Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Nghị quyết 35/2009/NQ-QH12 của Quốc hội về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm 2010 - 2011 đến năm 2014 - 2015
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết 35/2009/NQ-QH12
Cơ quan ban hành: | Quốc hội | Số công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 35/2009/NQ-QH12 | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Nguyễn Phú Trọng |
Ngày ban hành: | 19/06/2009 | Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Giáo dục-Đào tạo-Dạy nghề |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Nghị quyết 35/2009/NQ-QH12
NGHỊ QUYẾT
CỦA QUỐC HỘI SỐ 35/2009/NQ-QH12 NGÀY 19 THÁNG 06 NĂM 2009
VỀ CHỦ TRƯƠNG, ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI MỘT SỐ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH
TRONG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỪ NĂM HỌC 2010-2011
ĐẾN NĂM HỌC 2014-2015
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Căn cứ Luật tổ chức Quốc hội, Luật Giáo dục;
Trên cơ sở xem xét Tờ trình số 89/TTr-CP, ngày 20 tháng 05 năm 2009 của Chính phủ về Đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009-2014; Báo cáo thẩm tra số 717/BC-VHGDTTN ngày 28 tháng 05 năm 2009 của Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội; Báo cáo tiếp thu, giải trình số 252/BC-UBTVQH12 ngày 18 tháng 06 năm 2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
QUYẾT NGHỊ
Xây dựng một số cơ chế tài chính mới cho giáo dục và đào tạo, nhằm huy động ngày càng tăng và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nhà nước và xã hội để nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô và bảo đảm công bằng trong giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; góp phần xây dựng hệ thống các chính sách để tiến tới mọi người ai cũng được học hành với nền giáo dục có chất lượng ngày càng cao.
Học phí đối với giáo dục mầm non và phổ thông công lập phù hợp với điều kiện kinh tế của từng địa bàn dân cư, khả năng đóng góp thực tế của người dân, hướng tới miễn học phí vào thời điểm thích hợp. Tiếp tục thực hiện không thu học phí đối với học sinh tiểu học. Đối với học sinh mầm non, trung học cơ sở, trung học phổ thông và người học tại các trung tâm giáo dục thường xuyên thì thực hiện miễn học phí đối với học sinh là con của người có công với nước, đối tượng chính sách, hộ nghèo; giảm học phí cho học sinh hộ cận nghèo; hỗ trợ kinh phí cho học sinh hộ thu nhập quá thấp không có đủ điều kiện tối thiểu đi học. Học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đặc biệt xuất sắc, học sinh đạt giải nhất, nhì, ba tại các kỳ thi quốc gia và đoạt huy chương tại các kỳ thi quốc tế được xem xét cấp học bổng để học đại học.
Học phí đối với đào tạo nghề nghiệp và đại học công lập thực hiện theo nguyên tắc chia sẻ chi phí đào tạo giữa Nhà nước và người học. Những năm đầu, tổng học phí của các cơ sở đào tạo công lập chiếm không quá 40% tổng chi thường xuyên, những năm sau tăng dần phù hợp với lộ trình đổi mới chính sách học phí. Thực hiện miễn, giảm học phí cho học sinh, sinh viên là con của người có công với nước, các đối tượng chính sách; giảm 50% học phí cho học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở đi học nghề; học sinh học nghề, sinh viên hộ nghèo, cận nghèo và gia đình có hoàn cảnh khó khăn được vay tiền tại ngân hàng chính sách xã hội để học; tiếp tục thực hiện chế độ học bổng chính sách để hỗ trợ học sinh, sinh viên gia đình chính sách và học bổng khuyến khích học tập đối với học sinh, sinh viên học giỏi. Sinh viên tốt nghiệp đặc biệt xuất sắc được cấp học bổng để học tiếp ở trong nước và nước ngoài.
Nhà nước thực hiện cấp bù học phí cho các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, đào tạo nghề nghiệp và đại học có đối tượng được miễn, giảm học phí theo học. Cấp bù học phí (theo mức học phí của các trường công lập trong vùng) cho học sinh là con người có công với nước, các đối tượng chính sách học ở các trường mầm non, phổ thông ngoài công lập.
