây là khoản chi phải đúng đối tượng, đúng nội dung chi, vì vậy có thể các khoản chi này có giá trị nhỏ hơn mức trọng yếu song vẫn tiềm ẩn những sai sót trọng yếu. Trong khi khoản chi sự nghiệp giáo dục có giá trị lớn, nhưng KTVNN có bằng chứng về hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả thì không xác định là khoản mục trọng yếu.
Ví dụ: Khi kiểm toán thu NSĐP, KTVNN cần xem xét các chỉ tiêu trên báo cáo quyết toán thu ngân sách để xác định các khoản mục trọng yếu, các chỉ tiêu thường được xem xét như: Thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh; các khoản thu từ đất (thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất...)...
- Độ lớn và thành phần chi tiết của các khoản mục, số lượng của các giao dịch, mức độ phức tạp và tính đồng nhất của các giao dịch liên quan đến khoản mục.
- Khả năng có sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn của các khoản mục.
- Bản chất của các khoản mục (ví dụ: các nhóm khoản mục dễ bị tác động để làm thay đổi BCNSĐP: chi đầu tư, thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh... ).
- Sự phức tạp trong hạch toán kế toán và lập báo cáo các khoản mục (ví dụ: các nghiệp vụ xảy ra ở cuối kỳ kế toán hoặc thuộc nghiệp vụ mới phát sinh; hoặc trong thời gian chỉnh lý quyết toán, các hoạt động đặc thù...)
- Sự tồn tại của giao dịch với các bên liên quan trong các chỉ tiêu và thông tin thuyết minh (ví dụ: xác định số thu tiền sử dụng đất có liên quan đến các Sở Tài chính, Cục thuế, Sở Tài nguyên – môi trường).
- Các khoản mục có sự biến động lớn, bất thường so với giai đoạn trước (ví dụ: khoản mục có các giao dịch mới, phức tạp hoặc mang tính chủ quan).
- Nhu cầu của các đối tượng sử dụng thông tin tài chính, kỳ vọng và mối quan tâm của các nhà quản lý và công chúng về một vấn đề nhất định (ví dụ: những vấn đề nổi cộm được Quốc hội và các cơ quan quản lý nhà nước quan tâm).
- Yêu cầu giám sát theo quy định của pháp luật trong một lĩnh vực (ví dụ: giám sát của Quốc hội về số vay của NSĐP).
- Yêu cầu về việc công khai và minh bạch (ví dụ: yêu cầu công khai cụ thể về gian lận hoặc các thiệt hại khác).
Ví dụ: Khi xem xét, đánh giá trọng yếu kiểm toán liên quan đến lĩnh vực thu ngân sách, KTVNN cần xem xét tỷ trọng, cơ cấu các khoản thu trong Tổng thu NSNN để có đánh giá tổng thể về mặt định lượng. Bên cạnh đó KTVNN cũng cần xem xét tính chất của từng khoản thu để đánh giá khả năng xảy ra sai sót trọng yếu trên báo cáo quyết toán thu ngân sách. Chẳng hạn khoản thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chiếm cơ cấu 30% tổng thu ngân sách; mặt khác đây là khoản thu dễ xảy ra sai sót do các doanh nghiệp cố tình không kê khai dẫn đến thất thu NSNN.
Ví dụ: Sau khi xác định các khoản mục trọng yếu là thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và các khoản thu từ đất; KTVNN cần xem xét các khoản mục còn lại trên báo cáo quyết toán thu NSNN không được xác định trọng yếu, nhưng nếu xét tổng hợp có thể trở thành trọng yếu hay không.
TT |
Khoản mục |
Giá trị (tỷ đồng) |
Khoản mục trọng yếu (Có/ Không) |
Lý do |
1 |
Thuế thu nhập cá nhân |
160 |
Không |
Đây là khoản thu chiếm tỷ lệ nhỏ và thường ít sai sót |
2 |
Phí lệ phí |
40 |
Không |
Đây là khoản thu chiếm tỷ lệ nhỏ và thường ít sai sót |
3 |
Thu từ cổ tức và lợi nhuận sau thuế |
70 |
Có |
Tuy số thu ít nhưng thường xảy ra việc kê khai thiếu số phải nộp |
4 |
Thu từ khu vực kinh tế NQD |
1.500 |
Có |
Có số thu chiếm tỷ trọng lớn, thường xảy ra việc kê khai thiếu số phải nộp |
|
.... |
|
|
|
Ví dụ (tiếp theo ví dụ tại Bảng 4): Giả thiết qua khảo sát đối với địa phương A đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu của khoản mục Chi đầu tư phát triển là cao nên KTVNN chọn tỷ lệ xác định mức trọng yếu thực hiện là 50% mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP. Như vậy, mức trọng yếu thực hiện = 50% x 15.000 triệu đồng = 7.500 triệu đồng;
Ngưỡng sai sót không đáng kể |
= |
Tỷ lệ phần trăm (%) xác định ngưỡng sai sót không đáng kể |
X |
Mức trọng yếu đối với tổng thể BCNSĐP |
Ví dụ (Tiếp ví dụ tại bảng 3): ngưỡng sai sót không đáng kể là 180 triệu đồng. Điều này có nghĩa nếu KTVNN phát hiện các sai sót nhỏ hơn hoặc bằng 180 triệu đồng thì KTVNN sẽ đánh giá nếu sai sót không có yếu tố gian lận, thất thoát vốn nhà nước, không phải sai sót phổ biến thì có thể coi là sai sót không đáng kể.
Ví dụ (tiếp theo ví dụ tại Bảng 4): Đối với khoản mục cần lưu ý “Chi đầu tư phát triển thì ngưỡng sai sót không đáng kể được xác định bằng = 1% x 15.000 triệu đồng = 150 triệu đồng.
Việc thiết kế các biện pháp xử lý tổng thể đối với các rủi ro có sai sót trọng yếu đã được đánh giá ở cấp độ BCNSĐP được vận dụng theo hướng dẫn từ các Đoạn 06 đến Đoạn 09 CMKTNN số 1330 - Biện pháp xử lý rủi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính. Trong đó, lưu ý các nội dung sau:
- Thực hiện các thử nghiệm cơ bản đối với các khoản mục và các cơ sở dẫn liệu được đánh giá là không trọng yếu.
- Sử dụng các phương pháp chọn mẫu khác nhau.
- Thực hiện các thủ tục kiểm toán tại các địa điểm khác nhau hoặc tại các địa điểm không thông báo trước cho đơn vị được kiểm toán.
- Thực hiện thêm các thủ tục kiểm toán.
- Thu thập thêm các bằng chứng kiểm toán từ các thử nghiệm cơ bản.
- Mở rộng phạm vi kiểm toán.