Các cơ sở giáo dục và đào tạo được thực hiện chương trình chất lượng cao và được thu học phí tương xứng để trang trải chi phí đào tạo.
Thực hiện kiểm định chất lượng các cơ sở đào tạo nghề nghiệp và đại học, các chương trình đào tạo và áp dụng cơ chế gắn học phí với chất lượng đào tạo.
Đối với các chương trình đại trà tại các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập, trong điều kiện nguồn lực nhà nước chưa đủ để miễn học phí thì mức học phí được xác định theo từng vùng ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, phù hợp với thu nhập bình quân và khả năng đóng góp thực tế của hộ gia đình, thực hiện tăng dần theo lộ trình hợp lý, mức trần chỉ áp dụng vào năm học 2014-2015.
Đối với các chương trình đại trà tại các cơ sở đào tạo nghề nghiệp và đại học công lập, học phí được xác định theo các nhóm ngành nghề đào tạo và các bậc học, gắn với chất lượng đào tạo, thực hiện lộ trình tăng dần, phù hợp với nguyên tắc chia sẻ và khả năng đóng góp thực tế của người học.
Chính sách học phí mới được thực hiện từ năm học 2010-2011. Riêng năm học 2009-2010, trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn, chưa ra khỏi suy giảm kinh tế, việc điều chỉnh tăng trần học phí tại các cơ sở đào tạo nghề nghiệp và đại học công lập (trừ đối tượng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học trung cấp nghề) chỉ thực hiện ở mức thấp mang tính quá độ trước khi thực hiện lộ trình điều chỉnh học phí từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014-2015.
Những cơ chế tài chính không liên quan đến học phí được áp dụng từ năm tài khóa 2010.
Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ năm thông qua ngày 19 tháng 06 năm 2009.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Nguyễn Phú Trọng
NGHỊ QUYẾT
CỦA QUỐC HỘI SỐ 35/2009/NQ-QH12 NGÀY 19 THÁNG
06 NĂM 2009
VỀ CHỦ TRƯƠNG, ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI MỘT SỐ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH
TRONG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỪ NĂM HỌC 2010-2011
ĐẾN NĂM HỌC 2014-2015
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
Căn cứ
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ
sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Căn cứ
Luật tổ chức Quốc hội, Luật Giáo dục;
Trên cơ
sở xem xét Tờ trình số 89/TTr-CP, ngày 20 tháng 05 năm 2009 của Chính phủ về Đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục
giai đoạn 2009-2014; Báo cáo thẩm tra số 717/BC-VHGDTTN ngày 28 tháng 05 năm
2009 của Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc
hội và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội; Báo cáo tiếp thu, giải trình số
252/BC-UBTVQH12 ngày 18 tháng 06 năm 2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
QUYẾT NGHỊ
Điều 1.
Mục tiêu của việc đổi mới cơ chế tài chính:
Xây dựng một số cơ chế tài chính mới cho giáo
dục và đào tạo, nhằm huy động ngày càng tăng và sử dụng có hiệu quả nguồn lực
của nhà nước và xã hội để nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô và bảo đảm công
bằng trong giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; góp phần xây dựng hệ thống các chính sách để tiến tới
mọi người ai cũng được học hành với nền giáo dục có chất lượng ngày càng cao.
Điều 2.
Chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính:
1. Nhà nước bảo đảm vai trò đầu tư chủ yếu cho
giáo dục và đào tạo; đồng thời huy động sự đóng góp theo khả năng thực tế của
gia đình người học; khuyến khích sự đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức
và cá nhân; tạo điều kiện thuận lợi thành lập và phát triển các cơ sở giáo dục
và đào tạo ngoài công lập; hỗ trợ các cơ sở giáo dục và đào tạo ngoài công lập đào
tạo nâng cao trình độ giáo viên và cán bộ quản lý.