Việc thiết kế thủ tục kiểm toán đối với rủi ro có sai sót trọng yếu đã được đánh giá ở cấp độ cơ sở dẫn liệu được vận dụng theo hướng dẫn từ các Đoạn 12 đến Đoạn 51 CMKTNN số 1330 - Biện pháp xử lý rủi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính, trong đó lưu ý KTVNN phải dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro ở cấp độ cơ sở dẫn liệu khi thiết kế các thủ tục kiểm toán:
Ví dụ: Khi thực hiện kiểm toán đánh giá khoản thu từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đây là một khoản thu được đánh giá dễ xảy ra rủi ro do các doanh nghiệp cố tình kê khai thấp dẫn đến thất thu NSNN. KTVNN ngoài thu thập các bằng chứng do cơ quan thuế cung cấp (như các tờ khai thuế, báo cáo tài chính của doanh nghiệp…), thì để thu thập bằng chứng tin cậy hơn KTVNN có thể yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp bổ sung các bằng chứng khác có liên quan (như các sổ kế toán chi tiết, các hợp đồng kinh tế, biên bản kiểm kê hàng hóa…).
Ví dụ: trường hợp KTVNN thu thập các bằng chứng để đánh giá chỉ tiêu thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. Đây là các khoản thu được đánh giá rủi ro thấp, KTVNN chỉ cần thực hiện các thủ tục phân tích cơ bản để thu thập bằng chứng đánh giá tính hợp lý của khoản thu.
Ví dụ: trường hợp KTVNN đánh giá các nhóm giao dịch được xử lý thường xuyên và được đơn vị kiểm soát thông qua hệ thống công nghệ thông tin, ví dụ như: Nghiệp vụ lập tờ khai hải quan điện tử, thực hiện phân luồng tờ khai tự động của Cơ quan Hải quan; việc thực hiện kê khai thuế và nộp tờ khai qua mạng của cơ quan thuế…
- Khi đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ sở dẫn liệu, KTVNN kỳ vọng rằng các kiểm soát hoạt động hiệu quả và có ý định dựa vào tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát để xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thử nghiệm cơ bản.
- Hoặc thực hiện các thử nghiệm cơ bản không thể cung cấp đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp ở cấp độ cơ sở dẫn liệu.
- Các thử nghiệm kiểm soát chỉ được thực hiện đối với những kiểm soát mà KTVNN xác định rằng nó được thiết kế phù hợp để ngăn chặn hoặc phát hiện và sửa chữa một sai sót trọng yếu trong một cơ sở dẫn liệu.
Ví dụ: Quy trình quản lý thu của cơ quan thuế được thực hiện một cách chặt chẽ, có tuân thủ các bước theo quy trình quản lý thu của Tổng cục thuế ban hành….
- Khi kiểm tra tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát của đơn vị được kiểm toán, KTVNN thường kết hợp kiểm tra tính hữu hiệu của các hoạt động kiểm soát với việc đánh giá quá trình thiết kế, xây dựng, ban hành và thực hiện các kiểm soát đó.
Ví dụ: Kiểm toán công tác quản lý chi NSNN cần xem xét, đánh giá quy trình thẩm tra, quyết toán hàng năm của Sở Tài chính đối với các đơn vị, việc thực hiện thẩm tra quyết toán có kịp thời và đảm bảo theo quy định.
- Để thu thập các bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát, KTVNN có thể thực hiện một số thủ tục như phỏng vấn, quan sát, kiểm tra, thực nghiệm nhằm thu thập bằng chứng xác định tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát của đơn vị được kiểm toán.
- KTVNN có thể thiết kế một thử nghiệm kiểm soát để thực hiện đồng thời với việc kiểm tra chi tiết cùng một giao dịch, gọi là “thử nghiệm kép”.
Ví dụ: Khi thực hiện kiểm toán các khoản chi hỗ trợ doanh nghiệp, KTVNN có thể lựa chọn một số khoản chi lớn, một số doanh nghiệp để kiểm tra việc tuân thủ quy định trong thẩm quyền phê duyệt, trình tự thủ tục chi, nội dung hỗ trợ và mức hỗ trợ so với văn bản đã phê duyệt, đồng thời thu thập bằng chứng chi tiết để đánh giá tính phù hợp, cần thiết, hiệu quả của việc hỗ trợ.
- Khi thiết kế các thử nghiệm kiểm soát, KTVNN cần kết hợp thủ tục phỏng vấn với các thủ tục kiểm toán khác như: thủ tục phỏng vấn kết hợp với kiểm tra hoặc thực hiện lại; thủ tục phỏng vấn kết hợp với quan sát;... nhằm thu thập bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát (ví dụ: việc thực hiện các kiểm soát tại các thời điểm liên quan trong suốt thời kỳ được kiểm toán; tính nhất quán trong việc thực hiện các kiểm soát; người thực hiện và cách thức thực hiện các kiểm soát).
- Xác định mức độ phụ thuộc của các kiểm soát được thử nghiệm vào các kiểm soát khác; nếu có phụ thuộc, KTVNN cần cân nhắc việc thu thập bằng chứng kiểm toán để chứng minh tính hữu hiệu của các hoạt động kiểm soát khác này.
- Nội dung của một kiểm soát cụ thể sẽ ảnh hưởng đến loại thủ tục cần thực hiện để thu thập bằng chứng kiểm toán về tính hoạt động hữu hiệu của kiểm soát đó. Nếu muốn chứng minh tính hữu hiệu của kiểm soát dưới hình thức văn bản thì KTVNN cần kiểm tra tài liệu của đơn vị được kiểm toán để thu thập bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu đó. Trong trường hợp không có tài liệu về hoạt động của một số yếu tố thuộc môi trường kiểm soát của đơn vị hoặc các hoạt động kiểm soát được xử lý bằng máy tính thì KTVNN có thể thu thập bằng chứng về tính hữu hiệu của các kiểm soát bằng cách phỏng vấn kết hợp với quan sát hoặc sử dụng các kỹ thuật kiểm toán với sự hỗ trợ của máy tính.
- KTVNN phải mở rộng phạm vi thử nghiệm đối với một kiểm soát khi cần thu thập bằng chứng kiểm toán thuyết phục hơn về tính hữu hiệu của kiểm soát đó. Khi xác định phạm vi của thử nghiệm kiểm soát, KTVNN cần xem xét các vấn đề sau:
+ Tần suất thực hiện kiểm soát của đơn vị trong suốt giai đoạn được kiểm toán.
+ Khoảng thời gian trong giai đoạn được kiểm toán mà KTVNN tin cậy vào tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát.
+ Tỷ lệ sai lệch dự kiến của một kiểm soát.
+ Tính thích hợp và độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán cần thu thập về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát ở cấp độ cơ sở dẫn liệu.
+ Phạm vi liên quan đến cơ sở dẫn liệu của bằng chứng kiểm toán cần thu thập được từ các thử nghiệm kiểm soát khác.
- Trong trường hợp đơn vị được kiểm toán sử dụng công nghệ thông tin để kiểm soát, thì KTVNN sẽ thực hiện các thử nghiệm sau:
+ Các thay đổi của chương trình chỉ được thực hiện khi có sự kiểm soát thích hợp đối với các thay đổi đó.
+ Phiên bản chính thức của chương trình được sử dụng để xử lý giao dịch.
+ Các kiểm soát chung khác có liên quan được thực hiện hiệu quả.
- Tùy vào mục đích kiểm toán, KTVNN phải thực hiện thử nghiệm kiểm soát cho một thời điểm cụ thể, hoặc cho cả giai đoạn để đưa ra cơ sở thích hợp cho sự tin cậy vào các kiểm soát đó.
- Khi thực hiện các thử nghiệm kiểm soát, KTVNN cũng cần phải xác định tính thích hợp của các bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát đã có từ các cuộc kiểm toán trước và xác định thời gian tiến hành lại thử nghiệm kiểm soát thông qua việc xem xét những vấn đề sau:
+ Tính hữu hiệu của môi trường kiểm soát, việc giám sát các kiểm soát và quy trình đánh giá rủi ro của đơn vị; tính hữu hiệu của các kiểm soát chung về công nghệ thông tin; tính hữu hiệu của kiểm soát và việc thực hiện kiểm soát đó của đơn vị.
+ Khi hoàn cảnh thay đổi thì các kiểm soát hiện tại có phù hợp hay không.
+ Rủi ro có sai sót trọng yếu và mức độ tin cậy vào các kiểm soát.
- Nếu dự định sử dụng bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát cụ thể đã thu thập được từ cuộc kiểm toán trước, KTVNN phải chứng minh rằng các bằng chứng đó vẫn còn giá trị bằng cách thu thập bằng chứng kiểm toán về việc phát sinh những thay đổi đáng kể trong các kiểm soát đó kể từ sau cuộc kiểm toán trước. KTVNN phải thu thập bằng chứng này bằng cách thực hiện phỏng vấn kết hợp với quan sát hoặc điều tra, để xác nhận sự hiểu biết về các kiểm soát cụ thể đó, đồng thời phải xem xét:
+ Nếu có những thay đổi ảnh hưởng đến sự phù hợp của bằng chứng kiểm toán đã thu thập từ cuộc kiểm toán trước, KTVNN phải thực hiện thử nghiệm kiểm soát trong cuộc kiểm toán hiện tại.
+ Nếu không có thay đổi nào, cho dù không phải tiến hành thử nghiệm tất cả các kiểm soát, nhưng KTVNN vẫn cần thực hiện thử nghiệm đối với một số kiểm soát trong mỗi cuộc kiểm toán để tránh tình trạng dự định tin cậy hoàn toàn vào cuộc kiểm toán trước.
- Trong trường hợp rủi ro có sai sót trọng yếu càng cao, KTVNN có thể rút ngắn thời gian kiểm tra lại một kiểm soát, hoặc làm cho KTVNN quyết định không tin cậy vào bằng chứng kiểm toán thu thập được từ các cuộc kiểm toán trước, bao gồm:
+ Sự yếu kém của môi trường kiểm soát, công tác giám sát các kiểm soát và các kiểm soát chung về công nghệ thông tin của đơn vị.
+ Các kiểm soát liên quan có một yếu tố quan trọng được thực hiện thủ công.
+ Thay đổi nhân sự có ảnh hưởng đáng kể đến việc ứng dụng một kiểm soát.
+ Tình hình thay đổi dẫn đến sự cần thiết phải thay đổi về kiểm soát.
Nếu KTVNN dự định tin cậy vào các kiểm soát đối với một rủi ro xác định là đáng kể, KTVNN phải thử nghiệm các kiểm soát để xử lý rủi ro đáng kể đó.
- Khi đánh giá tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát liên quan, KTVNN phải đánh giá liệu các sai sót được phát hiện từ các thử nghiệm cơ bản cho thấy các kiểm soát hoạt động hiệu quả hay không hiệu quả. Tuy nhiên, nếu các thử nghiệm cơ bản không phát hiện ra sai sót thì không có nghĩa là các kiểm soát có liên quan đến cơ sở dẫn liệu được thử nghiệm là hiệu quả.
- Nếu phát hiện những sai lệch trong các kiểm soát mà dự định tin cậy vào, KTVNN phải thực hiện những cuộc phỏng vấn cụ thể để tìm hiểu về những vấn đề này cũng như những hậu quả tiềm tàng và phải xác định:
+ Các thử nghiệm kiểm soát đã thực hiện có cung cấp cơ sở thích hợp để KTVNN tin cậy vào các kiểm soát đó hay không.
+ Có cần thực hiện các thử nghiệm kiểm soát bổ sung hay không.
+ Hoặc các rủi ro có khả năng xảy ra sai sót có cần được xử lý bằng cách áp dụng các thử nghiệm cơ bản hay không.
- Việc đánh giá rủi ro của KTVNN là mang tính xét đoán chuyên môn, do đó KTVNN có thể không phát hiện ra tất cả các rủi ro có sai sót trọng yếu.
- Có những hạn chế tiềm tàng trong hệ thống kiểm soát nội bộ, bao gồm cả việc lãnh đạo đơn vị được kiểm toán khống chế hoạt động kiểm soát.
Ví dụ: Bộ phận chuyên môn được giao nhiệm vụ là những cán bộ mới, thiếu cơ chế kiểm soát, hoặc có cơ chế nhưng thực hiện không đầy đủ, không hiệu quả.
- Các thử nghiệm cơ bản bao gồm thủ tục phân tích cơ bản và kiểm tra chi tiết (kiểm tra, đối chiếu; xác nhận từ bên ngoài; tính toán lại; điều tra; kiểm tra thực tế hiện trường; thuê chuyên gia, tư vấn;...). KTVNN cần phải xác định nội dung và phạm vi thử nghiệm cơ bản cho phù hợp với tình hình kiểm toán cụ thể. Tùy từng trường hợp, KTVNN có thể chỉ thực hiện các thủ tục phân tích cơ bản, hoặc chỉ thực hiện kiểm tra chi tiết hoặc kết hợp thực hiện cả thủ tục phân tích cơ bản và kiểm tra chi tiết để xử lý rủi ro đã được đánh giá.
- Thủ tục phân tích cơ bản thường được áp dụng cho số lượng lớn các giao dịch có thể dự đoán theo thời gian. Các yêu cầu và hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng thủ tục phân tích trong việc kiểm toán được quy định tại CMKTNN 1520 - Thủ tục phân tích trong kiểm toán tài chính. Trong đó lưu ý:
+ So sánh và phân tích để đánh giá sự phù hợp, mức độ chính xác, mức độ tin cậy của các thông tin tài chính của đơn vị với các thông tin có thể so sánh được (thông tin của kỳ trước, số dự toán, số kế hoạch, các ước tính của KTVNN, hoặc các thông tin tương tự trong ngành, lĩnh vực và địa phương).
Ví dụ: Kiểm toán Chi bổ sung kinh phí cho ngân sách cấp dưới KTVNN có thể so sánh số bổ sung cân đối năm nay so với năm trước hay số dự toán so với số thực hiện để đánh giá.
+ Xem xét, đánh giá sự phù hợp của các mối quan hệ giữa các yếu tố của thông tin tài chính được kỳ vọng theo một chiều hướng có thể dự đoán được của đơn vị được kiểm toán, giữa thông tin tài chính và thông tin phi tài chính của đơn vị được kiểm toán.