2. Chính phủ quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và ở địa phương trong
việc lập, giao và thực hiện kế hoạch ngân sách giáo dục và đào tạo. Nhà nước
tiếp tục tăng đầu tư và cơ cấu lại chi ngân sách cho các mục tiêu của giáo dục
và đào tạo. Ưu tiên ngân sách cho phổ cập giáo dục tiểu học miễn học phí; phổ
cập giáo dục trung học cơ sở và phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi, trước mắt còn
có thu học phí; giáo dục ở các vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số; phát triển
dạy nghề và bồi dưỡng nhân tài. Ngân sách nhà nước đầu tư cho các cơ sở giáo
dục và đào tạo công lập bảo đảm đạt chuẩn chất lượng trong các giai đoạn phát
triển; hình thành một số cơ sở giáo dục và đào tạo chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn mới của đất nước.
3. Hoàn thiện cơ sở pháp lý và chính sách để
các cơ sở đào tạo nghề nghiệp và đại học công lập được tăng quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính.
Các cơ sở giáo dục và đào tạo phải bảo đảm sự tương quan giữa chất lượng giáo
dục, đào tạo với nguồn tài chính được đầu tư, sử dụng; công bố mục tiêu, năng
lực đào tạo, tài chính; thực hiện chế độ báo cáo tài chính với cơ quan quản lý
cấp trên trực tiếp theo quy định của nhà nước.
4. Các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục,
tài chính và các cơ quan hữu quan thực hiện thanh tra, kiểm tra, kiểm toán việc
sử dụng tài chính của các cơ sở giáo dục và đào tạo, bảo đảm công khai, minh
bạch, đúng mục đích và đúng quy định của pháp luật. Phụ huynh học sinh và cán
bộ, giáo viên ở các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông, học sinh, sinh viên và
cán bộ, giảng viên ở các cơ sở đào tạo nghề nghiệp và đại học có quyền và trách
nhiệm giám sát việc sử dụng kinh phí của cơ sở giáo dục và đào tạo theo quy chế
chi tiêu nội bộ của cơ sở giáo dục và đào tạo.
5. Thực hiện chính sách ưu tiên về lương và phụ
cấp cho đội ngũ nhà giáo; tiếp tục chính sách khuyến khích nhà giáo dạy học ở
các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và giáo dục hòa nhập; thực
hiện chế độ phụ cấp thâm niên đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; bảo
lưu phụ cấp đứng lớp trong thời hạn 3 năm cho nhà giáo được điều động làm công
tác quản lý giáo dục.
6. Đổi mới chính sách học phí, học bổng và hỗ
trợ người học theo hướng:
Học phí đối với giáo dục mầm non và phổ thông
công lập phù hợp với điều kiện kinh tế của từng địa bàn dân cư, khả năng đóng
góp thực tế của người dân, hướng tới miễn học phí vào thời điểm thích hợp. Tiếp
tục thực hiện không thu học phí đối với học sinh tiểu học. Đối với học sinh mầm
non, trung học cơ sở, trung học phổ thông và người học tại các trung tâm giáo
dục thường xuyên thì thực hiện miễn học phí đối với học sinh là con của người
có công với nước, đối tượng chính sách, hộ nghèo; giảm học phí cho học sinh hộ
cận nghèo; hỗ trợ kinh phí cho học sinh hộ thu nhập quá thấp không có đủ điều
kiện tối thiểu đi học. Học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đặc biệt xuất
sắc, học sinh đạt giải nhất, nhì, ba tại các kỳ thi quốc gia và đoạt huy chương
tại các kỳ thi quốc tế được xem xét cấp học bổng để học đại học.
Học phí đối với đào tạo nghề nghiệp và đại học
công lập thực hiện theo nguyên tắc chia sẻ chi phí đào tạo giữa Nhà nước và
người học. Những năm đầu, tổng học phí của các cơ sở đào tạo công lập chiếm
không quá 40% tổng chi thường xuyên, những năm sau tăng dần phù hợp với lộ
trình đổi mới chính sách học phí. Thực hiện miễn, giảm học phí cho học sinh,
sinh viên là con của người có công với nước, các đối tượng chính sách; giảm 50%
học phí cho học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở đi học nghề; học sinh học nghề,
sinh viên hộ nghèo, cận nghèo và gia đình có hoàn cảnh khó khăn được vay tiền
tại ngân hàng chính sách xã hội để học; tiếp tục thực hiện chế độ học bổng
chính sách để hỗ trợ học sinh, sinh viên gia đình chính sách và học bổng khuyến khích học tập đối với học sinh, sinh
viên học giỏi. Sinh viên tốt nghiệp đặc biệt xuất sắc được cấp học bổng để học
tiếp ở trong nước và nước ngoài.