Ví dụ: Thu ngân sách của tỉnh A phụ thuộc rất lớn vào nguồn thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong năm, sự thay đổi chính sách nhà nước về lĩnh vực đầu tư nước ngoài như: thay đổi thuế suất nguyên liệu nhập khẩu, quy định tỷ lệ nội địa hóa… dẫn đến hoạt động của các doanh nghiệp bị ảnh hưởng, có chiều hướng giảm sút. KTVNN cần xem xét sự ảnh hưởng của thay đổi chính sách này với số thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm trong năm.
+ KTVNN có thể sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau để thực hiện các thủ tục phân tích như: phân tích tỷ suất, phân tích xu hướng, phân tích cơ cấu…
- Khi thiết kế kiểm tra chi tiết, KTVNN phải xem xét bản chất của rủi ro và cơ sở dẫn liệu. Ví dụ: khi kiểm tra chi tiết liên quan đến cơ sở dẫn liệu “tính đầy đủ”, KTVNN cần lựa chọn số liệu từ những khoản mục sẽ phải có trong BCNSĐP và kiểm tra xem các khoản mục đó đã được trình bày trong BCNSĐP hay chưa.
- Khi xác định phạm vi kiểm tra chi tiết, KTVNN thường xem xét việc lựa chọn quy mô mẫu, xác định phương pháp hiệu quả để lựa chọn các phần tử kiểm tra nhằm đạt được mục đích của thủ tục kiểm toán. Các yêu cầu và hướng dẫn về chọn mẫu kiểm toán thực hiện theo quy định tại Điều 12 Hướng dẫn này.
- Thử nghiệm cơ bản của KTVNN phải bao gồm các thủ tục kiểm toán liên quan đến quy trình khóa sổ kế toán lập BCNSĐP, như:
+ Đối chiếu số liệu trên BCNSĐP với số liệu trên sổ kế toán.
+ Kiểm tra các bút toán quan trọng và các điều chỉnh khác được thực hiện trong quá trình lập và trình bày BCNSĐP.
+ Đối chiếu với những hồ sơ tài liệu khẳng định tính hiện hữu của tài sản tại thời điểm khóa sổ (kiểm kê, xác nhận…).
+ Việc tổng hợp, tính toán và cộng dồn để đảm bảo yêu cầu đầy đủ và thích hợp của thông tin BCNSĐP.
- Nội dung, phạm vi kiểm tra các bút toán và điều chỉnh khác của KTVNN phụ thuộc vào tính chất, mức độ phức tạp của quy trình lập BCNSĐP của đơn vị và các rủi ro có sai sót trọng yếu liên quan.
- Lấy mẫu thống kê: Các phần tử được lựa chọn ngẫu nhiên vào mẫu; sử dụng lý thuyết xác suất thống kê để đánh giá kết quả mẫu, bao gồm cả việc định lượng rủi ro lấy mẫu. Cụ thể:
+ Lựa chọn ngẫu nhiên: Là việc lựa chọn các phần tử mẫu một cách ngẫu nhiên (ví dụ sử dụng một số chương trình chọn số ngẫu nhiên, chẳng hạn các bảng số ngẫu nhiên);
+ Lựa chọn theo hệ thống: Là việc lựa chọn một cách có hệ thống, trong đó số lượng đơn vị lấy mẫu trong tổng thể được chia cho cỡ mẫu để xác định khoảng cách lấy mẫu. Khi sử dụng phương pháp chọn mẫu theo hệ thống, KTVNN xác định rằng các đơn vị lấy mẫu trong tổng thể không được sắp xếp sao cho khoảng cách lấy mẫu trùng hợp với một kiểu sắp xếp nhất định trong tổng thể;
+ Lựa chọn bất kỳ: Là việc chọn mẫu không theo một trật tự nào nhưng phải tránh bất kỳ sự thiên lệch hoặc định kiến chủ quan nào và do đó đảm bảo rằng tất cả các phần tử trong tổng thể đều có cơ hội được lựa chọn. Lựa chọn bất kỳ không phải là phương pháp thích hợp khi lấy mẫu thống kê.
- Lấy mẫu phi thống kê: KTVNN có thể quyết định lựa chọn một số phần tử đặc biệt do các phần tử này có nghi ngờ (biến động bất thường, có nguy cơ rủi ro cao hoặc đã từng bị nhầm lẫn,...); phân nhóm theo giá trị để có thể quyết định kiểm tra tất cả các phần tử có giá trị được ghi nhận cao hơn một giá trị nhất định nhằm xác minh một phần lớn trong tổng giá trị của một khoản mục. Cụ thể:
+ Lựa chọn theo giá trị: Là phương pháp lựa chọn dựa vào giá trị của phần tử, theo đó các phần tử có tiêu chí giá trị lớn hơn có cơ hội được lựa chọn cao hơn. Chỉ tiêu giá trị có thể là đơn vị tiền hoặc đơn vị hiện vật;
+ Lựa chọn theo khối: Là việc lựa chọn một hay nhiều khối phần tử liên tiếp nhau trong một tổng thể. Trong một số trường hợp, kiểm tra một khối các phần tử cũng là một thủ tục kiểm toán thích hợp, nhưng phương pháp này thường không được sử dụng để lựa chọn các phần tử của mẫu khi KTVNN dự tính đưa ra kết luận về toàn bộ tổng thể dựa trên mẫu.
KTVNN phải xác định rõ ngay từ giai đoạn lập kế hoạch cách lựa chọn các phần tử thử nghiệm để thu thập bằng chứng kiểm toán khi tiến hành thử nghiệm cơ bản đối với từng khoản mục trọng yếu trên BCNSĐP.
Trên cơ sở xác định các khoản mục trọng yếu đã xác định, KTVNN cần phân loại các khoản mục trọng yếu thành 2 loại để xác định tổng thể chọn mẫu phù hợp:
- Loại 1. Khoản mục có rủi ro kê khai cao hơn so với thực tế: Tổng thể chọn mẫu phù hợp là tổng thể đã ghi nhận trên BCNSĐP.
Ví dụ: Chi từ nguồn dự phòng có thể được chi cho những nhiệm vụ không phải cấp bách và không thực sự cần thiết; sử dụng dự phòng sai thẩm quyền, sai chế độ tài chính, không đủ thủ tục…
- Loại 2. Khoản mục có rủi ro bị kê khai thấp hơn so với thực tế: Tổng thể chọn mẫu phù hợp không chỉ bao gồm tổng thể đã ghi nhận trên BCNSĐP, mà còn phản ánh ở các tổng thể khác nhằm tìm ra những khoản mục chưa được ghi sổ.
Ví dụ: Các khoản thu chưa được phản ánh đầy đủ, có khả năng bỏ sót nguồn thu.
Để nâng cao hiệu quả và giảm thiểu rủi ro, KTVNN cần lựa chọn các phần tử nghi ngờ, bất thường, có nguy cơ rủi ro cao hoặc đã từng bị nhầm lẫn (ví dụ: đã được phát hiện từ các cuộc kiểm toán tương tự ...) để kiểm tra.
Ví dụ: Trong các cuộc kiểm toán trước đã phát hiện một số gian lận trong việc chi các khoản trợ giá cho các hoạt động dịch vụ công ích thì trong quá trình kiểm toán cần phải quan tâm xem xét chỉ tiêu này.
- KTVNN thực hiện kiểm toán toàn bộ những phần tử có giá trị lớn hơn một giá trị nhất định (gọi là giá trị lấy mẫu) để kiểm toán 100%. Mức giá trị lấy mẫu này có thể được xác định cao hơn hoặc bằng khoảng cách mẫu.
- Xác định khoảng cách mẫu: Khoảng cách mẫu = Mức trọng yếu thực hiện/ R.
Trong đó: R (Hệ số rủi ro) được xác định dựa trên mức độ đảm bảo cần thiết từ mẫu, bao gồm 3 mức độ (cao, trung bình, thấp). R (Hệ số rủi ro) áp dụng tỷ lệ với đánh giá rủi ro: Nếu đánh giá rủi ro cao thì áp dụng R ở mức cao và ngược lại nếu đánh giá rủi ro thấp thì áp dụng R ở mức thấp. Tỷ lệ này phụ thuộc vào kết quả đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu đối với khoản mục, nhóm giao dịch, số dư tài khoản và thông tin thuyết minh được kiểm toán (tính trong khung từ 0,5 đến 3 theo Bảng 6 của hướng dẫn này), cụ thể:
Mức độ đảm bảo |
Hệ số rủi ro khoản mục trên BCNSĐP |
Thấp |
0,5 |
Trung bình |
1,5 |
Cao |
3 |
Ví dụ: Với ví dụ trên Bảng 5, khoản mục Thu từ các doanh nghiệp NQD được xác định rủi ro có sai sót trọng yếu ở mức cao (rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là cao). Trong trường hợp này mức độ đảm bảo tiềm tàng và kiểm soát xác định mức thấp nên mức độ đảm bảo phát hiện xác định ở mức cao nhất R =3, khi đó KTVNN xác định mức giá trị lấy mẫu như sau:
Khoảng cách mẫu = 60 tỷ đồng/3 =20 tỷ đồng. Khi đó, các phần tử có giá trị từ 20 tỷ đồng trở lên sẽ được chọn mẫu kiểm toán 100%.
- Xác định kích cỡ mẫu trong tổng thể còn lại được xác định bằng đối với các Khoản mục có rủi ro kê khai cao hơn so với thực tế
(Giá trị Tổng thể - Giá trị kiểm toán 100% - Giá trị phần tử đặc biệt)
K = -----------------------------------------------------------------------------
Khoảng cách mẫu
Ví dụ (tiếp theo ví dụ trên): Thu từ các doanh nghiệp NQD là khoản mục trọng yếu có giá trị 1.500 tỷ đồng, giả sử các phần tử lớn hơn khoảng cách mẫu chọn (20 tỷ đồng) kiểm toán (100%) là 500 tỷ đồng, không có các phần tử đặc biệt, giá trị các phần tử còn lại là 1.000 tỷ đồng. Khi đó cách xác định số lượng mẫu chọn của các phần tử còn lại tương ứng theo 3 mức đánh giá rủi ro (cao, thấp, trung bình) được thể hiện tại Bảng 7 như sau:
Khoản mục |
Giá trị của tổng chọn mẫu |
Hệ số rủi ro |
Mức trọng yếu thực hiện |
Khoảng cách mẫu |
Giá trị của các phần tử lớn hơn khoảng cách mẫu (kiểm toán 100%) |
Giá trị các phần tử còn lại |
Số lượng chọn phần còn lại |
|
Mức đảm bảo |
Hệ số rủi ro |
|||||||
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6=5/4 |
7 |
8 |
9=8/6 |
Thu từ các doanh nghiệp NQD |
1.500.000 Trđ |
Cao |
3 |
60.000 Trđ |
20.000 Trđ |
500.000 Trđ |
1.000.000 Trđ |
50 mẫu |
1.500.000 Trđ |
TB |
1,5 |
60.000 Trđ |
40.000 Trđ |
500.000 trđ |
1.000.000 Trđ
|
25 mẫu |
|
1.500.000 Trđ |
Thấp |
0,5 |
60.000 Trđ |
120.000 Trđ |
500.000 Trđ |
1.000.000 Trđ |
8 mẫu |
- Đối với các khoản mục có rủi ro kê khai thấp hơn so với thực tế (Loại 2): Xác định kích cỡ mẫu trong tổng thể hoàn toàn dựa trên xét đoán của KTVNN qua việc xác định các tổng thể phù hợp với mục tiêu kiểm toán.
Ví dụ: Để kiểm tra tính đầy đủ của các khoản thu liên quan đến đất đai: tiền thuê đất, thu sử dụng đất, KTVNN không chỉ kiểm tra các khoản tiền thuê đất, thu sử dụng đất đã thực hiện ghi sổ, mà còn phải kiểm tra hồ sơ liên quan đến việc kê khai, nộp tiền thu sử dụng đất, thuê đất của các doanh nghiệp...
- Theo giá trị: Đây là cách phân nhóm phổ biến nhất, dựa trên việc chia tổng thể thành các nhóm theo giá trị (các khoản mục có giá trị lớn hơn một số tiền nhất định; các khoản mục thấp hơn số tiền đã thiết lập).
- Theo bản chất của phần tử: Dựa trên nội dung của nghiệp vụ (khoản mục xây dựng; khoản mục thiết bị; khoản mục chi phí khác;...).
- Theo bản chất của thủ tục kiểm tra sẽ thực hiện (các khoản mục phải tính toán lại; khoản mục phải kiểm kê;...).
Các phương pháp phân nhóm nêu trên có thể được sử dụng riêng rẽ hoặc kết hợp (thực hiện phân nhóm theo bản chất của phần tử, sau đó theo giá trị của phần tử;...).
- Trường hợp chỉ kiểm toán tại một đơn vị và có đủ thông tin về các phần tử chọn mẫu, thì kế hoạch kiểm toán tổng quát xác định quy mô mẫu cho từng khoản mục trọng yếu (theo Phụ lục số 07/HD-RRTY-NSĐP).
- Trường hợp Đoàn kiểm toán thực hiện kiểm toán tại nhiều đơn vị chi tiết và chưa có đủ thông tin về các phần tử chọn mẫu thì: Trong kế hoạch kiểm toán tổng quát ghi rõ: “Nguyên tắc chọn mẫu cho từng khoản mục trọng yếu: Chọn kiểm tra chi tiết 100% các phần tử lớn hơn khoảng cách mẫu (xác định = Mức trọng yếu thực hiện/R; trong đó R là hệ số rủi ro xác định theo Bảng 6) và các phần tử đặc biệt (theo xét đoán hay có sai sót), ngoài ra phải chọn một số mẫu trong số phần tử còn lại để kiểm tra thử nghiệm (số mẫu = số phần tử còn lại/khoảng cách mẫu). Việc xác định quy mô mẫu chọn cho từng khoản mục cụ thể tại các đơn vị được kiểm toán chi tiết thể hiện tại kế hoạch kiểm toán chi tiết của Tổ kiểm toán theo Phụ lục số 07/HD-RRTY-NSĐP được thực hiện trong ngày đầu triển khai kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán”.