Nhà nước thực hiện cấp bù học phí cho các cơ
sở giáo dục mầm non, phổ thông, đào tạo nghề nghiệp và đại học có đối tượng
được miễn, giảm học phí theo học. Cấp bù học phí (theo mức học phí của các
trường công lập trong vùng) cho học sinh là con người có công với nước, các đối
tượng chính sách học ở các trường mầm non, phổ thông ngoài công lập.
Các cơ sở giáo dục và đào tạo được thực hiện
chương trình chất lượng cao và được thu học phí tương xứng để trang trải chi
phí đào tạo.
Thực hiện kiểm định chất lượng các cơ sở đào
tạo nghề nghiệp và đại học, các chương trình đào tạo và áp dụng cơ chế gắn học
phí với chất lượng đào tạo.
7. Lộ trình thực hiện:
Đối với các chương trình đại trà tại các cơ sở
giáo dục mầm non và phổ thông công lập, trong điều kiện nguồn lực nhà nước chưa
đủ để miễn học phí thì mức học phí được xác định theo từng vùng ở mỗi tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, phù hợp với thu nhập bình quân và khả năng
đóng góp thực tế của hộ gia đình, thực hiện tăng dần theo lộ trình hợp lý, mức
trần chỉ áp dụng vào năm học 2014-2015.
Đối với các chương trình đại trà tại các cơ sở đào
tạo nghề nghiệp và đại học công lập, học phí được xác định theo các nhóm ngành
nghề đào tạo và các bậc học, gắn với chất lượng đào tạo, thực hiện lộ trình
tăng dần, phù hợp với nguyên tắc chia sẻ và khả năng đóng góp thực tế của người
học.
Chính sách học phí mới được thực hiện từ năm
học 2010-2011. Riêng năm học 2009-2010, trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều
khó khăn, chưa ra khỏi suy giảm kinh tế, việc điều chỉnh tăng trần học phí tại
các cơ sở đào tạo nghề nghiệp và đại học công lập (trừ đối tượng học sinh tốt
nghiệp trung học cơ sở vào học trung cấp nghề) chỉ thực hiện ở mức thấp mang
tính quá độ trước khi thực hiện lộ trình điều chỉnh học phí từ năm học
2010-2011 đến năm học 2014-2015.
Những cơ chế tài chính không liên quan đến học
phí được áp dụng từ năm tài khóa 2010.
Điều 3.
Tổ chức thực hiện:
1. Chính phủ quyết định cụ thể và chỉ đạo việc
tổ chức thực hiện chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong
giáo dục và đào tạo theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 của Nghị quyết này. Chỉ
đạo nghiên cứu kỹ lưỡng, toàn diện để sớm quy định khung học phí cho các chương
trình đại trà thuộc các nhóm ngành nghề đào tạo tại các cơ sở đào tạo công lập;
hướng dẫn mức thu học phí đối với các chương trình đại trà của các cơ sở giáo
dục và đào tạo ngoài công lập bảo đảm
tương quan hợp lý với các cơ sở công lập, đồng thời chỉ đạo chính quyền các cấp
có biện pháp kiểm soát học phí và chất lượng giáo dục của các cơ sở ngoài công
lập.
2. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương trên cơ sở hướng dẫn của Chính phủ, tổ chức xây dựng mức học
phí đối với các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập thuộc tỉnh trình Hội
đồng nhân dân cùng cấp quyết định.
3. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Văn hóa,
Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban khác
của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân
và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên của Mặt trận trong phạm vi trách nhiệm của mình giám sát việc triển
khai thực hiện Nghị quyết này.
Nghị
quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ
họp thứ năm thông qua ngày 19 tháng 06 năm 2009.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Nguyễn Phú Trọng