VẬN DỤNG ĐÁNH GIÁ RỦI RO VÀ XÁC ĐỊNH TRỌNG YẾU
TRONG GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN KIỂM TOÁN
- Nếu rủi ro có sai sót trọng yếu tăng lên, KTVNN phải mở rộng phạm vi các thủ tục kiểm toán, nghĩa là tăng số lượng thủ tục kiểm toán, tăng quy mô mẫu hoặc tăng số lần quan sát các kiểm soát. Trường hợp xử lý rủi ro có sai sót trọng yếu do gian lận, KTVNN phải tăng quy mô mẫu hoặc thực hiện các thủ tục phân tích cơ bản ở mức độ chi tiết hơn, thực hiện thủ tục xác nhận từ bên ngoài, thuê chuyên gia (trong trường hợp cần thiết), phỏng vấn, sử dụng sự hỗ trợ của phần mềm máy tính…
- Việc mở rộng phạm vi thủ tục kiểm toán chỉ có hiệu quả khi thủ tục kiểm toán phù hợp với những rủi ro được xác định trong từng trường hợp cụ thể.
Ví dụ về mở rộng phạm vi thủ tục kiểm toán: KTVNN chọn mẫu kiểm toán đối với hồ sơ thu tiền thuê đất tại Chi cục thuế có giá trị từ 1 tỷ đồng trở lên. KTVNN nhận thấy sai sót trọng yếu tăng lên, KTVNN cân nhắc mở rộng quy mô mẫu bằng cách lấy mẫu các phần tử có nội dung tương tự hoặc phần tử cùng nội dụng có giá trị thấp hơn. Trường hợp phát hiện có dấu hiệu gian lận về các yếu tố xác định tiền thuê đất như diện tích, vị trí... thì việc mở rộng thủ tục sử dụng phương pháp kiểm tra hiện trường, tìm hiểu nguyên nhân và hậu quả của việc gian lận là cần thiết.
KTVNN phải duy trì thái độ hoài nghi nghề nghiệp trong suốt cuộc kiểm toán, phải nhận thức được khả năng có thể tồn tại sai sót trọng yếu do gian lận. Trong quá trình thực hiện kiểm toán cần lưu ý:
- Nếu có các dấu hiệu làm cho KTVNN tin rằng một tài liệu có thể là không xác thực hoặc đã bị sửa đổi mà không được thông báo thì KTVNN phải tiến hành kiểm tra thêm bằng các thủ tục như: xác nhận trực tiếp với bên thứ ba; sử dụng chuyên gia để đánh giá tính xác thực của tài liệu đó; kiểm tra, xác minh tài liệu đó từ các nguồn thông tin khác.
- Nếu các giải trình của đơn vị được kiểm toán là không nhất quán, thì KTVNN phải tiến hành kiểm tra về các điểm không nhất quán đó.
- Mức độ sai sót mà KTVNN phát hiện khi thực hiện thử nghiệm cơ bản có thể làm thay đổi xét đoán chuyên môn của KTVNN về đánh giá rủi ro và có thể cho thấy khiếm khuyết nghiêm trọng trong kiểm soát nội bộ.
Ví dụ: Kế hoạch kiểm toán đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức thấp do đơn vị được kiểm toán có bộ máy kiểm soát nội bộ phù hợp với tổ chức, hoạt động, quy mô và đặc điểm sản xuất kinh doanh tại từng đơn vị; những quy trình kiểm soát nội bộ được thiết lập và hoạt động đầy đủ, có hiệu lực. Tuy nhiên, khi thực hiện kiểm tra hồ sơ, tài liệu để đánh giá việc chi mua sắm tài sản, KTVNN thấy đơn vị thực hiện chưa đúng và đủ các thủ tục cần thiết như phải lấy đủ báo giá, chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt….
- KTVNN nhận thấy sự thiếu nhất quán trong sổ kế toán, báo cáo quyết toán ngân sách và các thuyết minh kèm theo; những bằng chứng mâu thuẫn hoặc bị bỏ sót.
Ví dụ: Sổ chi tiết lệnh chi tiền không phản ánh đầy đủ các khoản chi hỗ trợ ngoài phân cấp…
- Các thủ tục phân tích được thực hiện trong giai đoạn soát xét tổng thể của cuộc kiểm toán cho thấy rủi ro có sai sót trọng yếu chưa được phát hiện trước đó.
Ví dụ: Giả sử trong giai đoạn lập kế hoạch đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của địa phương A là yếu kém nên KTVNN đánh giá rủi ro ở mức cao, lựa chọn mức trọng yếu đối với chỉ tiêu tổng chi thường xuyên ở mức thấp, lựa chọn mức độ đảm bảo cơ bản ở mức cao (R=3). Tuy nhiên, trong quá trình kiểm toán, KTVNN nhận thấy hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ của địa phương A là hiệu quả và xác định lại rủi ro ở mức thấp nên có sửa đổi mức trọng yếu thực hiện ở mức cao hơn và độ đảm bảo cơ bản thấp hơn (R = 1,5) và khi đó giảm số lượng các phần tử phải chọn mẫu kiểm toán.
Việc thực hiện đánh giá sai sót phát hiện thực hiện theo hướng dẫn tại CMKTNN số 1450 - Đánh giá sai sót phát hiện trong quá trình kiểm toán. Trong đó, lưu ý các nội dung sau:
- Bản chất của các sai sót đã được phát hiện và tình huống phát sinh các sai sót đó cho thấy có thể tồn tại các sai sót khác mà khi tổng hợp lại có thể đạt đến mức trọng yếu.
- Tổng hợp các sai sót đã được phát hiện trong quá trình thực hiện kiểm toán gần đạt tới mức trọng yếu thực hiện đã xác định.
Ví dụ: việc xác định sai các khoản thu sự nghiệp có thể dẫn đến sai sót trong việc xác định nguồn cải cách tiền lương trong năm.
Ví dụ : Giả sử tổng hợp các sai sót đã được phát hiện trong quá trình thực hiện kiểm toán là 57 tỷ đồng, gần bằng mức trọng yếu thực hiện là 60 tỷ đồng. KTVNN cần cân nhắc sự điều chỉnh kế hoạch kiểm toán vì có thể tồn tại các sai sót không được phát hiện nằm ngoài mẫu kiểm toán.
Khi phân tích các sai lệch và sai sót đã được phát hiện, KTVNN có thể nhận thấy nhiều sai lệch và sai sót có đặc điểm chung (ví dụ: việc xác định thiếu doanh thu và thuế GTGT đối với các phát sinh vào cuối niên độ kế toán của khối lượng xây lắp khi đối chiếu thuế tại các doanh nghiệp…). Trong trường hợp đó, KTVNN có thể xác định tất cả các phần tử trong tổng thể có cùng đặc điểm và mở rộng thủ tục kiểm toán đối với các phần tử đó. Ngoài ra, các sai lệch hay sai sót như vậy có thể là do cố ý và có thể là dấu hiệu của khả năng xảy ra gian lận.
- KTVNN phải đảm bảo ở mức độ cao rằng sai lệch hay sai sót đó không đại diện cho tổng thể.
- KTVNN phải thực hiện các thủ tục kiểm toán bổ sung để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp chứng minh rằng sai lệch hay sai sót đó không ảnh hưởng đến phần còn lại của tổng thể.
Ví dụ: KTVNN kiểm toán chọn mẫu một số khoản chi hỗ trợ ngoài nhiệm vụ phân cấp phát hiện có một khoản chi chưa đúng quy định, khi đó cần rà soát các khoản còn lại, nếu không xảy ra tình trạng tương tự thì sai sót này không đại diện cho tổng thể.
- Quy mô và bản chất của các sai sót trong mối quan hệ với các khoản mục và mối quan hệ với tổng thể BCNSĐP cũng như các tình huống cụ thể phát sinh sai sót.
- Ảnh hưởng của các sai sót phát hiện không được đơn vị điều chỉnh của kỳ trước đối với các khoản mục và mối quan hệ với tổng thể BCNSĐP.
Việc thực hiện tổng hợp và ước tính sai sót của tổng thể thực hiện theo hướng dẫn tại CMKTNN 1450 - Đánh giá sai sót phát hiện trong quá trình kiểm toán tài chính. Trong đó, lưu ý các nội dung sau:
Ví dụ: Nếu khoản thu từ đất bị phản ánh thấp hơn thực tế và sai sót này vượt quá mức trọng yếu thì BCNSĐP bị coi là có sai sót trọng yếu ngay cả khi ảnh hưởng của sai sót của khoản thu từ đất nói trên được bù trừ bởi sai sót do việc phản ánh không chính xác một số khoản thu khác và không gây nên sai sót về tổng các khoản thu trong năm.
Khi lập báo cáo kiểm toán, trên cơ sở các sai sót đã được phát hiện, KTVNN cần ước tính các sai sót trong tổng thể thông qua việc suy rộng các sai sót phát hiện trong mẫu kiểm toán cho toàn bộ tổng thể BCNSĐP theo quy định tại Đoạn 48 CMKTNN 1320 - Xác định và vận dụng trọng yếu kiểm toán trong kiểm toán tài chính và Đoạn 20 đến Đoạn 22 CMKTNN 1530 - Lấy mẫu trong kiểm toán tài chính (theo Phụ lục số 08/HD-RRTY- NSĐP). Trong đó, cần lưu ý:
- Các thử nghiệm kiểm soát đã thực hiện có cung cấp cơ sở thích hợp để KTVNN tin cậy vào các kiểm soát đó hay không.
- Có cần thực hiện các thử nghiệm kiểm soát bổ sung hay không.
- Hoặc các rủi ro có khả năng xảy ra sai sót có cần được xử lý bằng cách áp dụng các thử nghiệm cơ bản hay không.
VẬN DỤNG ĐÁNH GIÁ RỦI RO VÀ XÁC ĐỊNH TRỌNG
YẾU KHI HÌNH THÀNH Ý KIẾN VÀ LẬP BÁO CÁO KIỂM TOÁN
Việc hình thành ý kiến kiểm toán thực hiện theo hướng dẫn tại CMKTNN 1700 - Hình thành ý kiến kiểm toán và báo cáo kiểm toán trong kiểm toán tài chính và CMKTNN 1750 - Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần trong kiểm toán tài chính. Trong đó, lưu ý các nội dung sau:
- Trình bày ý kiến: “Trên cơ sở hồ sơ, tài liệu được các đơn vị được kiểm toán cung cấp và kết quả kiểm toán, xét trên các khía cạnh trọng yếu, BCNSĐP năm … của … đã phản ánh trung thực và hợp lý tình hình quyết toán ngân sách … tại thời điểm lập báo cáo, phù hợp với chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán áp dụng và quy định pháp luật có liên quan đến việc lập và trình bày BCNSĐP”.
- Ý kiến chấp nhận toàn phần được đưa ra khi: KTVNN kết luận rằng BCNSĐP phản ánh trung thực hợp lý, xét trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ quy định về lập và trình bày BCNSĐP được áp dụng (tổng hợp các sai sót ước lượng dưới mức trọng yếu tổng thể đã xác định và về định tính không có yếu tố gian lận).
- Cơ sở của ý kiến ngoại trừ: KTVNN cần nêu rõ những giới hạn không thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm căn cứ đưa ra ý kiến kiểm toán; hoặc nêu rõ các sai sót trọng yếu (mô tả và định lượng ảnh hưởng về mặt tài chính của vấn đề đó đến BCNSĐP trừ khi điều đó không thể thực hiện được). Đồng thời tham chiếu các sai sót trên được trình bày tại các phần hành có liên quan về các nội dung có chênh lệch giữa BCNSĐP và kết quả kiểm toán.
- Trình bày ý kiến: “Trên cơ sở hồ sơ, tài liệu được các đơn vị được kiểm toán cung cấp và kết quả kiểm toán, xét trên các khía cạnh trọng yếu, ngoại trừ sự ảnh hưởng (nếu có) của các vấn đề nêu tại đoạn “Cơ sở của ý kiến ngoại trừ” nói trên, BCNSĐP năm … của … đã phản ánh trung thực và hợp lý tình hình quyết toán ngân sách … tại thời điểm lập báo cáo, phù hợp với chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán áp dụng và quy định pháp luật có liên quan đến việc lập và trình bày BCNSĐP”.
- Ý kiến kiểm toán ngoại trừ được đưa ra khi:
+ Dựa trên các bằng chứng kiểm toán đầy đủ thích hợp đã thu thập được, KTVNN kết luận rằng các sai sót, xét riêng lẻ hay tổng hợp lại có ảnh hưởng trọng yếu nhưng không lan tỏa đến BCNSĐP (tổng hợp sai sót ước lượng lớn hơn mức trọng yếu tổng thể nhưng chỉ có ảnh hưởng giới hạn đến một số yếu tố, khoản mục cụ thể của BCNSĐP, thông tin tài chính và về định tính không có yếu tố gian lận, hoặc nếu có gian lận chưa đến mức thấp nhất phải truy cứu trách nhiệm hình sự bị phạt tù).
+ Hoặc KTVNN không thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm căn cứ đưa ra ý kiến kiểm toán, nhưng KTVNN kết luận rằng những ảnh hưởng có thể có của các sai sót chưa được phát hiện (nếu có) có thể trọng yếu nhưng không lan tỏa đến BCNSĐP (có thể chứa đựng sai sót lớn hơn mức trọng yếu tổng thể, nhưng chỉ có thể ảnh hưởng giới hạn đến một số yếu tố, khoản mục cụ thể của BCNSĐP, thông tin tài chính và về định tính không có yếu tố gian lận, hoặc nếu có gian lận chưa đến mức thấp nhất phải truy cứu trách nhiệm hình sự bị phạt tù).
- Cơ sở của ý kiến trái ngược: KTVNN cần nêu rõ các sai sót ảnh hưởng trọng yếu đến BCNSĐP và hầu hết các khoản mục trên báo cáo (mô tả và định lượng ảnh hưởng về mặt tài chính của vấn đề đó đến BCNSĐP trừ khi điều đó không thể thực hiện được) và về mặt định tính có yếu tố gian lận.
- Trình bày ý kiến: “Vì các vấn đề trọng yếu nêu tại đoạn “Cơ sở của ý kiến trái ngược” tại phần… của Báo cáo kiểm toán, xét trên khía cạnh trọng yếu, BCNSĐP năm …của … đã phản ánh không trung thực và hợp lý tình hình quyết toán ngân sách … tại thời điểm lập báo cáo, không phù hợp với chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán áp dụng và quy định pháp luật có liên quan đến việc lập và trình bày BCNSĐP”.
- Ý kiến kiểm toán trái ngược được đưa ra khi: Dựa trên các bằng chứng kiểm toán đầy đủ, thích hợp đã thu thập được, KTVNN kết luận là các sai sót, xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, có ảnh hưởng trọng yếu và lan tỏa đối với BCNSĐP (tổng hợp sai sót ước lượng lớn hơn mức trọng yếu tổng thể và ảnh hưởng đến phần lớn các yếu tố, khoản mục trên BCNSĐP; hoặc ảnh hưởng đến một hoặc một số yếu tố, khoản mục quan trọng của BCNSĐP, thông tin tài chính và về định tính có yếu tố gian lận cao hơn hoặc bằng mức thấp nhất phải truy cứu trách nhiệm hình sự bị phạt tù).
- Trình bày cơ sở của từ chối đưa ra ý kiến: KTVNN cần nêu rõ những giới hạn không thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm căn cứ đưa ra ý kiến kiểm toán do có thể có các sai sót ảnh hưởng trọng yếu và lan tỏa đến BCNSĐP (mô tả và định lượng ảnh hưởng về mặt tài chính của vấn đề đó đến BCNSĐP trừ khi điều đó không thể thực hiện được).
- Trình bày ý kiến: “Vì tầm quan trọng của vấn đề nêu tại đoạn “Cơ sở của của việc từ chối đưa ra ý kiến” ở trên, đoàn kiểm toán không thể thu thập được đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán. Do đó, đoàn kiểm toán không thể đưa ra ý kiến kiểm toán về BCNSĐP năm … của ….”
- KTVNN phải từ chối đưa ra ý kiến khi: Không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán do sự không chắc chắn hoặc do giới hạn về phạm vi kiểm toán và KTVNN kết luận rằng những ảnh hưởng có thể có của các sai sót chưa được phát hiện (nếu có) có thể ảnh hưởng trọng yếu và lan tỏa đến BCNSĐP (ảnh hưởng đến phần lớn các yếu tố, khoản mục trên BCNSĐP; hoặc ảnh hưởng đến một số yếu tố, khoản mục quan trọng của BCNSĐP, thông tin tài chính có thể gây thiệt hại cho nhà nước và các đơn vị khác có liên quan và về định tính có thể có yếu tố gian lận cao hơn mức thấp nhất phải truy cứu trách nhiệm hình sự bị phạt tù). Đồng thời trong Báo cáo kiểm toán phải kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra làm rõ, xử lý theo quy định của phát luật và báo cáo kết quả kiểm tra, xử lý cho KTNN.
Bảng 8 dưới đây minh họa cách xét đoán của KTVNN về bản chất của vấn đề dẫn tới việc KTVNN phải đưa ra ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần và tính chất lan tỏa của các ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng có thể có của vấn đề đó đối với BCNSĐP, thông tin tài chính, cũng như tác động của vấn đề đến loại ý kiến kiểm toán được đưa ra.
Bản chất của vấn đề dẫn tới việc KTVNN phải đưa ra ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần |
Xét đoán của KTVNN về tính chất lan tỏa của các ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng có thể có của vấn đề đó đối với BCNSĐP, thông tin tài chính |
|
Trọng yếu nhưng không lan tỏa |
Trọng yếu và lan tỏa |
|
BCNSĐP có sai sót trọng yếu |
Ý kiến kiểm toán ngoại trừ |
Ý kiến kiểm toán trái ngược |
Không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp |
Ý kiến kiểm toán ngoại trừ |
Từ chối đưa ra ý kiến |
Báo cáo kiểm toán phải đảm bảo các quy định từ Đoạn 118 đến Đoạn 125 CMKTNN 200 - Các nguyên tắc cơ bản của kiểm toán tài chính và CMKTNN 1700 - Hình thành ý kiến kiểm toán và báo cáo kiểm toán trong kiểm toán tài chính. Trong đó, lưu ý:
- Chính xác: Nội dung, số liệu trong báo cáo kiểm toán phải chính xác; các kết luận, kiến nghị kiểm toán phải dựa trên những bằng chứng kiểm toán đảm bảo yêu cầu đầy đủ và thích hợp.
- Có tính xây dựng: Các kết luận, kiến nghị trong báo cáo kiểm toán phải có tính xây dựng, giúp đơn vị phát huy được những ưu điểm, thế mạnh và khắc phục, sửa chữa những sai sót, hạn chế.
- Rõ ràng, súc tích: Văn phong dùng trong trình bày báo cáo kiểm toán phải trong sáng, ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, không gây ra nhiều cách hiểu khác nhau cho người sử dụng báo cáo; cấu trúc báo cáo phải chặt chẽ, hợp lý.
- Kịp thời: Báo cáo kiểm toán phải được lập và gửi đúng thời hạn theo quy định.
- Phần thông tin chủ yếu về đơn vị được kiểm toán.
- Trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán về BCNSĐP.
- Trách nhiệm của KTVNN là đưa ra ý kiến về BCNSĐP.
- Khái quát về các thủ tục kiểm toán chủ yếu đã thực hiện.
- Cơ sở đưa ra ý kiến của KTVNN.
- Ý kiến của KTVNN đối với BCNSĐP được kiểm toán.
- Vấn đề cần nhấn mạnh và vấn đề khác (nếu có).
- Các tài liệu tham chiếu có liên quan (nếu có).
- Trình bày đoạn này ngay sau đoạn “Ý kiến kiểm toán của KTVNN”.
- Sử dụng tiêu đề “Vấn đề cần nhấn mạnh”, hoặc các tiêu đề khác phù hợp.
- Thể hiện sự tham chiếu rõ ràng đến vấn đề được nhấn mạnh và đến các thuyết minh liên quan trong BCNSĐP có mô tả đầy đủ về vấn đề đó.
- Thể hiện là ý kiến của KTVNN không bị thay đổi do ảnh hưởng của vấn đề được nhấn mạnh đó.
|
TỔNG KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC |